[02]
Phần bốn
178 PHÁP BA DẬT
ĐỀ
(ĐƠN ĐỀ)
Tóm tắt
1. Cố ý nói dối |
2. Nhiếc mắng thành phần |
3. Nói để ly
gián |
4. Ngủ chung một nhà |
5. Ngủ quá ba
đêm |
6. Đọc
tụng
ồn náo |
7. Nói tội lỗi nặng |
8. Nói thật
đắc đạo |
9. Quá năm
sáu lời |
10. Đào
cuốc đất đai |
11. Chặt phá cây sống |
12. Xúc não lời lạ |
13. Nhiếc mắng tri sự |
14. Trải đồ
chỗ trống |
15. Trải đồ
trong phòng |
16. Cưỡng hiếm chỗ nằm |
17. Lôi ra khỏi phòng |
18. Nằm giường sút chân |
19. Dùng nước có trùng |
20. Lợp nhà quá hạn |
|
|
21. Ăn
quá
một lần |
22. Ăn
thành
biệt chúng |
23. Nhận ăn
quá phần |
24. Ăn
lúc
phi thời |
25. Ăn
đồ
cách đêm |
26. Ăn
đồ
không mời |
27. Đi
không
dặn lại |
28. Nhà ăn
ngồi dai |
29. Nhà ăn
ngồi khuất |
30. Ngồi chung chỗ trống |
31. Đuổi
người đi đi |
32. Quá hạn thọ thuốc |
33. Đi
xem
quân trận |
34. Trong quân quá hạn |
35. Xem quân giao chiến |
36. Uống các thứ rượu |
37. Đùa
giỡn trong nước |
38. Thọc lét người khác |
39. Không nghe can gián |
40. Nhát cho người sợ |
|
|
41. Tắm dưới nửa tháng |
42. Đốt
lửa
đất trống |
43. Giấu chơi vật dụng |
44. Dùng không hỏi chủ |
45. Dùng y mới nguyên |
46. Cố giết súc sinh |
47. Uống nước có trùng |
48. Làm buồn người khác |
49. Che giấu tội nặng |
50. Khơi lại tranh cãi |
51. Hẹn đi
với giặc |
52. Chống can nói càn |
53. Theo người nói bậy |
54. Dung kẻ bị
đuổi |
55. Chống cự khuyên học |
56. Hủy báng giới luật |
57. Sợ nên nói trước |
58. Yết ma rồi hối |
59. Không nói gửi dục |
60. Gửi dục rồi hối |
|
|
61. Nghe lén mách lẻo |
62. Đánh
Tỳ
kheo ni |
63. Tát Tỳ kheo ni |
64. Vu khống tội nặng |
65. Vào cửa cung vua |
66. Cầm lấy báu vật |
67. Vào xóm phi thời |
68. Làm giường quá hạn |
69. Dồn bông ba chỗ |
70. Ăn
các
thứ tỏi |
71. Cạo lông ba chỗ |
72. Tẩy tịnh quá hạn |
73. Chế ra nam căn |
74. Cùng vỗ với nhau |
75. Bưng nước hầu quạt |
76. Đi
xin
lúa sống |
77. Đại
tiểu
cỏ tươi |
78. Đổ
bậy
đồ dơ |
79. Xem nghe múa hát |
80. Vào xóm
đứng khuất |
|
|
81. Cùng vào chỗ khuất |
82. Kề tai nói nhỏ |
83. Không nói mà
đi |
84. Không mời cứ ngồi |
85. Nằm nhà cư sĩ |
86. Cùng vào chỗ tối |
87. Không nghe cho kỹ |
88. Việc nhỏ thề bồi |
89. Đấm
ngực
khóc la |
90. Không bệnh chung giường |
91. Chung mền chung nệm |
92. Hỏi để
quấy rối |
93. Không thăm
nom bệnh |
94. An cư
đuổi người |
95. Ba mùa du hành |
96. Giải hạ ở lì |
97. Đi
chỗ
biên giới |
98. Đi
chỗ
nguy hiểm |
99. Thân cận cư sĩ |
100. Đi
xem
hoàng cung |
|
|
101. Lộ hình tắm sông |
102. Khăn
tắm quá hạn |
103. May y quá lâu |
104. Năm ngày
không đoái |
105. Ngăn
cúng tăng y |
106. Mặc y người khác |
107. Cho y ngoại
đạo |
108. Ngăn
tăng chia vải |
109. Xúi khoan xuất y |
110. Xúi
đừng xuất y |
111. Không diệt tranh cãi |
112. Cho ngoại
đạo ăn |
113. Để
người sai sử |
114. Xe chỉ
đánh sợi |
115. Không hỏi nằm, ngồi |
116. Không từ mà
đi |
117. Tà mạng chú thuật |
118. Dạy người chú thuật |
119. Độ
người có thai |
120. Độ
người con bú |
|
|
121. Độ
chưa
đủ tuổi |
122. Không dạy học giới |
123. Không học sáu pháp |
124. Độ
không hỏi tăng |
125. Độ
gái
có chồng |
126. Đủ
năm
thiếu phép |
127. Độ
dâm,
tặc nữ |
128. Độ
không nuôi dạy |
129. Không hề y chỉ |
130. Không phép, làm thầy |
131. Thiếu hạ làm thầy |
132. Đủ,
tăng không cho |
133. Hủy báng không cho |
134. Độ
kẻ
có chủ |
135. Độ
kẻ
đáng yêu |
136. Gạt thức xoa học |
137. Gạt thức xoa y |
138. Dưới mười hai tháng |
139. Để
cách
một đêm |
140. Không thọ giáo thọ |
|
|
141. Không cầu giáo thọ |
142. Không cầu tự tứ |
143. An cư không tăng |
144. Không thưa mà vào |
145. Mắng tỳ kheo tăng |
146. Trách mắng ni chúng |
147. Mổ nhọt không thưa |
148. Ăn
xong
ăn nữa |
149. Ganh tị với thầy |
150. Hương liệu xoa thân |
151. Dầu mè xao thân |
152. Bảo
đồng giới xoa |
153. Bảo thức xoa xoa |
154. Sa di ni xoa |
155. bảo phụ nữ xoa |
156. Mặc quần lót
độn |
157. Sắm đồ
trang điểm |
158. Mang dày cầm dù |
159. Không bệnh ngồi xe |
160. Không mặc áo lót |
|
|
161. Tối đến
nhà người |
162. Tối mở cổng chùa |
163. Trời lặn
để cổng |
164. Không có an cư |
165. Độ
người rỉ chảy |
166. Độ
người hai hình |
167. Độ
người nhập một |
168. Độ
người nợ, bệnh |
169. Học nghề coi bói |
170. Dạy nghề coi bói |
171. Đuổi
mà
không đi |
172. Hỏi không xin trước |
173. Đi
đứng
xúc não] |
174. Xây tháp chùa tăng |
175. Khinh tân Tỳ kheo |
176. Đi
mà
lắc mình |
177. Sắm đồ
trang sức |
178. Bảo ngoại
đạo xoa |
1. CỐ Ý NÓI DỐI
Phật ở Ca tỳ la vệ, trong vườn Ni câu luật (Nigrodha) Tỳ kheo
Trượng
lực phạm. Ông thuộc dòng họ Thích ca, có tài biện bác thường tranh
luận
với ngoại đạo. Mỗi khi người đối
thoại chứng
minh ông nói sai thì ông quật lại rằng mình chưa từng nói
câu ấy.
Mọi người chê bai Tỳ kheo gì mà lại chuyên nói dối. Phật quở trách
đương sự và chế giới.
2. NHIẾC MẮNG THÀNH PHẦN
Phật ở Xá vệ chế giới. Lục quần Tỳ kheo phạm. "Thành phần" là
như lôi
nghề nghiệp, cố tật, thành phần xã hội của người ta ra mà nhiếc
móc, như
nói "đồ con nhà thợ săn",
"hàng thịt" vân vân.
Kết giới xong, Phật kể một câu chuyện ngụ ngô. Vào một thời xa
xưa, khi
loài vật cũng biết nói, ở xứ này có người bà la môn nuôi một con
trâu
đực chỉ có một sừng nhưng sức mạnh
phi
thường. Bà la môn cho trâu ăn,
săn sóc
trâu rất chu đáo. Một ngày kia trong nước có hội
đấu trâu, trâu ai kéo nặng đi nhanh
nhất sẽ
thắng cuộc một ngàn lượng vàng. Con trâu nói với chủ: "Xin
chủ hãy
đem tôi ra đấu, tôi sẽ làm cho
chủ
được cuộc". Bà la môn nghe lời
trâu,
bỏ tiền ra dự cuộc.
Đến ngày dự thi, lúc
đem trâu ra trình
làng, ông ta giới thiệu: "Thưa bà con cô bác,
đây thằng lõi một sừng của tôi đây,
xin bà con hãy xem sức mạnh của nó".
Trâu nghe nhắc đến dị tật "một
sừng" của mình,
lấy làm hổ thẹn buồn sầu, kéo xe không nổi. Người Bà la môn bị
thua cuộc
tiu nghỉu dắt trâu về. Về đến nhà,
ông
bảo trâu: "Bình thường mày mạnh lắm, sao hôm nay bỗng dưng mày trở
chứgn
kéo xe không nổi, làm ta mất toi một ngàn cây?".
Trâu nói: "Ai bảo chủ ở trước công chúng mà gọi tôi là thằng
lõi một
sừng, nghe thế tôi hổ thẹn buồn sầu chẳng còn chút sinh lực nào
nữa. Nếu
chủ muốn thắng cuộc, hãy đem đặt tiền
cuộc
gấp đôi, rồi dùng lời êm tai vỗ về trước khi
đấu, tôi sẽ đem về cho chủ hai ngàn
lượng cho coi".
Người Bà la môn nghe vậy, hết lời xin lỗi trâu, rồi
đem trâu ra đấu nữa. Lần này
trước khi
đi ông dụ ngọt: "Con cưng của ba ơi, hãy
theo ba ra trường đấu, lần này
con rán
kéo xe cho thắng cuộc, rồi ba sẽ bồi dưỡng cho con nhiều rượu thịt
và cho
con đi xem cải lưởng hát bóng...".
Trâu nghe bùi tai, hăng hái ra đi.
Đến
nơi, bà la môn lại vỗ về trâu mà giới thiệu: "Thưa bà con
cô bác,
đây là anh chàng Hoàng Ngưu
báu vật số
một của tôi. Hoàng Ngưu đẹp trai,
thông minh,
lại khỏe mạnh, dẻo dai vô cùng...". Rồi ông nói riêng với
trâu:
"Nào Hoàng Ngưu ra đi con, hãy
làm cho
mọi người trông thấy tận mắt, thưởng thức cái sức mạnh vô
địch của con". Con trâu hùng
dũng bước
ra kéo dễ như bỡn một chiếc xe nặng nhất trong trường
đấu, chưa con nào kéo nổi. Mọi
người
vỗ tay hoan nghênh, và người bà la môn thắng cuộc hai ngàn vàng.
Nhân đấy Phật dạy: "Con vật mà
còn
ưa nghe lời dịu ngọt như thế, huống chi loài người".
3. NÓI ĐỂ LY GIÁN
Lúc Phật ở Xá vệ, Lục quần Tỳ kheo thường
đem lời người này nói sau lưng người kia
đi nói lại cho người kia biết, và
ngược lại; làm cho những người chưa gây gỗ khởi sự gây gỗ, còn
những người
đã ghét nhau thì hố ngăn
cách càng thêm sâu, không hàn gắn
được. Phật nhóm tăng quở trách Lục quần và chế giới.
