Trước hết, Phật giáo không bác
bỏ linh hồn, nếu linh hồn được hiểu đơn giản như là phần phi vật chất trong mỗi
con người. Trong thuyết cơ bản của Phật giáo, như thuyết năm uẩn, phân tích
người là một tập hợp năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Trong 5 uẩn thì chỉ
có sắc uẩn là vật chất, còn 4 uẩn còn lại đều là phi vật chất, hay là thuộc
phạm trù tinh thần.
Một cách phân tích khác, ngược
với cách phân tích 5 uẩn là chia sắc uẩn thành 4 yếu tố: địa, thủy, hoả, phong
gọi là 4 đại và tập hợp các yếu tố phi vật chất hay tinh thần thành một nhóm,
gọi chung là thức hay thức đại (địa, thủy, hoả, phong, thức). Như chúng ta thấy
qua bài thơ của Thiền sư Đạo Huệ thời Lý:
Địa,
thủy, hoả, phong, thức
Nguyên
lai nhất thiết không
Như vân
hoàn tụ tán
Phật
nhất chiếu vô cùng
Sắc
thân dự diệu thể
Bất hợp
bất phân ly
Nhược
nhân yếu phân biệt
Lô
trung hoa nhất chi
Dịch ý:
Đất,
nước, lửa, gió, thức
Vốn tất
cả đều là không
Cũng
như mây hợp rồi tan
Còn mặt
trời Phật thì chiếu vô cùng
Sắc
thân và diệu thể
Không
hợp cũng không chia ly
Nếu
người muốn phân biệt
Thì
cũng như hoa sen trong lò lửa
Bài thơ thiền của Thiền sư Đạo
Huệ cũng giúp trả lời phần nào thắc mắc "có linh hồn trong con người hay
không?" điều mà chúng ta tưởng tượng là ở trong chúng ta có một linh hồn
bất tử, linh thiêng, đồng thời cũng là cái ta tư duy, cảm thọ, tưởng tượng, ý
chí quyết định làm việc này việc khác, phân biệt, hiểu biết v.v… Chúng ta không
biết là ngay trong sự tưởng tượng của chúng ta đã có điều mâu thuẫn, vô lý,
phản logic rồi, và chính đạo Phật bác bỏ cấu trúc tưởng tượng mâu thuẫn, vô lý
và phản logic của chúng ta.
Đạo Phật đặt câu hỏi: "Một
linh hồn tưởng tượng là linh thiêng, là bất tử, không thay đổi, đồng thời cũng
là cái ta tư duy cảm thọ, tưởng tượng, quyết định làm việc này hay việc khác,
phân biệt hiểu biết…
Đã có tư duy thì có tư duy sai
hay đúng, cũng như đã có cảm thọ thì có vui buồn, thích hay không thích, ghét
hay yêu. Đã có phân biệt hiểu biết thì cũng có phân biệt hiểu biết sai hay đúng,
làm sao một cái ta linh thiêng, bất tử và bất biến lại có thể tư duy đúng sai,
cảm xúc vui buồn yêu ghét, phân biệt và phán xét có thể chính xác mà cũng có
thể sai trái?
Khi xác nhận ta có một cái Ta
kiểu như Atman của Aán độ giáo, hoàn toàn sáng suốt và tối thiện ở trong mỗi
người chúng ta, thì lập tức sa lầy vào mâu thuẫn trùng trùng điệp điệp như đã
phân tích trên đây, chính vì vậy mà Phật giáo bác thuyết Atman, tức là thuyết
cái Ta của Aán độ giáo. Quan điểm phủ định đối với thuyết Atman rất là rõ trong
nhiều kinh Phật Nguyên thủy, như Trường Bộ tập III, Trung Bộ tập I. Trong những
kinh đó, thường gặp đi gặp lại như một điệp khúc, khi nói tới 5 uẩn: "Sắc
không phải là ta, ta không phải là cái này, cái này không phải là tự ngã của
ta…" Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng đều lặp đi lặp lại điệp khúc
như vậy. "Phải chăng là thích hợp khi xem cái vô thường, đau khổ, bị
thay đổi như là tôi, tôi là cái này, cái này là tự ngã của tôi".
Vậy thì qua những kinh Phật đã
dẫn, chúng ta phải hiểu đích thực Đức Phật bác bỏ cái gì trong thuyết linh hồn
hay là thuyết Atman? Cái mà đạo Phật bác là linh hồn hay Atman được tưởng tượng
như một cái gì siêu nhiên, bất tử, bất biến. Đức Phật không muốn đệ tử Ngài mất
thì giờ vào những tư biện siêu hình như vậy, cũng không khác gì tư biện siêu
hình về thế giới là vĩnh hằng hay sinh diệt, là hữu biên hay vô biên …
Theo cách phân tích của đạo
Phật, thì cái gì đã là vĩnh hằng, bất biến như cái linh hồn tưởng tượng của
chúng ta thì làm sao chúng ta lại có thể trừ bỏ điều ác, hướng tới điều lành
được, làm sao tâm ý chúng ta từ dơ bẩn lại có trở thành trong sạch, thanh tịnh?
