CHUẨN
BỊ CHO CÁI CHẾT
Nguyên tác:
Sri
Swami Rama
Việt dịch:
Diệu
Liên
Cái
chết cũng tự nhiên như sự sống,
cũng đầy mầu nhiệm và
huyền
diệu như sự sống.
Chúng ta cần hiểu về cái Chết để
biết Sống, ngược lại ta phải thông suốt về sự
Sống, để hiểu về cái Chết.
Chết
không phải là sự cáo chung của cuộc đời, nó là
sự gián đoạn của một dòng chảy. Cái Chết giống
như là một bến đỗ, một trạm dừng, một nơi chúng
ta xuống tàu để chuẩn bị cho một chuyến đi khác.
Nói thế không phải để làm
giảm ý
nghĩa của vấn đề Sinh Tử. Chúng ta đã sống như
thế nào, nói cách khác đi là sự chọn lựa chuyến
tàu để chúng ta bước chân lên, sẽ quyết định tâm
trạng của chúng ta khi tới bến, sẽ sửa sọan cho
chuyến đi sắp tới của chúng ta. Chúng ta có thể
đã chọn một con tàu rụt rặt, nhơ nhuốc, hay một
con tàu bóng loáng. Có thể chúng ta đã chọn một
chuyến tàu đầy thú vui, cám dỗ, với các cô gái
nhảy, các trò chơi,với bao mời mọc của tiền tài
và danh vọng. Chúng ta sẽ đau khổ biết bao khi
phải rời chuyến tàu đó nếu như chúng ta đã bị
dính mắc vào các thú vui hưởng thụ xác thịt. Mặt
khác có thể chúng ta đã chọn một chuyến tàu chở
ta qua bao nhiêu cảnh thiên nhiên đẹp đẽ bên
đường, một chuyến tàu mà khi đỗ bến, chúng ta
khoan khoái đứng dậy từ giã nó không quyến
luyến.
Đừng dính mắc
Chỉ có thân xác chúng ta
bị hủy
hoại, cái áo che cho Tâm thức chúng ta khi sống
ở đời. Tâm thức ta không hề bị hủy hoại.
Làm sao không buồn khi ta
phải
mất đi những gì chúng ta yêu thích ở cõi đời.
Khi người thân ta mất, hãy thương xót, nhưng
đừng để sự khổ đau về mất mát kéo dài đến phủ
lấp cuộc đời ta. Quá đau khổ là u mê. Vì sự mất
mát, cái chết là điều không thể tránh khỏi. Vì
thế, ở nhiều tôn giáo, nhiều tập quán văn hóa đã
đề ra thời gian dành cho tang chế. Thí dụ, người
Do thái tỏ lòng thương tiếc người chết bằng cách
ở trong nhà suốt 7 ngày, họ không ra đường trừ
khi khẩn cấp. Họ không cạo râu, không cắt tóc
hay mặc đồ mới. Họ còn không được ngồi trên ghế
hay mang giày. Trong 7 ngày nầy, họ chiêm nghiệm
về nỗi đau khổ của mình.
Chúng ta đau khổ vì sự ra
đi của
người thân và sợ cho chính cái Chết của mình.
Kiếp sống con người là một vòng tròn của đến và
đi, của Sinh và Tử. Sự mất mát thân xác không
phải là tất cả. Tâm vẫn tồn tại, vì thế đau khổ
kéo dài quá hạn định là u mê.
Nếu con người quá coi
trọng những
mất mát, thì cái Chết là một nỗi ám ảnh lớn lao,
khủng khiếp của họ. Với họ, cái Chết là sự tận
cùng của tất cả. Là nỗi khổ đau khôn tả. Nhưng
nếu chúng ta biết buông bỏ những gì đã qua, đã
mất dầu đó là của cải vật chất, hay thân bằng,
quyến thuộc, và chỉ chú trọng vào sự trường tồn
của Tâm thức thì cái Chết không còn đáng sợ nữa.