Đức Thế Tôn kể câu chuyện
về tai họa của sự đâm thọc như sau. Ở trong
khu rừng nọ, có hai gia đình cọp và sư tử
đều là mẹ góa con côi, hang
của chúng
ở cách xa nhau. Hàng ngày hai bà mẹ đi
kiếm
mồi, cả hai đều căn dặn con mình ở nhà chơi quanh quẩn, chớ
đi xa mà gặp chó sói. Hổ con
vâng lời
mẹ không dám ra khỏi hang, nhưng chú bé con sư tử thường ưa phiêu
lưu mỗi
khi mẹ đi vắng. Một hôm chú đi lạc
đến gần
hang cọp, gặp ngay cọp mẹ vừa đi ra. Ban đầu hổ tính vồ lấy hài
nhi
sư tử đem về hai mẹ con ăn thịt,
nhưng sau
thấy chú bé kháu khỉnh thơ ngây, bà lại bắt sống
đem về hang chơi với cọp con cho có
bạn. Cọp
mẹ đang thích thú ngồi xem hai chú nhỏ đùa giỡn làm quen
nhau thì
bổng nhiên sư tử cái lừ lừ tiến đến.
Hổ mẹ
thất sắc toan bỏ chạy, thì bà sư tử cái
đã ôn tồn: "Chị
đã có lòng thương
đến con tôi như thế, thí chúng ta hãy
kết bạn với nhau đi. Ta thay phiên
nhau đi kiếm mồi cho cả hai cháu,
chúng ở nhà
vừa được bạn chơi, vừa được mẹ săn
sóc có
phải hơn không?". Cọp cái nghe có lý, từ đấy hai gia đình ở
chung
một hang rất đầm ấm. Cọp mẹ đạt tên
con là Thiệt Bạt (Tát khỏe), sư tử cái đặt tên
con là Thiện Nha (Răng nhọn). Hai chú
bé càng
lớn càng đẹp trai, khỏe mạnh sức địch
muôn
người, lại thương yêu nhau như ruột thịt. Hai bà mẹ sung
sướng thấy
hai con thân thiện như thế. Khi đã
già
gần kề cái chết, họ dặn lại hai con: "Các con yêu dấu, bây giờ hai
con
đã thành những chúa tể trong
rừng sâu
nhiều nguy hiểm này. Hai mẹ có chết cũng không lo sợ gì khi thấy
các con
sống thương yêu hòa thuận. Nhưng các con hãy
đề phòng những lời nói xấu, đâm
thọc
sau lưng".
Sau khi hai bà mẹ lần lượt qua đời,
Thiện
Nha và Thiện Bạt trở thành một đôi
tri
kỷ chúa tể rừng sâu, làm cho tất cả thú rừng
đều kinh sợ, nể mặt. Chúng thường
thay nhau
đi kiếm mồi về ăn chung, cũng như lúc còn sinh tiền hai bà
mẹ.
Nhưng bỗng một ngày kia, xuất hiện một con chồn láu cá. Nó mon men
đến gần hang, thốt lời nịnh hót hổ
Thiên
Bạt đang nằm một mình lúc sư
tử Thiện
Nha đi vắng. "Anh Thiện Bạt ơi! Sao
anh có vẻ
buồn thế? Cho em vào đấm lưng,
bắt rận
cho anh nhé?" Cọp đồng ý cho chồn vào hang chơi trong lúc
chờ sư tử
đem mồi về. Khi Thiện Nha về vừa
trông thấy
chồn, Thiện Bạt đã nói trước: "Anh Thiện Nha ạ, nay ta hãy
nuôi chú
chồn này để sai vặt cũng hay đấy. Nó
sẽ hầu
hạ anh lúc tôi đi vắng, cũng như vừa rồi nó đấm lưng bắt rận cho
tôi. Rồi
chúng ta sẽ cho nó ăn những mẩu xương thừa và dọn dẹp nhà
cửa cho
mát con mắt". Thiện Nha đồng ý. Từ đó
chồn
bám theo đôi bạn để kiếm chác.
Một hôm chồn sinh tật nói lời ly gian. Khi ở một mình với cọp,
chồn
bảo: "Anh Thiệt Bạt à, anh biết anh Thiện Nha nói sao với em
không? Ảnh
nói rằng Thiệt Bạt làm biếng, miệng thối vì không chịu chà răng
sau khi ăn, ở chung chán thấy mồ". Thiện Bạt tin là thật,
nên lúc
Thiện Nha đem mồi về, cọp thờ ơ không
săn đón
như thường lệ. Hôm sau lúc Thiện Nha ở nhà một mình với
chồn, chồn
lại tỉ tê: "Anh Thiện Nha ơi! Hôm qua anh Thiện Bạt ở nhà nói xấu
anh thậm
tệ. Anh ấy bảo rằng, hổ mới là chúa tể sơn lâm; sư tử chỉ nhờ hổ
mà
được tiếng thơm lây. Sở dĩ thiên
hạ sợ
hai anh chính là sợ hổ chứ không phải sợ sự tử".
Thiện Nha nghe thế, bán tín bán nghi. Lúc cọp về, sư tử hỏi "Có
phải
anh nói như vậy với chồn hay không?".
Thiện Bạt cũng hỏi lại sử tử: "Có phải anh chê tôi làm biếng,
miệng
thối không?".
Cả hai đều vỡ lẽ chỉ tại con chồn,
và
nhớ lại lời mẹ dặn. Chúng bèn giết chồn ăn
thịt.
4. NGỦ CHUNG MỘT NHÀ
(với người khác phái)
Phật ở khoáng dã thành, giữa hai nước Ma kiệt (Magadha) và Câu
tát la
(Kosala). Tôn giả A nâu lâu đà
phạm
đầu tiên.
Tôn giả đi từ Xá vệ đế Câu tát la,
giữa
đường ngủ nhờ trong chỗ nghỉ đêm của một cô gái làng chơi
giàu có.
Cô này vừa muốn tạo phước vừa muốn câu khách, nên bỏ tiền ra làm
một cái
nhà nghỉ đêm miễn phí dành cho
khách
lỡ đường. Tăng tục đi qua đó đều nghỉ
lại nhà
cô. Hôm ấy nhà ngủ đầy chật cả người.
thấy
tôn giả A nâu lâu đà ngồi thiền trong một góc náo nhiệt, cô
ái ngại
đến thưa: "Bạch đại đức, xin mời đại
đức vào
trong nhà riêng của con cho được sạch
sẽ,
thanh tịnh". Tôn giả theo cô ta vào nhà trong, trải tọa cụ
trên
giường để ngồi thiền như trước. Nửa đêm
nhìn thấy tôn giả đẹp trai cô bỗng
nảy ra ý
xấu, muốn quyến rũ. Cô tới trước mặt tôn giả mà khiêu
khích, nhưng
tôn giả vẫn bất động, cuối cùng
cô
thoát y nhảy tót lên giường, ngồi bên cạnh. Tôn giả vọt bay lên hư
không.
khi ấy cô gái hổ thẹn, mặc lại y phục đảnh
lễ
tôn giả và bạch: "Xin ngài tha thứ, trở xuống
đây nói Pháp cho con nghe". Tôn giả
trở xuống
thuyết pháp cho cô gái. Nghe xong ngay tại chỗ, cô được pháp nhãn
ly trần vô cấu, chứng quả Dự lưu (trừ được
ba
hạn phần kiết sử là thân kiến, nghi và giới cấm thủ). Tôn
giả kể
lại câu chuyện này khi về lại thành Xá vệ, nghe xong chúng tăng
bạch Phật. Đức Thế Tôn nhóm tăng chế giới cấm ngủ cùng nhà
với
người khác phái, đề phòng
người chưa
đắc đạo thì không những không
hóa
độ được kẻ khác (điều mà tôn
giả A nâu
lâu đà đã
làm được) mà còn bị dụ dẫn cho
đọa lạc, dù không
đoạ cũng mang tai tiếng.
5. NGỦ QUÁ BA ĐÊM
Phật ở Khoáng dã thành (nằm ở ranh giới Ma kiệt
đà và Kiều tát la) chế giới.
Bấy giờ
trong giảng đường có đông người đến
nghe Pháp
ngủ lại đêm, tăng tục cùng
ở
trong một ngôi nhà lớn. Lục quần Tỳ kheo trong lúc ngủ say thiếu
uy nghi,
để lộ thân hình làm cho cư sĩ
nhiều
lần trông thấy chê cười. Các Tỳ kheo bạch Phật. Phật chế giới, từ
nay
không được ngủ chung nhà với
người
chưa thọ giới cụ túc.
Sau đó, đến một nơi khác, vì
tuân
lời Phật dạy, nên không ai dám để cho
Rahula
ngủ chung phòng. Chú sa di bảy tuổi
đến đâu cũng bị đuổi, đứng ngoài trời ban
đêm thì sợ rắn cắn, chú bèn
vào
đứng suốt đêm trng phòng vệ
sinh dành
riêng cho Phật. Nửa đêm khi
Phật
đi ra, thấy có ánh lửa trong nhà
cầu,
ngài biết mà cố hỏi: "Ai trong đấy?".
Rahula thưa: "Bạch Thế tôn, con là Rahula
đây".
- Ngươi đứng làm gì trong
ấy?".
- "Bạch Thế tôn, không ai cho con ngủ chung một phòng với các
tôn giả
như trước nữa, ở ngoài sợ rắn nên con vào trong này".
Phật đưa tay dắt chú bé Ruhula về
phòng,
cho ngủ một đêm. sáng hôm sau,
Phật
chế giới cho phép sa di được phép ngủ
cùng
phòng Tỳ kheo ba đêm.
6. ĐỌC TỤNG ỒN NÁO
Phật ở thành Khoáng dã như trên, chế giới này. Nhân vì Lục quần
Tỳ kheo
cùng các trưởng giả nhóm họp đọc tụng
ồn
ào, chướng ngại cho các vị đang
tọa
thiền, Phật quở trách và chế giới không
được cùng người cư sĩ
đọc tụng kinh luật.
Tụng kinh lớn tiếng là cốt để gây
một bầu
khí trang nghiêm, làm tăng tín
tâm của
người nghe. Nếu không thì đọc
thầm hay
xem cũng được, cần gì phải lớn giọng? Do vậy, khi tụng
chung cần
phải bổng trầm có tiết tấu, nhạc điệu
hùng
tráng thanh thoát mới gây được cảm
hứng cho
người nghe. Thoe tinh thần của sự tích thế giới, thì cấm sự
đọc tụng khi giọng điệu không hòa,
mỗi
người một kiểu, và nhất là khi sự tụng đọc ấy
làm rối loạn một số đông người
đang
cần yên tĩnh.
7. NÓI TỘI LỖI NẶNG
Phật ở thành Vương Xá chế giới. Bấy giờ có một Tỳ kheo phạm
tội, bị tăng
chúng xử phạt ở riêng và làm các công việc trong nhà cầu.
Khi cư sĩ
tới chùa, Lục quần Tỳ kheo thóc mách với họ: "Ông ấy có tội như
vậy như
vậy, nên phải bị làm những việc như vậy như vậy". Cư sĩ
đem những lời ấy chuyền nhau bàn
tán,
làm cho vị đang hành sám phải
xấu hổ,
và tăng chúng cũng khó chịu. Phật quở
trách
Lục quần Tỳ kheo.
Tội lỗi nặng là thuộc hai thiên đầu.
Có
trường hợp cần phải nói cho cư sĩ biết, như khi
Đề bà đạt
đa phá tăng, Phật cho phép tăng yết ma cử Xá lợi phất và
Mục kiền
liên đi nói tội của Đề bà
đạt da. Việc làm này không cố
trừng
phạt, bêu xấu đương sự mà cốt
để cho kẻ phá giới khỏi lập thêm
bè
đảng xấu. Khi đi nói tội của một Tỳ
kheo,
phải hội đủ một số điều kiện như:
- Do tăng sai nói (người không
được tăng
sai thì không phép nói).