Theo cách nhìn của Phật giáo, thì trong con người chúng ta, dù là thành phần
vật chất như sắc thân (tức sắc uẩn) dù là thành phần phi vật chất như thọ,
tưởng, hành, thức, tất cả đều là vô thường, và chính là vì vô thường nên hàm
chứa một khả năng tiến bộ vô tận. Nói ra thì có vẻ như mâu thuẫn, nhưng chính
logic của cuộc sống là như vậy đó.
Ở trong con người có thể nói,
mối quan hệ phức tạp, khó phân tích nhất là mối quan hệ giữa thân và tâm. Đó là
một câu hỏi, trong số 14 câu hỏi mà Phật không trả lời. Ở trong con người thân
và tâm là một hay là hai?
Vì sao? vì khi nói tâm là nói
tâm nào. Nếu đó là cái tâm thức tư duy cảm thọ bình thường, thì ngay trong câu
đầu tiên của bài thơ thiền của Đạo Huệ, chúng ta thâý rõ tất cả 5 uẩn, trong đó
có thức uẩn, đều là vô thường. Như vậy, là theo đạo Phật, tất cả mọi thành phần
dù là vật chất hay phi vật chất ở trong chúng ta cũng đều là vô thường, và vì
là vô thường cho nên cũng là không rỗng, vô ngã, là "nguyên lai nhất thiết
không".
Đồng thời Đạo Huệ cũng nói đến
chân tâm hay diệu thể, ở "trong chúng ta" mà, sách Phật thường nói là
"không thể nghĩ bàn", siêu việt ngôn ngữ và tư duy bình thường, cho
nên Đạo Huệ miễn cưỡng nói "bất hợp bất phân ly" hay là "lô
trung hoa nhất chi" (hoa sen trong lò lửa). Thật ra nói chân tâm nằm ở
trong thân, cũng như nói hoa sen ở trong lò lửa, cũng là nói miễn cưỡng, nói
điều không thể nói, đáng lẽ nên im lặng không nói gì hết, như Phật đã từng như
vậy khi có người hỏi Phật là thân với tâm là một hay là hai. Chân tâm hay diệu
thể (từ của Thiền sư Đạo Huệ) hay diệu tánh (từ của Thiền sư Ngộ Aán thời Lý)
đều là cái chân lý tối hậu mà chúng ta chỉ có thể qua trực cảm huyền nhiệm
(mystic intuition –xem cuốn Buddhist logic tập I bản Anh ngữ của viện sĩ Nga
Scherbatsky, tr.63) để biết được mà thôi, còn nếu chỉ bàn luận và tư biện theo
chiều sâu cũng chỉ là mất công, mất sức mà thôi. Bản thân Đức Phật đã từng dùng
ảnh dụ người mù sờ voi để phê phán như là vô ích mọi công phu tư biện và tranh
luận để nắm bắt chân lý tối hậu. Ở đoạn trước, tôi đã dẫn chứng bài thơ thiền
của Đạo Huệ. Thiền sư Ngộ An, cũng ở đời Lý và có một ý tương tự:
Diệu
tánh hư vô bất khả phân
Hư vô
tâm ngộ đắc hà nan
Ngọc phần
sơn thượng sắc thường nhuận
Liên
phát lô trung thấp vị càn
Ngọc
tuy đốt trên núi, nhưng màu sắc vẫn tươi
Hoa sen
trong lò vẫn nở
Tất cả những ảnh dụ kiểu như
hoa sen trong lò, ngọc đốt trên núi để phản ánh cái bất lực của ngôn ngữ để nói
điều không thể nói, mô tả điều không thể mô tả. Một lần nữa, đạo Phật nhắc nhủ
chúng ta, muốn giác ngộ và giải thoát, đi theo con đường Phật chỉ bày thì phải
đi, phải tu, chứ không thể nói suông được.
Đức Phật khuyến cáo chúng ta
hãy quán thân trên thân, quán thọ trên các cảm thọ, quán tâm trên các hành
tướng của tâm, và quán các pháp đều là vô thường (xem kinh Đại niệm xứ thuộc
Trường Bộ II). Và quán sát như vậy là để nhằm những mục đích rất thực tiễn.
Quán thân là để cho tâm hành được an tịnh. Quán các cảm thọ là để cho tâm hành
cũng được an tịnh.Quán tâm là để cho tâm được hân hoan, tâm được định tĩnh, và
cuối cùng tâm được giải thoát.
Nếu tất cả Phật tử Tăng Ni
chúng ta bỏ được cái tật tư biện siêu hình thì sự nghiệp tu hành của chúng ta
cũng sẽ đỡ phiền phức và đơn giản biết bao!
Nếu tất cả Phật tử Tăng Ni
chúng ta hàng ngày học như vậy, thực hành như vậy, thì tự nhiên câu hỏi
"con người có linh hồn hay không" hay là nói theo Aán độ giáo, có
Atman hay không, sẽ tự nhiên và tự khắc được giải đáp.
Quan
Niệm của Phật Giáo Đối Với Sống Chết
Nhà
Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2002
Nguyệt San Liên Hoa Số 408 Tháng 08 năm 2004