Đó chỉ là một ngã rẻ, một sự thay áo. Hãy thương
xót, nhưng chớ kéo dài quá lâu nỗi đau khổ. Lời
khuyên nầy có thể áp dụng cho tất cả mọi thứ mất
mát khác: tình yêu, hạnh phúc gia đình, công
việc làm, bạn bè, nhà cửa... Hãy đau khổ, nhưng
rồi bước tới.
Sợ chết, nỗi đau khổ vì
chết chóc
gây ra do ta bám víu vào những thứ bên ngoài
chúng ta như thân xác, danh vọng. Ta luôn tìm
cách chiếm đoạt của cải, tình cảm... trong đời
như một cách để phủ nhận cái Chết, để trốn tránh
phải đối mặt với thực tại là cuộc đời nầy chỉ
tạm bợ. Sự dính mắc, cái ý nghĩ là chúng ta
không thể sống thiếu những thứ đó càng làm cho
cái Chết trở nên thêm khủng khiếp. Trong khi
tính cách vô thường sẵn có trong mọi vật, trong
mọi tương quan tình cảm càng làm cho sự thay đổi,
mất mát là điều không thể tránh khỏi. Sự thay
đổi, sự hủy hoại, mất mát... không làm con người
thức tỉnh, trái lại còn làm họ thêm sợ. Họ sợ sự
mất mát của thân xác, tư tưởng, của cải, tương
quan tình cảm.
Chìa khóa để giải thoát
khỏi
những khổ đau nầy là buông bỏ mọi dính mắc.
Đức Phật đã dạy: Chúng ta
đau
khổ, lòng ham muốn khiến chúng ta sợ hãi, người
không ham muốn sẽ không đau khổ, bớt sợ hãi.
Bám Víu Vào Ngoại
Cảnh
Từ khi còn nhỏ, chúng ta
đã được
huân tập là Hạnh phúc được đo lường bằng những
của cải, tương quan tình cảm ta có thể chiếm hữu
được. Nên khi vật chất bị đánh mất, liên hệ tình
cảm thay đổi, con người trở nên khổ đau. Chúng
ta đã gắn chặt mình với những hình ảnh, tình cảm
nào đó, nên chúng ta đau khổ khi mất chúng.
Chúng ta nghĩ thân xác nầy là chính chúng ta nên
ta đau đớn khi nó bịnh hoạn, già nua hoặc khi
nhìn người khác bịnh hoạn, già nua, chúng ta
cũng thấy đau khổ.
Sự đau khổ là dấu hiệu của
sự mất
thăng bằng trong đời sống. Sự đau khổ khi mất
mát của cải vật chất, thay đổi tình cảm, hư hoại
cơ thể, nói với ta điều gì? Có thể đơn giản là
bản chất cuộc đời là như thế. Chúng ta có mặt ở
cõi đời, đấu tranh, giành giựt để đạt được những
gì ta nghĩ là ta cần có, và đau khổ trên con
đường tìm kiếm chúng. Hết chuyện. Nhưng thật vô
nghĩa nếu cuộc đời chỉ có thế. Nếu bạn cảm thấy
đau ở chân, cái đau báo cho bạn biết chân bạn bị
nhiễm trùng, bạn có chỉ rùng vai nói: "Ồ, đời
là vậy mà. Có chân, thì phải đau". Nếu thế,
sự nhiễm trùng sẽ lan tràn cơ thể, làm chúng ta
mất mạng sống. Như thế thật vô lý. Con người sẽ
biết cái đau đã báo hiệu một bộ phận nào đó bị
thương tổn, cần được chữa trị. Con người sẽ biết
cái đau là một vấn đề cần được giải quyết. Cũng
thế, những đau khổ trong cuộc đời có lẽ là dấu
hiệu cảnh báo với chúng ta rằng cách chúng ta
cảm nhận về của cải vật chất, liên hệ tình cảm,
tư duy, cơ thể...không đúng.