- Nơi chốn và thời gian nên nói. Như khi người phạm giới lường
gạt sắp
đến một nơi ở đấy có nhiều thí chủ dễ
tin hay
cúng dường, thì chỉ nên đến
những nơi
ấy mà nói, chứ không phải bạ đâu
nói
đó, vừa mất thì giờ vô ích, mà có hại cho
đoàn thể khi người nghe không
phải
phật tử thuần thành, dễ vơ đũa cả nắm
để báng
bổ, mất lòng tin.
- Người nói phải vì tâm hộ trì chánh pháp chứ không phải vì thù
riêng
và ác ý.
Có những người không ưa đi nói tội
lỗi
người khác, nên khi tăng yết
ma đề cử,
họ nói không kham năng. Trường hợp ấy, tăng sẽ hỏi ai tình
nguyện.
Nếu đi một người sợ bị trả thù,
thì có
thể sai hai người, hoặc tăng yết ma
cho phép
ai cũng được nói, khi gặp thời gian và nơi chốn thích hợp
như trên.
8. NÓI THẬT ĐẮC ĐẠO
Giới này không có ai phạm, vì không ai thật
đắc đạo mà
đi nói cho cư sĩ biết. Nhưng đây là
một giới phụ vào giới trọng thứ tư ở thiên
đầu, là tội dối nói đắc đạo để
được
cúng dường, phạm tội ba la di. Phật dạy, ngay cả khi thật đắc đạo mà
đi nói với cư sĩ cũng còn phạm
giới
nhẹ, huống chi không thật. nguyên do vì cư sĩ thường không biết gì
hoặc
biết sai lạc về chuyện tu hành của người xuất gia, nên có nói cho
họ nghe
cũng vô ích, họ không hiểu gì, và đôi
khi còn
sinh tâm hủy báng là "nói dóc".
Nếu thật đắc đạo đi nói với cư sĩ
hay kẻ
chưa thụ giới, ấy là sự khoe mình, phạm lỗi kiêu mạn. Nếu
nói
để được cúng dường, là tham.
Luật Tăng
kỳ quyền 14 dẫn lời Phật dạy: "Những người vì cái bụng và
lỗ miệng
mà đem chánh pháp vi diệu nói cho
người nghe,
thì chẳng khác nào dâm nữ bán mình".
9. QUÁ NĂM SÁU LỜI
Phật ở Xá vệ chế giới. Tôn giả Ca lưu đà
di (Kaludhayi) phạm. Tôn giả đi đến
nhà
hai dâu gia cùng ở góa, kề tai nói pháp cho nàng dâu. Bà gia hỏi:
"Ông ấy
nói chuyện gì thế?"
Nàng dâu đáp, "Nói pháp".
- "Nói pháp thì cứ việc nói lớn lên, sao lại phải kề tai nói
thầm?".
Lần khác cũng tôn gải này đến nhà
ấy bảo nàng dâu khi bà gia đi vắng:
"Sở dĩ mẹ
chồng cô nóng tính bẵn gắt, là vì trong nách bà có nốt
ruồi".
Khi khác gặp bà gia một mình, thì ông nói: "Cô dâu của bà ngang
ngạnh
khó dạy là vì giữa hai vú có nốt ruồi đen
và
sợi lông xoăn".
Hai dâu gia khi cùng tắm thì thấy quả thực như vậy, nên
đêm nghi ngờ nhau, sỉ vả nhau
là tư
thông với người, để cho Tỳ kheo trông
thấy
ngực và chỗ kín. Kỳ thực chỉ vì Ca lưu
đà di thường coi sách tướng, lại ưa nói nhiều, nói bậy.
Phật chế
giới không được nói ngoài
đề tài phật pháp như năm
ấm sáu nhập (quá năm sáu lời). Hoặc cũng có thể hiểu không được
nói nhiều,
dù nói pháp, với người khác phái.
10. ĐÀO CUỐC
ĐẤT ĐAI
Phật ở Khoáng dã thành chế giới. Lục quần Tỳ kheo
đào đất
tu bổ giảng đường, bị cư sĩ chê bai vì hại nhiều mạng sinh
vật. (Ở
Ấn Độ, có Kỳ na giáo giữ giới sát
sinh rất
quá khích. Những tu sĩ này có lúc đi
đường mang khẩu trang đề phòng côn trùng bay vào miệng mũi,
lại cầm
theo cái chổi để quét chỗ mình
sắp
đặt chân, để khỏi dẫm phải sâu kiến.
phật chế
giới này là do Tỳ kheo gặp phải sự chê bai của cư sĩ
đệ tử những vị này).
11. CHẶT PHÁ CÂY SỐNG
Lúc Phật ở thành Khoáng dã, có một cây lớn bị Tỳ kheo chặt, gia
đình vị thần cây mất chỗ ở,
bồng bế
nhau đến khóc với Phật. Phật gọi các
thần cây
khác đến để dàn xếp cho vị này tạm trú, và chế giới cấm
chặt phá
cây sống (khi muốn đốn cây lớn, phải
nói
trước ba ngày để các phi nhân tìm
chỗ khác ở). Nhân đấy Phật kể chuyện
vua rồng
Y bát la xưa kia vì nổi sân khinh hủy giới pháp mà
đọa làm rồng.
Một ngày nọ, đại chúng trông thấy
cua
Chuyển luân oai vệ đẹp đẽ đang từ từ tiến đến ra mắt Phật, thâm
tâm ai
cũng phát thèm địa vị ông ta.
Nhưng
khi ông đến, bị Phật quở: "Người vì không giữ giới
đã bị
đọa, nay còn dối trá hiện hình này nọ
để gạt người. Hãy hiện nguyên hình ngay lập tức!".
Rồng nói: "Bạch Thế tôn, con có nhiều kẻ thù, nếu con hiện
nguyên hình
thì sợ chúng hợp lực kéo đến tấn
công, con
trở tay không kịp".
Phật dạy, "Ta sẽ bảo Bồ Tát Kim Cương thủ bảo vệ cho ngươi".
Rồng vâng lệnh Phật, ẩn mất thân vua Chuyển luân rồi
đến sau một ngọn núi lớn để hiện lại
nguyên
hình. Khi ấy một con rồng khổng lồ bảy đầu,
trên mỗi cái đầu mọc một cây Y
bát la
to lớn cành lá sum sê, từ sau núi lừ lừ trườn tới phía Phật
và
đại chúng. Cả thân hình rồng
tuôn ra
máu mủ vì bị sâu dòi đục khoét, mùi
hôi thối xông khắp. Đại chúng thất
kinh hồn
vía thưa hỏi lai lịch con quái vật, Phật dạy đó là Y bát la
long
vương, ban nãy vừa giả làm vua Chuyển luân để
lòe các ngươi đấy.
Nguyên vào thời Phật Ca diếp, nó làm một Tỳ kheo tinh thông ba
tạng.
Một hôm đang ngồi bất động giữa rừng,
Tỳ kheo
bị những cành cây y la tạt vào mặt mỗi khi gió thổi; nhiều
lần chịu
đựng như vậy ông tức mình
đứng dậy kiếm cái mác chặt hết cành
lớn nhánh nhỏ, lại còn la lên: "Phật Ca diếp ơi! Cái vật vô tri vô
giác
này, bứt nó đi thì có gì là
hại, mà
ông chế giới cho tôi khổ thế này!". Do tâm sân hận, khinh hủy giới
luật
như vậy mà Tỳ kheo bị đọa làm
con rồng
từ đấy.
Y bát la long vương hỏi Phật, "Bạch thế tôn,
đến chừng nào con mới thoát
khỏi thân
nghiệp báo này?".
Phật dạy: "Khi nào Phật Di lặc xuất thế". Rồng khóc nức nở,
nước mắt
chảy ra làm ngập mười bốn son sông lớn. Phật bảo: "Ngươi hãy nín
đi, kẻo thiên hạ ngập lục chết
hết bây
giờ".
Rồng bảo, "Bạch Thế tôn, từ khi quy y Phật, con
đã nguyện không làm hại chúng
sinh, dù
chỉ là một sinh vật nhỏ". Bèn nín khóc.
12. XÚC NÃO LỜI LẠ
(Nói lời khó hiểu để xúc não
người
khác).
Phật ở Câu diệm di (Kosambi). Xiển đà
mỗi khi bị chúng cử tội thì nói quanh co để
xúc não, hoặc làm điều trái
ngược; dù
im lặng hay nói phô đều để xúc não
người.
13. NHIẾC MẮNG TRI SỰ
Phật ở thành Vương xá, Tỳ kheo Tư địa
ghét
tri sự Đáp bà ma la, nên thường nói ông này có tham sân si
sợ. Khi
thì nói tại chỗ có thể nghe mà không trong thấy (như cách vách),
khi thì
nói tại chỗ có thể thấy mà không nghe rõ lời (như trông thấy
Đạp bà ma la từ xa
đi tới, Tư địa bèn nói với
người
khác). Các Tỳ kheo bạch Phật.
Tạp bảo kinh kể chuyện, một hôm trên đường
cùng đi với Anan, thấy một bà
lão nô tì đang múc nước giếng, Phật
bảo Anan
đến xin nước cho ngài dùng. Bà trông thấy Phật bén
đến ôm chầm lấy, khóc gọi "Con ơi
con!" Phật
dạy Anan, trong nhiều đời kiếp, bà đã
từng làm mẹ của ngài. Rồi Phật chuộc bà về cho theo Di mẫu xuất
gia. Về
sau, khi bà đắc quả A la hán, ngài
cho
chúng tăng biết trong một đời trước bà
đã từng xuất gia làm ni chủ,
nhưng do
nghiệp mạ lị một vị ni đã
đắc quả là "dòng dõi nô tì hạ
liệt" mà
phải rước quả báo làm nô tì. Bà cũng thuờng ngăn
cản người khác bố thí, nên nhiều kiếp phải sinh vào nhà
nghèo khó.
Trong những đời kiếp làm con
của bà,
Phật cũng đã thường bỏ tiền ra
chuộc
bà về mỗi khi bà bị giặc phá tan gia sản và cướp bà
đi.
14. TRẢI ĐỒ CHỖ TRỐNG
Lúc Phật ở Xá vệ, nhóm 17 Tỳ kheo nhỏ tuổi (Thập thất quần)
trải
đồ nằm ra giữa đất trống rồi bỏ đi
không dẹp,
bị gió thổi bay tứ tung.
15. TRẢI ĐỒ TRONG PHÒNG
Phật ở Xá vệ, một khách tăng đến
xin ở
lại, khi ra đi không dẹp chiếu mền cũng không nhờ người ở lại dẹp,
nên
bị hư hỏng. Phật nhóm tăng chế giới này.
16. CƯỠNG CHIẾM CHỖ NẰM
Phật ở Xá vệ. Nhóm 6 và Nhóm 17 đi
đường;
khi gần đến một thôn ấp, Nhóm 17 nhường Nhóm 6 vào thôn
trước
để tìm chỗ nghỉ, nhưng Lục
quần bảo,
cho các ngươi tự tiện tìm chỗ trước đi,
chúng
ta ở đâu cũng được. Nhóm 17 đi trước tìm
được chỗ nghỉ, quét sạch sẽ trải đồ
nằm xong
thì Nhó 6 đi vào giành
chỗ, ỷ
thế lớn đuổi Nhóm 17 ra. Các chú nhỏ kêu
khóc. Phật quở nhóm 6 và chế giới.
17. LÔI RA KHỎI PHÒNG
Cũng hai nhóm nói trên, nhưng lần này thì tại một ngôi chùa.
Nhóm 6
đi đường nghỉ đêm, vào ngủ nhờ
trong
một ngôi chùa, gặp Nhóm 17 đã
trải
đồ nằm tử tế trong một phòng
dành cho
khách trú (tục lệ này rất phổ thông bên Phật giáo Nam tông, chùa
thường có
chỗ dành cho người lỡ đường ở lại một
đêm,
bất kể tăng hay tục). Lục quần Tỳ
kheo đến
sau thấy chỗ tốt bèn đuổi Nhóm
17 đi
ra. Trời đã tối, Nhóm nhỏ không muốn
đi tiếp nữa, đề nghị ở chung, nhưng Nhóm 6 viện dẫn giới Phật chế,
lôi các
chú nhỏ ra khỏi phòng.
18. NẰM GIƯỜNG SÚT CHÂN
Phật ở Xá vệ, các Tỳ kheo nằm ngồi trên một căn
gác gỗ, ván mục rớt xuống đụng nhằm đầu một Tỳ kheo ở tầng dưới,
xảy ra
tai nạn lưu huyết. Phật chế giới, trước khi nằm ngồi giường hay võng
thì phải xem kỹ.
19. DÙNG NƯỚC CÓ TRÙNG
Phật ở Xá vệ, Tỳ kheo Xiển đà
dùng
nước ao để trộn hồ, cư sĩ trông thấy
chê
bai Tỳ kheo làm tổn hại những sinh vật trong nước. (Xem giới số 10
ở
trên).
20. LỢP NHÀ QUÁ HẠN
Phật ở Xá vệ; Tỳ kheo Xiển đà
làm
một cái nhà ở bên bờ ruộng, đi xin
tranh để
lợp. Vì lợp quá nhiều lớp tranh, móng và vách yếu không chở
nổi nên
cái nhà đổ xuống trên
đám mạ mới cấy, làm hỏng ruộng
mạ của
dân. Cư sĩ chê bai Tỳ kheo tham lam.
21. ĂN QUÁ MỘT LẦN
Phật ở Câu tát la chế giới. Tại một thôn xóm không có tinh xá,
một nhà
giàu bỏ tiền ra làm một Nhà nghỉ đêm
cho chư tăng du hành ngang
đấy muốn ở lại, sáng ra cúng dườngmột
bữa
trước khi lên đường đi tiếp.
Nhóm 6 đi
qua ở lại một đêm, sáng ra được
dọn ăn
ngon bèn ở tiếp, trở ngại cho khách tăng
khác. Cư sĩ chê bai, Phật chế giới. Sau
đó Xá lợi phất cũng đi đến một nhà
nghỉ đêm, sáng ra bị ốm nhưng
cũng
không dám lưu lại, cứ ra đi nên
bệnh
càng tăng. Phật chế lại giới này,
thêm
câu "nếu không bệnh mà ăn quá một
bữa".
22. ĂN THÀNH BIỆT CHÚNG
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 phạm. Giới này là để
phòng sự kết bè đảng để lập
tăng đoàn
riêng, như Đề bà
đạt đa (phá tăng hòa hợp). Chỉ
được ăn riêng một, hai hay ba
người,
nếu không có việc gì mà tách ra 4 Tỳ kheo trở lên
ăn riêng thì phạm giới này.
23. NHẬN ĂN QUÁ PHẦN
Phật ở Xá vệ chế giới. Có một phụ nữ lấy chồng xa về thăm
quê mẹ ở Xá vệ; khi sắp khởi hành để
trở lại nhà chồng, cô làm nhiều bánh và lương khô
để ăn dọc đường. Gặp một Tỳ kheo đến
khất
thực, nàng đem những thức ăn này
ra cúng, các Tỳ kheo khác thấy vậy cũng đến
xin. Cô gái hảo tâm cứ làm bánh để
cúng dường hết lớp này tới lớp khác, người chồng chờ mãi
không thấy
cô trở lại, cuối cùng bèn lấy vợ khác. Cha cô gái
đến kể chuyện này với Phật.
Lại có một đoàn người
đi buôn nghỉ tại một nơi, Tỳ kheo đến
xin ăn
được đồ ngon, về mách, các vị khác cũng đến xin. Thương khách tốt
bụng vì
phải đi mua sắm lại lương thực nên
bị
trễ hẹn, phải đi sau một mình,
bị giặc
cướp sạch sành sanh. Do vậy, Phật chế giới này, cấm
ăn lương thực của người đi đường.
24. ĂN LÚC PHI THỜI
Phật ở Xá vệ chế giới. Tỳ kheo Nan đà
và Bạt nan đà vào thành xem
hát trở về
tối mới đi xin ăn. Ca lưu đà
di cũng
đi xin khi mặt trời đã lặn.
Vào một
nhà nọ, gặp một phụ nữ mang thai đang
đứng
một mình sau bếp, thấy tôn giả lù lù
đi tới nhe răng cười, để lộ hàm răng
trắng toát trong bóng đêm không thấy thân hình (vì tôn giả
da
đen, nên có biệt hiệu là Ưu
đà di đen
như quạ), phụ nữ sợ quá la lên: "Ô con quỷ, con quỷ!"
Tôn giả nói, "Không phải quỷ đâu,
đây là
Tỳ kheo đi khất thức".
Bà kia hoảng hồn mắng: "Cha Tỳ kheo hãy chết
đi, mẹ Tỳ kheo hãy chết
đi! Thà lấy con dao bén mổ cái
bụng
của ngươi đi, còn hơn là vì
cái lỗ
bụng mà đến nhà người ta xin
ăn vào buổi tối, làm cho người
ta sợ
hết hồn!".
Sau đó người phụ nữ này do
cơn kích
động mà bị sẩy thai. Phật nhân
đấy chế giới quá ngọ không được đi
khất thực,
và cấm ăn phi thời, nghĩa là
ăn sau giờ ngọ.
25. ĂN ĐỒ CÁCH ĐÊM
Phật ở Vương xá. Bấy giờ có Tỳ kheo Ca la làm biếng khất thực
mỗi ngày,
nên đi xin một lần để dành
ăn nhiều ngày. Vào giờ
ăn sáng ăn trưa, không thấy Tỳ kheo
Ca la vào
nhà ăn để cùng san sẻ
đồ ăn khất thực, chúng Tỳ kheo hỏi
nhau: "Sư
huynh ấy biến đâu mất, mà không vào nhà
ăn? Bị bệnh, hay đã hoàn tục,
hay bị
giặc bắt, bị cọp vồ?". Hỏi ra mới biết ông ăn
đồ cách đêm, vài ngày mới lại đi
khất
thực một lần. Chúng Tỳ kheo bạch lên
Đức Thế Tôn, Phật chế giới.
26. ĂN ĐỒ KHÔNG MỜI
Phật ở Xá vệ. Có vị Tỳ kheo khổ hạnh, sống bằng y thực lượm
nhặt của
người ta vứt. Trong thành có đám cúng
cô hồn,
ông đến lấy những vật thực người ta đang bày cúng
để ăn, vì nghĩ rằng trước sau
gì họ
cũng vứt. Bị cư sĩ chê bai.
Tôn giả A na luật (Anurudha, còn dịch âm A nâu
đạt) cũng theo hạnh ấy, một hôm trông
thấy
một phụ nữ đem đồ cúng ra tung vãi giữa
đất trống cho chim thú ăn. Ngài
đi theo bà ấy bén gót, dùng
thần lực
khiến cho chim thú không dám lai vảng, rồi
đến thu nhặt. Phụ nữ thấy đồ ăn của mình rải ra không
được chim thú nào chiếu cố vì
sự xuất
hiện của tôn giả, lấy làm tức giận. Trở về tôn giả kể lại thành
tích, bị
Phật quở rồi chế giới: "Không được
không thọ
thực mà bỏ đồ ăn thức uống vào
miệng", nghĩa là Tỳ kheo ăn uống gì
phải do có người mời trước.
27. ĐI KHÔNG DẶN LẠI
Phật ở Xá vệ. Có một trưởng giả trong thành vốn là bạn thân của
tôn giả
Bạt nan đà, nên ông ta vì tôn
giả mà
thỉnh tất cả tăng chúng đến nhà
ông
thọ thực. Đến giờ ăn, tất cả tăng
chúng đều
tụ họp đông đủ tại nhà trưởng giả, chỉ thiếu Bạt nan
đà, nên thí chủ vẫn chưa chịu
dọn thức
ăn. Gần đến giờ ngọ tôn giả Bạt nan đà
mới xuất hiện nói "Chư hiền hãy cứ tự nhiên, tôi
đã ăn
trước rồi". Phật biết chuyện, chế giới.
28. NHÀ ĂN NGỒI DAI
Phật ở Xá vệ chế giới. Tôn giả Ca lưu đà
di lúc còn tại gia đã quen một
cô gái
đẹp, hai người để ý nhau. Khi cô này
có chồng, tôn giả ôm bát đến nhà
khất
thực, người chồng sai vợ đem thực
phẩm cúng
dường. Ăn xong tôn giả chưa chịu đi mà còn ngồi lại cà kê
dê ngỗng
một hồi với "người tình cũ". Thấy chướng tai gai mắt, người chồng
mắng cho
một trận rồi bỏ nhà ra đi. Một Tỳ
kheo đến
khất thực tình cờ trông thấy cảnh ấy, về bạch Phật. Phật
quở trách
đương sự và chế giới: Tại nhà
thí chủ,
không được ngồi dai, cũng không được
ngồi
cách xa cửa ra vào quá một tầm tay.
29. NHÀ ĂN NGỒI KHUẤT
Cũng tôn giả Ca lưu đà di
với nhà
cư sĩ nói trên. Khi nghe Phật cấm ngồi cách cửa quá xa, tôn giả
lần này
tìm cách ngồi nói chuyện với vợ cư sĩ khuất sau cánh cửa,
để khỏi phạm giới. Một Tỳ kheo khác
đến trông
thấy, về bạch Phật. Phật chế thêm giới cấm ngồi tại chỗ
khuất.
Thập tụng luật kể, có con chó bỏ nhà mình sang nhà khác xin
ăn, bị chủ nhà
đánh đuổi. Khi cả hai đều chết xuống
âm phủ,
con chó kiện với Diêm vương: "Ông ấy ỷ thế làm người
đã đánh
đuổi tôi thậm tệ, trong khi tôi không vi phạm phép tắc của loài
chó".
Diêm vương tò mò hỏi: "Thế nào là phép tắc của loài chó?".
Con chó nói: "Tại nhà chủ, thì tôi đi
khắp
nơi bằng cả cái đầu, bốn cẳng và sãi cái
đuôi ra ve vẩy tự do. Nhưng đến nhà
lạ, bao giờ tôi cũng đứng thập thò
để cái đuôi ngoài cửa, chỉ
đưa đầu vào trước
đánh hơi, chủ có vui vẻ cho phép thì
tôi mới vào. Thế đấy là phép
tắc của
loài chó". (Khi một bầy chó chơi đánh
nhau
cũng vậy, con nào cụp đuôi
xuống thì
những con khác biết nó đã
đầu hàng, không quấy rầy nó
nữa).
Diêm vương hỏi: "Bây giờ ngươi muốn ta trừng phạt người kia
cách gì?".
Chó thưa: "Xin cho ông ta đầu thai
làm
một người có quyền cao chức trọng".
- "Tại sao?".
- "Vì có quyền thế địa vị thì
dễ
làm nhiều việc ác ôn thất đức rồi
phải đọa.
Xưa kia tôi cũng là một kẻ có chức quyền, vì làm nhiều sự
ác mà
phải đầu thai làm súc sinh".
Phật dạy, chó còn biết phép tắc, giới hạn của mình, huống chi
con
người.
30. NGỒI CHUNG CHỖ TRƯỚC
Phật ở Xá vệ chế giới, do tôn giả Ca lưu đà
di phạm. Ông cùng ngồi với vợ cư sĩ ở chỗ trống vắng. (Xem từ giới
28 trở
đi).