Chíng ta lệ thuộc vào của
cải vật
chất, con người, tình cảm, thân thể chúng ta.
Chúng ta tưởng chúng chính là chúng ta, và bám
víu vào chúng. Khi chúng bị hư hoại, hay mất
mát, chúng ta cảm thấy đau khổ. Chính sự bám víu
nầy, cùng với u mê, là nguyên do đưa đến sự sợ
Chết. Càng bám víu, ta càng sợ Chết. Ai biết
buông thả - biết rằng không có gì thuộc về mình,
biết rằng thân chúng ta chỉ là một phương tiện-
người ấy được gỉải thóat khỏi sự sợ hãi.
Thế nào là bám víu hay
đồng hóa
ta với điều gì đó? Bám víu có nghĩa là chúng ta
nghĩ rằng chúng ta cần có điều gì đó để hiện
hữu. Đó là sự chấp Ngã. Nói cách khác là "Tôi
là người quan trọng, nên tôi cần có chiếc xe
nầy. Chiếc xe nầy là của tôi, làm chủ chiếc xe
nầy chứng tỏ là tôi giàu có, thành công ở đời,
chiếc xe nầy giúp tôi xác định chính tôi".
Hay "Tôi cần gắn bó với người phụ nữ nầy.
Không có cô ta, tôi sẽ không có hạnh phúc. Nếu
cô ta bỏ tôi, tôi sẽ ngã gục, cuộc đời tôi sẽ
mất hết ý nghĩa". Người ta còn bám víu vào
cả một tư duy nào đó. Thí dụ, trong văn hóa Mỹ,
từ nhỏ người ta đã giáo dục con cái là phải có
thứ nầy, thứ kia mới là có một cuộc sống xứng
đáng. Cuộc đời là sinh ra, lớn lên có một gia
đình hạnh phúc, sống trong những ngôi nhà gạch
trắng, bao bọc bởi những vòng rào bằng hoa, có
những đứa con hiếu thảo. Ước vọng của mọi người
là làm sao để tậu được những căn nhà rộng lớn,
có được hai chiếc xe, có được căn nhà thứ hai ở
những nơi nghỉ mát, và được hưu trí sớm. Những
ước vọng nầy đã được xã hội mớm cho họ, gầy mầm
trong họ, và khi họ không đạt được những điều
nầy, họ trở nên khốn khổ. Họ nghĩ là cuộc đời đã
bạc đãi họ.
Đó là bạn đã đồng hóa mình
với
ngoại vật. Bạn đã tự vẽ ra mình, tự đồng hóa
mình với những mẫu người sống trong các ngôi nhà
sạch sẽ, sang trọng và có một cuộc đời hoàn hảo.
Bạn nghĩ đó mới chính là bạn. Nhưng sự thật
không phải thế. Đừng bám víu vào các hình ảnh
nầy. Hãy sống như cuộc đời dẫn dắt chúng ta với
những thăng trầm của nó.
Cũng thế, khi chúng ta sân
si,
chúng ta nghĩ "Tôi giận". Nói rằng "Tôi
giận" là tự đồng hóa mình với tình cảm giận,
là nghĩ rằng tình cảm đó là chúng ta. Tình cảm
không phải là chúng ta. Là con người, chúng ta
có khả năng giận dữ, có cảm thọ giận nhưng tất
cả các cảm thọ đó không phải là chúng ta.
Cũng thế, thân chúng ta
không
phải là chúng ta. Chúng ta có thân. Chúng chỉ là
phương tiện. Ta nói: “Tôi cao thước sáu. Tóc
đen. Da trắng". Nhưng đó không phải là chúng
ta. Vậy mà có ai chê gì về dáng vẻ bề ngoài của
ta, thì ta thấy đau khổ. Chúng ta hỏang sợ khi
nhận ra cơ thể của chúng ta trở nên già nua,
chậm chạp.