31. ĐUỔI NGƯỜI ĐI ĐI
Phật ở Xá vệ. Bạt nan đà
gây gổ với
một Tỳ kheo khác bị thua, ôm hận, sau đó
trả
đũa bằng cách rủ ông này cùng đến
một
thôn xóm khất thực, hẹn sẽ có thực phẩm tốt. Khi ông này
đi theo, tôn giả đưa đến một nơi
không ai
cúng thứ gì. Bạt nan đà
bảo:
"Thông thường ta đi khất thực không
bao giờ
gặp xui như vậy. Thôi ngươi hãy đi riêng
ra, ta cũng đi chỗ khác kiếm thức
ăn".
Tỳ kheo kia một mình về đến tịnh
xá thì
đã quá giờ, phải nhịn
đói, trong lúc ấy Bạt nan đà
đi đến nhà quen, bảo dọn cơm
ăn.
32. QUÁ HẠN THỌ THUỐC
Phật ở Thích sí sấu, vườn Ca tì la vệ. Bấy giờ Thích Ma ha nam
anh của
tôn giả A na luật (em chú bác với Phật lúc còn tại gia) thỉnh
chúng tăng
đến nhà thọ thực trong bốn tháng an cư. Nhóm 6 Tỳ kheo ganh
tị, bảo
Ma ha nam chỉ cúng đồ tốt cho những
vị thượng
tọa mà thôi, dành đồ xấu cho
hạ tọa.
Cư sĩ nổi sân, đuổi nhóm 6, mất tín tâm, tuyên bố không
cúng dường
nữa. Phật chế giới quá hạn bốn tháng hạ an cấm tiếp tục
đến nhà cư sĩ mà thọ thuốc (kể
luôn
thực phẩm). Về sau Ma ha nam hối hận, đến
thỉnh chư tăng trở lại nhận đồ cúng, nhưng các Tỳ kheo không dám
đi, cũng
không dám nhận phần thực phẩm người ta cúng. Do đó phật đã
chế lại
giới này nhiều lần, thêm các trường hợp "cánh thỉnh" (lại mời
nữa), "phần
thỉnh" (chia ra từng phần cúng mỗi vị), "tận hình thọ thỉnh" (tình
nguyện
còn sống là còn cúng cho tỳ kheo) vân vân.
33. ĐI XEM QUÂN TRẬN
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 nhân an cư xong, đi
du hành trông thấy vau Ba tư nặc đang
bày binh bố trận, bèn đứng lại
coi.
Vui hỏi, "Các đại đức có việc gì mà
đến đây?".
- "Không có việc gì, chúng tôi chỉ đứng
coi chơi cho biết".
Vua bất mãn, đuổi khéo bằng cách
gửi vài
món quà cho họ đem về cúng dường
Phât. Khi
mang quà trở về hầu Phật, Phật biết chuyện này quở trách và
chế
giới "Không được đi xem quân trận".
Về sau, có hai viên quan sắp đem
quân ra
trận, đến thỉnh tôn giả A nan vào trại binh thuyết pháp cho
quân
sĩ. Tôn giả nghi sợ phạm giới. Phật chế lại giới này, cho phép nếu
có việc
cần thì được đi.
34. TRONG QUÂN QUÁ HẠN
Phật ở Xá vệ, nhân Phật cho phép vào trong trại quân, Nhóm 6
theo tôn
giả A nan đi vào trại. Trong
khi tôn
giả thuyết pháp thì Nhóm 6 ba hoa với quân sĩ về binh trận chiến
lược, và
xong việc cũng còn lưu lại trong quân. Cư sĩ chê bai, Phật chế
giới nếu có
việc cũng không được ở quá ba đêm.
35. XEM QUÂN GIAO CHIẾN
Lục quần Tỳ kheo khi ở trong quân bèn đi
coi binh lính tập trận. Có một người bị tên bắn trúng,
được đồng bạn băng bó đặt trên
cáng
khiêng về chùa. Cư sĩ hỏi biết nguyên do, đã
không thương còn chê đáng kiếp. Phật
chế
giới, khi có việc đến trong quân, cũng cấm coi binh lính tập dượt.
36. UỐNG CÁC THỨ RƯỢU
Phật ở Xá vệ. Một hôm nhân theo Phật và chúng Tỳ kheo
đi qua một thôn ấp, tôn giả Thiện lai
(Sagata, Sa già đà)
hàng phục
được một con độc long tại địa phương
thường
quấy phá tàn hại dân lành. Sau khi cúng dường Phật và chúng
tăng,
dân chúng xin phép Phật thỉnh "người hùng" lưu lại
để thết đãi. Họ dọn nhiều
rượu, tôn
giả quá chén, người ta phải dìu ông về chùa, say tuý luý càn khôn.
Phật và
A nan tắm rửa thay y phục cho Thiện lai và
đặt ông lên giường. Ông vẫn chưa tỉnh rượu, ú ớ quay chân
về phía
Đức Thế Tôn. Thấy chúng Tỳ kheo xúm
lại coi,
Phật hỏi: "Này các Tỳ kheo, giờ đây
Thiện lai còn có khả năng hàng
phục được độc long chăng?".
- "Bạch Thế tôn, bây giờ y không thể hàng phục cả
đến một con rắn nhỏ, nói gì
đến rồng!". Nhân đấy Phật chế giới
cấm rượu.
37. ĐÙA GIỠN TRONG NƯỚC
Phật ở Xá vệ chế giới, Nhóm 17 Tỳ kheo phạm. Một hôm, khi cùng
với Mạt
lợi phu nhân ngồi trên lầu cao, vua trông thấy nhóm 17
đang đùa giỡn tạt nước vào
nhau trong
lúc tắm. Vua Ba tư nặc chưa tin Phật pháp, thấy vậy sinh tâm phỉ
báng bèn
chỉ cho phu nhân xem mà nói: "Phu nhân hãy nhìn xem các ruộng
phước quý
hóa của bà kia kìa!".
Bà chống chế: "Các vị ấy tuổi còn trẻ, mới tập sự ấy mà". Rồi
phu nhân
lẳng lặng cho người đến bạch Phật sự
vụ ấy.
Trong Nhóm 17 có vị đã chứng đạo,
biết
tâm niệm của vua và hoàng hậu bèn thăng
lên hư không, làm các phép thần biến.
Mạt lợi phu nhân liền chỉ cho vua xem mà nói: "Bệ hạ hãy nhìn
xem những
người bệ hạ báng bổ kìa!".
38. THỌC LÉT NGƯỜI KHÁC
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 phạm. Một vị trong Nhóm 6 nhân lúc chơi
đùa, đã
thọc lét một vị trong Nhóm 17 cười tới nỗi chết ngất. Phật nhân
đấy chế giới.
39. KHÔNG NGHE CAN GIÁN
Phật ở Câu diệm di, trong vườn Cù sư la chế giới. Tỳ kheo Xiển
đà phạm.
40. NHÁT CHO NGƯỜI SỢ
Lúc Phật ở thành Ba tra lợi phất (Pataliputra) phía nam sông
Hằng, ngài
được thị giả là Nagapala (Long
hộ) hầu
cận. Một đêm nọ, Phật kinh
hành giữa
rừng cho đến quá nửa đêm, làm
tôn giả
phải thức theo. Ông nảy ý nhát cho Phật sợ mà
đi ngủ, bèn lấy cái y trùm lên đầu
ngồi thụp sau hốc cây, đợi lúc Phật tới gần sẽ nhảy ra hù.
Khi ông
vừa ngồi xuống thì Đức Thế Tôn đã
đến bên hỏi nhỏ: "Này Tỳ kheo
Nagapala, ngươi định làm trò
gì
đấy?" Ông hoảng hồn vía đứng lên
bỏ
chạy. Sáng hôm sau, Phật nhóm tăng
thuật lại
chuyện này, và chế giới.
41. TẮM DƯỚI NỬA THÁNG
Phật ở thành Vương Xá, Nhóm 6 Tỳ kheo phạm. Bấy giờ vua Ba tư
nặc kính
Phật trọng tăng nên
để chúng Tỳ kheo được tự do vào
xử
dụng hồ tắm trong cung. Nhóm 6 Tỳ kheo vào tắm nhiều lần, trở ngại
người
khác. Nhân đấy Phật chế giới.
42. ĐỐT LỬA ĐẤT TRỐNG
Phật ở Khoáng dã thành, Nhóm 6 Tỳ kheo tụ tập
đốt lửa lên sưởi. Trong bọng
cây có
con rắn lớn chui ra, Nhóm 6 la lớn, cầm các que lửa ném tứ tung,
làm cháy
nhà thiên hạ. Phật chế giới.
43. GIẤU CHƠI VẬT DỤNG
Phật ở vườn Cấp cô độc, Nhóm 6
phạm. Một
hôm, vào ngày tăng chúng được
mời ăn
tại nhà cư sĩ, Nhóm 17 thu xếp y bát
để một góc rồi ra vườn đi bách bộ chờ giờ khởi hành. Nhóm 6
Tỳ kheo
muốn trêu chọc trẻ nhỏ nên giấu hết đồ
đạc
của các vị này. Khi đến giờ,
Nhóm 17
đi tìm kiếm khắp nơi không thấy y bát, khóc um lên. Phật
quở trách
Nhóm 6 và chế giới.
44. DÙNG KHÔNG HỎI CHỦ
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 có quá nhiều y phải làm phép tịnh thí. Sau
khi
tịnh thí, muốn mặc phải hỏi chủ (mặc dù các y ấy mình vẫn giữ).
Nhóm 6
không theo quy ước này, Phật chế giới.
45. DÙNG Y MỚI NGUYÊN
Phật ở Xá vệ chế giới. Nhóm 6 mặc y mới màu trắng
đi đường, bị cư sĩ mỉa mai rằng trông
giống
các đại thần. Phật chế giới không được mặc y trắng, phải nhuộm các
màu
hoại sắc.
Ngũ phần thì nói y mới cần phải làm dấu cho dễ nhận, gọi là "điểm
tịnh" ba chấm, như ngày nay ta thêu tên. Nguyên nhân như
sau. Một
hôm có đoàn Tỳ kheo an cư
xong, về Xá
vệ đảnh lễ Phật. Họ cùng với
đoàn thương khách lúc
đi qua một khu rừng, bị giặc cướp hết
hành
lý và y phục mang trên người (ngày nay gọi là trấn lột). Khi
đoàn người
đi ra cổng rừng, các quân canh thấy
Tỳ kheo
mất hết y bát, hỏi ra biết đã bị cướp. Biết vua Ba tư nặc
mộ Phật,
nếu để các Tỳ kheo về nói đã
bị cướp
thì vua sẽ trị tội họ không bảo vệ dân lành. Toán quan quân bèn
nói cả
đoàn người hãy ngồi lại,
đợi họ đi truy lùng bắt bọn
cướp. Sau
một hồi săn tìm, bắt gặp bọn
cướp giấu
hàng trong một khu rừng lân cận, họ tịch thu hết tang vật
đem về. Các thương gia đều mừng rỡ
lấy lại
được hàng hóa sau khi khai báo cho quan quân. Còn một
đống vải vóc và y phục (tức
những tấm
vải để quấn quanh mình, tăng
cũng như tục, theo cách phục sức của Ấn Độ) thì họ
để ưu tiên cho các Tỳ kheo
đến nhận. Tỳ kheo không thể phân biệt
y của mình
với vải mới của đoàn thương
gia lấy
trước. Những người buôn láu cá nhận hết các tấm y mới nhất,
để lại toàn
đồ cũ rách cho các Tỳ kheo. Biết mình
hố, nhưng trước sự đã rồi các
Tỳ kheo
đành mang y rách tươm trở về
vườn Cấp
cô độc. Các cư sĩ hỏi: "Mùa an
cư vừa
xong, tại trú xứ an cư không có ai cúng gì hay sao mà chư
đại đức ăn mặt tồi tàn thế kia
về hầu
Phật?".
Các Tỳ kheo thuật lại chuyện như trên. Những chư sĩ có người
cảm phục,
song cũng có người bĩu môi chê trách: "Tỳ kheo tự nhận là biết
pháp biết
luật, nhưng đến tấm y của mình
khoác
trên người mà cũng không nhận ra, thì làm ăn
nỗi gì? Quả là những người chẳng được
tích sự gì cả".
Nhân đấy Phật chế giới phải "điểm
tịnh" để
dễ nhận ra y của mình.
46. CỐ GIẾT SÚC SINH
Phật ở Xá vệ chế giới. Tôn giả Ca lưu đà
di mỗi khi tọa thiền thường bị quấy rầy vì bầy quạ bay
đến kêu ỏm tỏi. Tức mình, ông
bèn thủ
sẵn một cái ná và một đống hột "bì
lời" để bắn chim. Vốn có tài
thiện xạ
bá phát bá trúng, ông làm chết vô số quạ đang
bay. Khi cư sĩ vào vườn thấy thây chim nằm ngỗn ngang hỏi
ra mới
biết do ngài bắn chết, họ chê bai Tỳ kheo thiếu tâm từ.
47. UỐNG NƯỚC CÓ TRÙNG
Phật ở Xá vệ chế giới uống nước ao hồ phải lọc kẻo làm chết
nhiều chúng
sinh. Có hai Tỳ kheo sau mùa an cư về hầu Phật,
đi đường quên
đem đãy lọc nước. Một ông vâng
lời
Phật dạy, thà chết không hủy phá giới Phật đã
chế. Do vậy ông chết khát, và ngay lúc đó
được sinh lên trời. Vừa tái sinh vào thiên giới, ông biết
được do nhân giữ giới mà
được tái sinh thù thắng, nên
vị trời
này liền bay xuống rừng Kỳ đà
đảnh lễ Phật, nghe Phật thuyết pháp và
chứng quả. Tỳ kheo kia uống nước ao xong, chôn bạn rồi tiếp tục
lên
đường. Khi đến nơi Phật, ông khoe.
"Bạch Thế
tôn, con nhờ phương tiện uống nước ao mà
được gặp Phật. Tỳ kheo kia giữ chặt
giới cấm
nên chết mất".
Phật dạy: "Tỳ kheo kia đã
gặp ta từ
lâu. Ngay lúc Tỳ kheo kia chết, ông ấy đã
được gặp Như lai do đức tinh thuần
tịnh. Còn
ngươi tuy thấy ta mà kỳ thực, xa cách ta muôn trùng".
48. LÀM BUỒN NGƯỜI KHÁC
Lục quần Tỳ kheo phạm. Lúc Phật ở Xá vệ, Nhóm 17
đến hỏi Nhóm 6 về cách làm thế
nào
để chứng các quả Dự lưu, Nhất lai cho
đến a
la hán. Nhóm 6 bảo: "Chết chửa, sao các ngươi dại thế? Hỏi như vậy
là
phạm giới tội rất nặng".
Nhóm 17 đâm lo sợ phiền não,
bèn
đi đến hỏi một vị khác: "Chúng con đã
hỏi như vậy, thì phạm tội gì, tội ấy thuộc vào thiên thứ mấy trong
Năm
thiên?".
Trưởng lão nói, "Không phạm gì cả. Ai bảo ngươi nói như thế là
phạm
tội?" Khi biết chuyện, Phật chế giới.
49. CHE GIẤU TỘI NẶNG
Phật ở Xá vệ chế giới. Bạt nan đà
chơi thân với một Tỳ kheo, kể cho nghe vị này các tội tăng
tàn mà ông đã phạm, và
dặn
đừng cho ai biết. Về sau hai người
giận nhau,
Tỳ kheo đem tội tăng tàn
của
Bạt nan đà nói giữa chúng tăng.
Tăng hỏi làm sao mà ông biết được,
Tỳ
kheo nói chính đương sự cho biết, nhưng vì lúc ấy
đang chơi thân nên giấu giùm.
Nay tức
giận mới nói. Phật nhân đấy chế giới,
biết
người ta phạm mà mình che giấu thì mình cũng phạm tội.
50. KHƠI LẠI TRANH CÃI
Phật ở Xá vệ. Nhóm 6 Tỳ kheo thường gợi lại những sự tranh cãi
đã được
tăng giải quyết xong; làm cho ai chưa cãi nhau khởi sự cãi,
cãi rồi
thì không chấm dứt được.
51. HẸN ĐI VỚI GIẶC
Phật ở Xá vệ, khi các Tỳ kheo từ Xá vệ đi
Tỳ xá ly, có một đoàn buôn lậu xin hẹn cùng
đi để lọt qua các trạm kiểm soát. Tỳ
kheo
nhận lời cho đi chung. Khi quan quân truy lùng bọn buôn lậu
để bắt, toàn bộ
đoàn người
đi cùng chuyến
đều bị giải về kinh trị tội. Quan tra
hỏi các
Tỳ kheo, "Khi hẹn nhau cùng đi,
các vị
có biết đây là bọn người buôn lậu không?"
Tỳ kheo đáp "Biết mới cho đi, vì
chúng hi vọng khỏi bị bắt".
Căn cứ luật pháp, thì các
Tỳ kheo
ấy đáng tội tử hình, nhưng nhờ
uy thế
của Phật mà họ được thả. Phật chế
giới, nếu
biết là giặc thì không được cùng
đi chung.
52. CHỐNG CAN NÓI CÀN
Phật ở Xá vệ, Tỳ kheo A lê tra (Arittha) phạm. Vị này có ác
kiến, cho
rằng dâm dục không có hại gì cho đạo
giải
thoát. Các Tỳ kheo quở trách, bạch Phật. Phật chế giới.
53. THEO NGƯỜI CÓ TỘI
Tức là tội nói bậy như trên. Phật ở Xá vệ chế giới. Nhóm 6 cung
cấp vật
thực cho A lê tra, bầu bạn với vị này trong lúc ông bị tăng
yết ma quở trách mà chưa sám hối.
54. DUNG KẺ BỊ ĐUỔI
Phật ở Xá vệ, Bạt nan đà có
hai
đệ tử sa di là Karma va
Mahurja có ác
tà kiến như trên (số 52); bị đại
chúng đuổi
ra khỏi chùa. Nhóm 6 biết vậy mà cứ dung túng hai sa di ấy.
Phật
chế giới.
55. CHỐNG CỰ KHUYÊN HỌC
Phật ở Câu diệm di chế giới. Bấy giờ Tỳ kheo Xiển
đà phạm giới tội,
được chúng tăng như pháp can gián mà
không phục tùng, lại bảo: "Tôi không học giới
đó. Tôi sẽ chờ gặp người giỏi Luật hỏi cho ra lẽ rồi mới học.
56. HỦY BÁNG GIỚI LUẬT
Phật ở Xá vệ. Nhóm 6 thấy chúng tăng
tụng
Giới luật thuộc làu làu thì sợ họ y luật vạch rõ các tội
mình
đã phạm, bèn nói: "Chư hiền,
các vị
cần gì phải tụng hết ngũ thiên thất tụ, tất cả giới tội linh tinh?
Chỉ nên
nói 4 pháp ba la di, 13 tăng tàn
là
đủ. Các giới tội khác không quan
trọng, nói lên
chỉ tổ mất thì giờ, lại kiến cho người ta phiền não hổ thẹn hoài
nghi".
Các Tỳ kheo bạch Phật, Phật chế giới.
57. SỢ NÊN NÓI TRƯỚC
Phật ở Xá vệ, một vị trong Nhóm 6 sợ bị kết tội, nên
đến trước một vị thanh tịnh tăng mà
nói: "Hiền giả, nay tôi mới biết đó là
một giới tội Phật đã chế. Phật
cũng
thường dạy rằng không biết thì không phạm tội". Tỳ kheo bạch Phật,
Phật
dạy nói như vậy còn phạm nặng hơn, chồng thêm một tội vô tri, vì
lâu nay
vào các thời tụng giới không dụng tâm nghe kỹ.
58. YẾT MA RỒI HỐI
Phật ở thành La duyệt, vào một mùa an cư,
Đạp bà ma la làm tri sự giỏi, tận tâm với chúng tăng,
y phục ông ta lại rách nát, nên chúng tăng
yết ma để thưởng cho Đạp bà ma la tấm y
đẹp (y công đức) mà cư sĩ
đem đến cúng. Yết ma xong, Nhóm 6 lại
bảo
chúng tăng thiên vị, đem y
cúng chung
mà thưởng riêng cho một người. Phật chế giới, nếu khi tăng
yết ma mình không phát biểu thì coi như
đã chấp thuận, về sau cấm bàn.
59. KHÔNG NÓI GỬI DỤC
Phật ở Xá vệ. Nhóm 6 phạm. Khi chúng răng
sắp nhóm họp để bàn luận về giới, Nhóm 6 sợ bị cử tội nên
cứ tìm cớ
bỏ đi trước, chúng mời ở lại cũng
không ở.
Phật chế giới, muốn đi phải gởi dục (bày tỏ sự hoàn toàn
đồng ý với cách xử đoán của chúng
tăng, về
sau sẽ không khiếu nại).
60. GỬI DỤC RỒI HỐI
Phật ở Xá vệ. Nhóm 6 có người phạm giới tội, họ sợ bị cử nên
theo nhau
không rời (để bênh vực cho
nhau).
Chúng tăng nhóm họp lúc họ đông đủ
để yết
ma. Họ viện cớ bận may y không đến, tăng bảo họ không tới thì
hãy
cử một đại diện, những vị khác gởi
dục cũng
được. Một vị trong Nhóm 6 được cử đi dự yết ma, khi về mặt buồn
sầu nói:
"Tăng yết ma chính là để cử
tội tôi".
Nhóm 6 nghe vậy, mặc dù đã
gửi
dục mà vẫn la oai oái lên rằng yết ma không thành, chúng tôi không
đồng ý. Phật chế giới, đã gửi
dục rồi
thì phải rán chịu.
61. NGHE LÉN MÁCH LẺO
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 phạm. Họ nghe lén,
đem lời người này đi nói với
người kia
và ngược lại; làm cho tăng
chúng rối
loạn, bất hòa.
62. ĐÁNH TỲ KHEO NI
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 giận đánh đập
một vị
trong Nhóm 17, làm cho vị này la khóc om sòm.
63. TÁT TỲ KHEO NI
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 nắm tay lại để
hăm
dọa một chú nhỏ trong Nhóm 17, làm như sắp giáng một cú
đấm. Vị này sợ hãi la khóc.
64. VU KHỐNG TỘI NẶNG
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 vu cho Nhóm 17 phạm tội tăng
tàn (mai mối, v.v...)
65. VÀO CỬA CUNG VUA
Phật ở Xá vệ, Tỳ kheo Ca lưu đà
di
một hôm vào cung vua sớm, trông thấy Mạt lợi hu nhân bị rớt y
phục, về
khoe ầm lên là "Tôi đã trông
thấy tận
mắt vật báu của vua Ba tư nặc". Chúng Tỳ kheo không hiểu
đó là vật gì, nghe Ca lưu
đà di kể mới hiểu ra, liền
bạch Phật.
Phật chế Tỳ kheo không được đi vào
nội
cung.
Phật dạy Tỳ kheo vào nội cung có mười điều
hại.
1. Khi Hoàng hậu cười với Tỳ kheo, vua nghi giữa hai bên có
tình ý.
2. Nếu sau đó Hoàng hậu có bầu
vua sẽ
nghi không phải con mình.
3. Nếu trong cung có mất vật gì quý báu, cũng nghi Tỳ kheo lấy.
4. Việc bí mật trong cung bị tiết lộ ra ngoài cũng nghi cho Tỳ
kheo.
5. Khi vua bỏ con trưởng lập con thứ, thái tử sẽ nghi do Tỳ kheo
xúi.
6. Khi thái tử giết cha để cướp ngôi,
người
ta sẽ nghi Tỳ kheo chủ mưu
7. Đại thần mất chức cũng nghi
vì
Tỳ kheo mà ra nông nỗi.