Hầu hết chúng ta đều bám
víu vào
Thân, đồng hóa thân và chúng ta. Do đó ta trở
nên sợ hãi khi nghĩ đến mất Thân, tức là mất đi
cá thể và sự hiện hữu của mình. Bao giờ chúng ta
còn chưa thức tỉnh, chúng ta còn sợ hãi cái
chết. Chúng ta còn là nô lệ của sự sợ hãi.
Cũng thế, ai bám víu vào
của cải
vật chất, nhà cửa, quần áo, nữ trang, tiền bạc.
Người đó càng sợ mất chúng. Vì chúng đồng hóa
với họ, mang đến cho sự hãnh diện, ý nghĩa trong
cuộc sống. Lại có người bám víu vào người khác.
Họ đồng hóa tình cảm gắn bó là họ. Họ sợ cái
Chết của mình sẽ cướp mất đi tình cảm đó. Họ sợ
cái chết của người họ thương cũng vì cùng một lý
do.
Để giải thóat khỏi những
khổ đau,
ta đừng bám víu vào thân, của cái vật chất hay
người khác. Ta cần phải nhớ rõ điều nầy. Việc
giảm bớt dần, rồi đi đến chỗ dứt bỏ hẳn những
bám víu đó, không có nghĩa là chúng ta phải quay
lưng lại với cuộc đời, từ bỏ hết những niềm vui
trong cuộc sống, làm cho cuộc đời chúng ta nghèo
nàn, mất ý nghĩa sống. Trái lại là khác. Khi
không vướng mắc, bám víu vào thứ gì, cuộc đời ta
sẽ thêm ý nghĩa, hạnh phúc hơn. Ta sẽ biết cho,
biết nhận và cởi mở hơn với tất cả. Bám víu có
nghĩa là nắm chặt, giữ lấy, không buông thả. Nên
khi cái Chết đến, tất cả những nắm giữ sẽ bị dằn
ra khỏi tầm tay chúng ta. Càng nắm chặt, sự
giằng co, xé rời càng dữ dội. Nỗi đau càng bội
phần. Nếu chúng ta đi qua cuộc đời với hai bàn
tay mở rộng, không nắm giữ, thì dầu cái Chết có
đến, chúng ta cũng sẽ ung dung tự tại, không
luyến tiếc, níu kéo gì.
Tuy nhiên, không phải tự
dưng một
buổi sáng thức giấc là chúng ta có thể buông thả
hết mọi vướng mắc. Cần phải tu tập cả đời. Cần
phải thức tỉnh từng giây phút mới làm được việc
đó vì có biết bao quyến rủ, cám dỗ trong cuộc
đời để chúng ta lại rơi vào sự dính mắc.
Ngã Vào Đời
Cái Chết có phải là sự tận
cùng
của cuộc đời? Có phải tử thần là ma quỷ trong
bóng tối, rình mò để bất chợt phủ lấy chúng ta
không báo trước?
Theo triết lý Đông phương,
Chết
không phải là sự tận cùng của đời sống. Cơ thể
ta ngưng hoạt động, các duyên hợp (trong không
gian và thời gian) tan rã. Nhưng tâm thức không
mất. Hiểu như thế thì cái Chết không quá đen
tối, khủng khiếp. Cái Chết cũng tự nhiên như sự
Sống, cũng diệu kỳ và tốt đẹp như nhau. Tử cũng
như Sinh đều dẫn đến sự sống, sự phát triển.
Nhìn dứơi khía cạnh đó,
con người
do duyên hợp (trong không gian và thời gian) vì
một nhân duyên nào đó. Giống như trồng trọt
ngoài đồng. Phải đợi đúng lúc, đúng nơi để gieo
mầm. Nhưng khi xong việc rồi, không có lý do gì
để nấn ná ngoài ruộng. Rồi đến giai đoạn chờ đợi
cho hạt nẩy mầm, lớn lên. Lúc lúa đã chín, cây
đã cao, ta lại ra đồng vì một mục đích khác, ở
một thời điểm khác. Cuộc đời con người cũng thế.