8. Quan nhỏ thành quan lớn (tàn ác) chúng sẽ nghi là do Tỳ kheo
tiến cử.
9. Vua có đi chinh phạt nơi nào,
người
ta cũng nghi do ông Tỳ kheo thân cận vua bày
đặt để làm khổ dân.
10. Vinh hoa phú quý dễ làm cho Tỳ kheo hoàn tục.
Phật kể xưa có Tỳ kheo bị tẩn xuất, sầu khổ
đi lang thang gặp một con quỷ cũng
đang bị Tỳ
sa môn thiên vương trục xuất khỏi thiên giới,
đang bay lơ lửng tìm cái
ăn. Quỷ dụ tỳ kheo leo lên
lưng mình,
để thiên hạ ch3 thấy người
không thấy
quỷ, sẽ tưởng Tỳ kheo có thần thông, cúng dường trọng hậu. Rồi khi
được đồ cúng, Tỳ kheo cùng quỷ
chia
nhau. Tỳ kheo bằng lòng, leo lên vai cho quỷ mang
đi. Trông thấy Tỳ kheo ngồi ngất
ngưỡng giữa
hư không, thiên hạ cho là thần thánh,
đem phẩm vật cúng dường. Quỷ chở Tỳ kheo về lại chùa cũ,
nơi ông ta
bị tẩn xuất. Dân chúng thấy vật trách chúng tăng
không có mắt, nhè trục xuất một người
đắc đạo như thế. Họ rước ông trở về chùa
để lễ bái cúng dường. Sau đó đó mang
Tỳ kheo
lên vai đi ra gặp ngay Tỳ sa
môn thiên
vương cùng đoàn tùy tùng
đang tuần hành trên không, quỷ
hoảng
hồn ù té chạy, hất Tỳ kheo té nhào xuống đất,
bất tỉnh.
Do vậy, Phật dạy Tỳ kheo không nên dựa thế lực thần quyền vì
khi quyền
lực ấy trúc đổ hay bị hạ bệ, Tỳ kheo
cũng
trúc theo.
66. CẦM LẤY BÁU VẬT
Phật ở Xá vệ, có cư sĩ đi đường
ngủ lại,
sáng sớm ra đi bỏ quên một bao vàng. Tỳ kheo
đến sau trông thấy giữ giùm,
với ý
định sẽ trả lại khổ chủ. Đang cầm thì
chủ trở lui tìm, Tỳ kheo đưa ra. Ông
ta kiểm
lại số vàng và hô hoán lên là đã
mất bớt một nửa. Tỳ kheo nói chưa hề động
tới
số vàng trong bao. Người kia vẫn khăng
khăng bảo Tỳ kheo lấy trộm, đưa nhau đến quan xử. Việc đưa lên
thấu
vua Ba tư nặc, vua nói: "Nếu Tỳ kheo có làm mất của ngươi bao
nhiêu vàng,
cứ khai ra, ta sẽ cho lấy vàng trong kho hoàn lại cho ngươi, chớ
có làm ồn
náo não loạn vị ấy".
Người kia thấy vậy khai trong bao của y khi trước có
đến hai ngàn lượng. Vua cho
người vào
lấy đủ số bỏ vào bao thì thấy
cái bao
của y không thể nào chứa nổi chừng ấy vàng. Có chứng cớ rõ ràng
người ấy
khai gian, vua bèn tịch biên tấc cả vàng và gia sản của y, vì tội
đã vô ơn, lại còn khai man và
vu
khống.
Cư sĩ chê bai Tỳ kheo gây chuyện khiến cho kẻ kia bị phá sản.
Do
đó Phật chế giới cấm cầm bảo vật.
Một hôm, Mạt lợi phu nhân treo nơi gốc cây chuỗi trang sức quý
giá bà
đang đeo trước khi vào vườn
Cấp cô
độc đảnh lễ Phật. Khi về tới nội cung
bà
mới nhớ ra đã quên lấy lại xâu
chuỗi;
toan sai người đến tìm, nhưng
nghĩ lại
sợ nếu tìm không có, người ấy sẽ nghi là chúng tăng
lấy, mang tội hủy báng tam bảo. Trong lúc ấy một Tỳ kheo đi dạo
vườn trông
thấy chuỗi ngọc, đâm nghi không dám cầm. Phật bảo lấy giữ giùm
cho
bà vợ vua, và chế lại giới này: "Trừ khi trông thấy của báu có chủ
bỏ quên
trong chùa, thì nên giữ giùm cho họ".
Lại có Tỳ kheo đến nghỉ nhờ tại
một nhà
thợ kim hoàn, chủ nhà quên cất vào tủ, cứ để
vàng bạc la liệt mà giao phòng cho Tỳ kheo. Tỳ kheo không
dám
động đến của báu vì sợ phạm
giới Phật
chế, mà cũng không dám ngủ vì sợ trộm vào lấy mất. Ông ngồi thức
suốt
đêm để
canh vàng cho chủ nhà. Về bạch Phật, Phật lại chế giới này,
thêm
câu "trừ tại chỗ mình ở nhờ" (ký túc xứ) nếu thấy báu vật mình
biết có
chủ, mà có thể bị trộm, thì nên lấy cất vào một nơi an toàn trước
khi
đi ngủ.
67. VÀO XÓM PHI THỜI
Phật ở Xá vệ chế giới. Bạt nan đà
vào xóm ngoài giờ khất thực để đánh
cờ, bị cư
sĩ chê bai.
68. LÀM GIƯỜNG QUÁ HẠN
Phật ở Xá vệ chế giới. Ca lưu đà
di
làm một cái giường cao lớn, biết Phật sắp đi
qua ông bày ra giữa đường chờ
ngài
đến để khoe: "Bạch Thế tôn, xem con
có giường
cao tốt". Phật quở, và cấm làm giường cao quá.
69. DỒN BÔNG ĐỘN NỆM
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 đi xin bông
tơ tằm về
độn gối, nệm lớn nhỏ đủ cỡ, phải mất thì giờ hong phơi,
đập giũ bụi bặm. Phật cấm dùng
tơ tằm
và lông thú để dồn bông độn nệm, vì
xa
xỉ, thiếu từ tâm, mất vệ sinh và chướng ngại sự tọa thiến, hành
đạo.
70. ĂN CÁC THỨ TỎI
Phật ở thành Tỳ xá ly (Vaisali) chế giới. Tỳ kheo ni Thâu la
nan
đà đến
xin tỏi tại vườn tỏi của một thương gia. Sau khi nhổ cho ni cô đủ
số tỏi
cần dùng, ông chủ ra đi, giao
vườn tỏi
cho người trông giữ. Thâu la nan đà về chùa, các
đệ tử xúm lại xin tỏi, cô chỉ họ tới
vườn kia
mà nhổ. Chủ vườn tỏi chưa về, gia nhân không cho. Các ni cô
về thưa
lại, Thâu la nan đà cùng
đám đệ tử kéo đến vườn. Cô bảo người
giữ
vườn, hãy để cho chúng ta nhổ
tỏi vì
chủ nhà ngươi là chỗ thân tình, đã
bảo
ta cần bao nhiêu cứ việc lấy đem về.
Rồi cô cùng
đám đệ tử thi nhau nhổ tỏi, bảo cái này
nhổ cho Thượng tọa này, đại đức nọ,
Ni bà
kia... cuối cùng họ nhổ sạch cả vườn tỏi. Các cư sĩ dị nghị, chê
bai. Phật
chế giới cấm dùng các thứ tỏi, nếu bị bệnh cần trị bằng tỏi thì
phải bạch
chúng mà ra ở riêng. Trong thời gian ăn
tỏi
không được tụng kinh lễ bái, ngồi nằm giường chúng tăng và
xử dụng
phòng vệ sinh của chúng.
Nhân đấy Phật kể, quá khứ xa xưa
có một
gia đình vợ chồng con cái thương yêu nhau da diết. Chẳng
may người
chồng chết sớm, để lại bà vợ
và một
bầy con túng thiếu. Vì quá yêu thương vợ con, người chồng hóa làm
con chim
nhạn toàn thân bao phủ bằng những cọng lông bằng vàng, bay
đến nhà cũ, mỗi ngày nhả xuống
một
cọng lông cho bà vợ bán nuôi con. Bà vợ sinh lòng tham, bắt con
chim nhạn
nhổ hết lông vàng. Sau vì hết vàng nên nó tái sinh thành chim nhạn
lông
trắng. Ân ái theo nhau nhiều đời như
thế cho
đến ngày nay, người chồng tái sinh làm chủ vườn tỏi và Thâu
la nan
đà là tái sinh của bà vợ ngày
xưa, với
bầy con là những đệ tử hiện nay của
cô ấy.
71. CẠO LÔNG BA CHỖ
Phật ở Xá vệ. Thâu la nan đà
đi khất thực, trông thấy phụ nữ tại
gia nhổ
lông nơi hai nách và chỗ kín, trở về bắt chước. Các vị
thiểu dục
quở trách và trình lên Phật. Phật chế giới.
72. TẨY TỊNH QUÁ HẠN
Phật ở Thích sí sấu, Ca duy la vệ quốc chế giới. Ni chủ
Đại Ái đạo nghe thân thể phụ nữ hôi
dơ, xin
cho ni được dùng nước tẩy tịnh, làm vệ sinh phụ nữ. Thâu la
nan
đà tẩy tịnh
đến nỗi xuất huyết. Phật chế giới cấm
tẩy
tịnh quá sâu.
73. CHẾ RA NAM CĂN
Phật ở Xá vệ. Nhóm 6 Tỳ kheo ni đi
khất
thực, trông thấy các cung nữ, về bắt chước.
74. CÙNG VỖ VỚI NHAU
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 Tỳ kheo ni vào cung vua, các cung nữ bày
cho cách
đồng tính luyến ái. Phật chế giới
cấm.
75. BƯNG NƯỚC HẦU QUẠT (cho Tỳ kheo)
Phật ở Xá vệ chế giới. Có hai vợ chồng cùng xuất gia; người
chồng trở
thành đại đức Tỳ kheo ôm bát đi khất
thực một
hôm ghé vào một chùa ni để
ngồi ăn vì
sắp trễ giờ ngọ trai, không về chùa mình kịp. Gặp
đúng cái chùa trong
đó co ni cô vốn là vợ cũ của
ông. Ni
cô đem nước ra cho đại đức, cầm quạt
quạt cho
ổng. Đại đức hổ thẹn cúi gầm mặt mà nói nhỏ: "Bà
đừng có làm như vậy, người ta
cười".
Bà vợ cũ nỗi tam bành la lên: "Hồi còn ở nhà, ông làm vậy vậy
sao không
xấu hổ, bây giờ lại làm bộ làm tịch? Vậy nè, vậy nè...".
Bà trở cán quạt đánh vào
đầu ông chồng cũ túi bụi, rồi cầm ly
nước đổ
hắt lên người ông. Xong xuôi mới bỏ đi
vào. Các vị khác trông thấy cảnh ấy, bạch Phật. Phật chế
giới cấm
bưng nc hầu quạt cho Tỳ kheo, để đề
phòng
cái sự hắt nước và trở cán quạt đánh;
lại
cũng đề phòng nhiễm tâm sinh khởi hoặc chuốc sự hiềm nghi
của người
đời.
76. ĐI XIN LÚA SỐNG
Phật ở Xá vệ. Nhóm 6 Tỳ kheo đi
xin ngũ
cốc bị cư sĩ chê bai. Phật cấm xin ngũ cốc lúa gạo nơi cư
sĩ không
thân.
77. ĐẠI TIỂU CỎ TƯƠI
Phật ở Xá vệ. Gần tinh xá ni chúng có một
đám cỏ tươi, nam nữ thanh niên ưa tụ tập cắm trại chơi
đùa ở
đấy, gây huyên náo mất thanh tịnh. Các Tỳ kheo ni chờ họ ra
về,
đem đổ đại tiểu tiện trên cỏ,
với ý
định để họ khỏi tiếp tục đến chơi tại
chỗ ấy.