Chúng ta sinh ra để sửa soạn, phân bón cho một
mảnh đất vào một thời điểm nào đó, rồi lại ra
đi, chờ khi đến mùa gặt hái lại trở về.
Người ta có thể nói về
cuộc đời
con người như một căn duyên, một năng lực, một
kết hợp của không gian, thời gian. Nguồn năng
lực đó không thể bị hủy diệt, nó chỉ có thể được
luân chuyển. Con người đến ở một khỏang thời
gian, không gian nào đó, rồi lại ra đi, đến một
nơi khác. Triết lý phương Đông cho rằng nghiệp
lực của con người dẫn dắt con người từ nơi nầy
đến nơi khác, vì mục đích nầy hay mục đích khác,
trong khỏang thời gian nầy hay khoảng thời gian
khác.
Dù ít, dù nhiều, Chết vẫn
là mối
đe dọa của chúng ta. Giây phút từ giã cuộc đời
là giây phút trọng đại khi con người chiếu rọi
lại tất cả những gì đã xảy ra trong cuộc đời
mình trong giây phút cuối: tất cả tình cảm, kỷ
niệm, việc làm của cả một đời người được cô động
lại, tạo thành một lực dẫn dắt ta đi. Năng lực
đó mạnh mẽ đến nỗi nó có thể tạo hình cho cuộc
đời mới của ta. Chúng ta đã sống như thế nào cho
tới giờ trước khi ra đi rất quan trọng.
Thử so sánh cái Chết và
giấc ngủ.
Suốt ngày ta làm gì sẽ tác động đến giấc ngủ của
ta. Nếu ta lên giường ngủ với bao hối tiếc, sợ
hãi, bất mãn... thì giấc ngủ của ta sẽ bất ổn,
và chắc chắn chúng sẽ ảnh hưởng đến cả ngày hôm
sau của chúng ta. Những ước vọng chưa được thõa
mãn của ngày hôm trước sẽ ám ảnh ngày kế tiếp.
Hay đúng hơn một ngày mới đã bị đánh mất vì
những hồi tưởng của ngày vừa qua.
Trái lại nếu ta đi vào
giấc ngủ
với một tấm lòng thỏai mái, bằng lòng, thì ngày
hôm sau sẽ là một ngày mới mẻ đón chờ chúng ta.
Hãy sống trọn vẹn cho ngày hôm nay và đừng vướng
mắc. Ngày mai là chuyện của ngày mai. Mỗi ngày
có nhiệm vụ và mục đích riêng của nó.
Cũng vậy, con người đã
sống một
cuộc đời như thế nào thì sẽ ảnh hưởng đến giây
phút lâm chung của họ thế ấy. Nếu cuộc đời một
người chỉ toàn sống bằng sợ hãi, ám ảnh thì giây
phút lâm chung sự sợ hãi còn tăng gấp vạn lần.
Một người đã sống cuộc sống vô lề lối, thì cái
chết cũng đến một cách vô lề lối. Một người
không làm chủ đời mình, sống không có mục đích
thì cái Chết cũng không thể lường trước được.
Trái lại, một người đã
sống cuộc
đời nề nếp, kỷ luật, không bám víu vào gì, sẽ ra
đi một cách thong thả. Như một người khách biết
đã đến lúc phải chia tay. Mục đích của cuộc đời
họ đã đạt. Họ thản nhiên ra đi, biết rằng thực
tại ở bên trong họ vĩnh hằng, không hề bị ảnh
hưởng hay xao xuyến bởi người khác, bởi vật chất
của cuộc đời mà họ sắp giã từ.
Sống hay Chết cũng nằm
trên vòng
lưu chuyển của bánh xe luân hồi. Hết vòng nầy
lại đến vòng kia, nối tiếp nhau, không ngừng...
(Trích dịch từ
SACRED JOURNEY: LIVING
PURPOFULLY AND DYING GRACEFULLY)