Hôm sau họ vẫn đến ngồi, vì không để ý
nên y phục bị lấm bẩn, hôi hơ. Phật chế giới.
78. ĐỔ BẬY ĐỒ DƠ
Phật ở Vương xá thành. Một buổi sáng sớm, Nhóm 6 Tỳ kheo ni
không xem
trước mà đổ đồ đại tiểu ban đêm
ta
ngoài tường, trúng đầu một đại thần
đang đi
bách bộ. Ông này định đi kiện,
nhưng
một người ba la môn khuyên can ông ta rồi
đến bạch Phật.
79. XEM NGHE MÚA HÁT
Phật ở Vương cá, Nhóm 6 Ni đi dự
xem hội
ca vũ nhạc, cư sĩ trông thấy chê bai. Phật chế giới cấm.
80. VÀO XÓM ĐỨNG KHUẤT
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni cùng người nam
đứng chỗ khuất nẻo trong xóm, bị cư sĩ chê.
81. CÙNG VÀO CHỖ KHUẤT
(Như số 80 ở trên). Xem số 29.
82. KỀ TAI NÓI THẦM
(Như trên. Xem thêm số 29)
83. KHÔNG NÓI MÀ ĐI
Phật ở Xá vệ, có ni cô đến nhà
cư
sĩ ngồi. Cư sĩ có việc đi ra, ni cô
sau đó
không chờ chủ về mà lại bỏ đi,
để nhà
trống khiến chủ nhà bị mất trộm nhiều đồ
đạc.
84. KHÔNG MỜI MÀ NGỒI
Phật ở Vương xá, Thâu la nan đà
đến nhà một ông
đại thần chưa tin Phật pháp, ngồi trên
ghế riêng của ông, rủi để bất tịnh
chảy dơ
bẩn, bị chê bai sỉ vả.
85. NẰM NHÀ CƯ SĨ
Phật ở Xá vệ. Nhiều Tỳ kheo ni đến
một trú
xứ, thấy không có người bèn trải đồ
nằm ra nghỉ. Sau cư sĩ tới hỏi ai cho phép, Tỳ kheo ni bảo không
ai cho
cả. Cư sĩ chê trách. Phật chế giới.
Tỳ nại da quyền 18 kể, một ni cô tới ngủ nhờ nhà thợ dệt, nằm
trên
giường bà vợ trong lúc bà này ra ngoài. Nửa đêm
người chồng về, vào nhà tưởng người nằm trên giường là vợ, khi
thấy
đầu trọc ông ta nổi sân mắng nhiếc.
86. CÙNG VÀO CHỖ TỐI
Phật ở Xá vệ chế giới; Nhóm 6 Tỳ kheo ni ở trong xóm làng cùng
với nam
tử vào chỗ tối, bị cư sĩ chê trách.
87. KHÔNG NGHE CHO KỸ
Phật ở Xá vệ. Tỳ kheo ni Đề xá nan
đa chưa
nghe kỹ lời thầy đã vội đi nói
với
người khác. Bà thầy là Sám ma, sai ni cô
đi lấy ống đựng kim và các vật
dụng
khác. Cô này đi nói: "Thầy tôi bảo
tôi đi ăn
cắp những thứ ấy về cho thầy". Các Tỳ kheo nghe, hỏi lại mới biết
cô đệ tử
nghe nhầm. Phật chế giới.
88. VIỆC NHỎ THỀ BỒI
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni giận nhau thốt lời thề
độc: "Nếu tôi có như vậy, tôi sẽ bị
đọa vào
địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, không
được sinh
vào trong gia đình Phật
pháp..." Phật chế giới cấm thề.
89. ĐẤM NGỰC KHÓC LA
Phật ở Câu diệm di (Kosambi), trong vườn trưởng giả Cù sư la
(Kosila,
dịch là Mỹ âm, là một loài chim hót tiếng rất hay. Trong một tiền
kiếp,
ông làm một con chó sủa mời một vị Bích chi phật vào nhà chủ, do
nhân ấy
mà đời kiếp nào cũng
được âm thanh tốt). Ni cô Ca La cãi
nhau với cô khác, đấm ngực la khóc.
Phật chế
giới.
90. KHÔNG BỆNH CHUNG GIƯỜNG
Phật ở Bà kỳ đà. Nhóm 6 Ni
có hai
vị ngủ chung giường với nhau, các ni khác trông thấy tưởng là nam
tử, sau
mới biết không phải. Phật chế giới cấm hai ni ngủ chung giường.
Lại có một viên đại tướng mới cưới
vợ sắ
đi viễn chinh, đưa bà vợ trẻ đến
chùa
gửi cho ni cô Đạt đề Ca Tỳ la cho
chắc. Ni cô
bảo vệ bà này bằng cách săn
sóc tử tế,
cho ngủ chung giường. Bà đem
tâm ái
luyến ni cô, khi đi đánh giặc về chồng cho người tới chùa
đón, bà không chịu về,
đòi ở luôn với ni cô. Ông
chồng
đau khổ buồn phiền vì thấy
thiện ý ban
đầu của mình lại biến thành
tai họa.
Các vị khác bạch Phật, Phật chế giới hai ni không
được ngủ chung, cũng không được ngủ
chung với
phụ nữ.
91. CHUNG MỀN CHUNG NỆM
Phật ở Xá vệ chế giới. Nhóm 6 Ni nằm chung một nệm,
đắp chung mền. Phật chế, thiếu giường
thì
cho ngủ chung giường, nhưng phải riêng đồ đắp
(mền, ra...). Khi không có mền riêng thì phải mặc y phục
kín
đáo, có mặc áo lót mình.
92. HỎI ĐỂ QUẤY RỐI
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 ni đến một
trú xứ, có
người ở chung trong phòng. Muốn đuổi
khéo, họ bày ra hỏi nhau nghĩa lý kinh luật
để xúc não. Phật chế giới.
93. KHÔNG THĂM NOM BỆNH
Phật ở Xá vệ, ni Thâu la nan đà
có
bạn đồng phòng
đau ốm mà không săn
sóc thăm hỏi, đến nỗi cô này bệnh thêm nặng, chết.
94. AN CƯ ĐUỔI NGƯỜI
Phật ở Xá vệ. Vào một mùa an cư, Ni Thâu la nan
đà lúc
đầu cho một cô khác ở chung, nửa chừng xích mích đuổi đi.
95. BA MÙA DU HÀNH
Phật ở Xá vệ, ni Thâu la nan đà
phạm, bị cư sĩ chê bai: "Chim còn có tổ, ngoại
đạo cũng an cư ba tháng mùa
mưa vì sợ
dẫm phải côn trùng đang mùa
sinh sản.
Vậy mà các Tỳ kheo ni thì cả ba mùa xuân hạ
đông, lúc nào cũng thấy đi ta bà".
Phật chế giới.
96. GIẢI HẠ Ở LỲ
Phật ở Xá vệ, trong thành có những cư sĩ chỉ phát nguyện cúng
dường ẩm
thực cho các tu sĩ trong bốn tháng mùa mưa. Tỳ kheo ni Sám ma an
cư xong
vẫn lại tiếp tục đến xin tại nhà
ấy,
bị cư sĩ chê trách.
97. ĐI CHỖ BIÊN GIỚI
Phật ở Xá vệ; Nhóm 6 Ni đi đến
những chỗ
biên giới đang có giặc làm
phản. Biết vau Ba tư nặc thường ưu đãi
tu sĩ đệ tử Phật, vì giận lây,
bọn
giặc quấy phá Nhóm 6 Ni cho bõ ghét.
98. ĐI CHỖ NGUY HIỂM (ở trong biên
giới)
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni đi đến
những vùng
ở trong biên giới đã rơi vào
tay bọn
phản tặc bị giặc quấy phá (như trên).
99. THÂN CẬN CƯ SĨ (can ba lần không bỏ)
Phật ở Xá vệ, một Tỳ kheo ni phạm tội ở chung với cư sĩ làm
hạnh xấu,
mang tiếng, tăng yết ma can ba lần
không chịu
bỏ. Phật chế giới.
100. ĐI XEM HOÀNG CUNG
Phật ở Xá vệ chế giới, Nhóm 6 Ni ưa vãn cảnh xem các nơi danh
tiếng, bị
cư sĩ chê bai.
101. LỘ HÌNH TẮM SÔNG
Phật ở xá vệ chế giới. Lục quần Tỳ kheo ni lộ hình tắm sông
suối, dâm
nữ trông thấy phẩm bình thân hình cô kia xấu, cô này
đẹp, đi tu quá uổng v.v. người thì
chê
rằng giống như tặc nữ, dâm nữ, không biết xấu hổ. Mạt lợi phu nhân
nghe
thế, xin phép Phật để cho chư ni được
mặc áo
tắm, và may áo tắm cúng dường.
102. KHĂN TẮM QUÁ LƯỢNG
Khi Phật cho phép ni dùng khăn
(áo) tắm,
Nhóm 6 Tỳ kheo ni dùng khăn
quá dài
rộng tốn vải, tha thướt giống như phụ nữ thế tục. Phật chế giới.
103. MAY Y QUÁ LÂU
Phật ở xá vế; Thâu la nan đà
khéo
tay may cắt, nhận vải cắt ra để may y
tăng già
lê giùm cho một ni cô. Cắt xong chưa chịu may, có ý
để cho cô này lui tới nhiều
lần,
đem theo đồ cúng dường cho mình.
Sau
đó có hỏa hoạn xảy ra, vải bay tứ
tán. Cư sĩ
thấy chê bai. Phật chế giới không được
để vải quá lâu không may thành y phục.
104. NĂM NGÀY KHÔNG
ĐOÁI (xem y tăng già lê)
Phật ở Vaisali; Lục quần ni để y
tăng già
lê (đại y) lâu ngày không ngó
ngàng
tới, bị chuột, trùng gậm. Phật chế giới trong vòng năm
ngày phải xem xét lại y phục.
105. NGĂN CÚNG TĂNG Y
Phật ở Xá vệ, Thâu la nan đà
biết
cư sĩ sắp cúng dường y cho chúng, bèn đến
nhà
cư sĩ bảo, tăng đã có
đủ y, không cần cúng thêm nữa.
Cư sĩ
nghe theo, chỉ cúng ẩm thực.
106. MẶC Y NGƯỜI KHÁC Phật ở Xá vệ chế giới. Một ni
cô lấy y cô
khác vận mà không hỏi chủ, khổ chủ tìm khắp không ra tưởng là mất
trộm,
sau gặp bạn đang mặc đi giữa đường.
107. CHO Y NGOẠI ĐẠO
Phật ở Xá vệ. Có hai sa di đệ tử
của Bạt
nan đà đã thôi tu, một
người
hoàn tục một người theo ngoại đạo,
nhưng vẫn
lui tới Nhóm 6 Tỳ kheo ni. Những vị này
đem y sa môn mà cho họ; học
mặc ra
đường làm những việc phi pháp
khiến
cho người ta nghĩ xấu về tăng đoàn
của
Phật. Phật chế giới.
108. NGĂN TĂNG CHIA VẢI
Phật ở Xá vệ. Thâu là nan đà
có
nhiều đệ tử đang ở xa chưa về kịp;
gặp lúc
chúng tăng sắp chia vải, cô bèn ngăn
cản vì sợ đệ tử mất phần.
109. XÚI KHOAN XUẤT Y:
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 Tỳ kheo ni đề
nghị
chúng tăng hay khoan làm phép xuất công
đức y, để được hưởng lâu năm sự phóng
xả.
Phật chế giới.
110. CÚI ĐỪNG XUẤT Y
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni phạm, như trên.
111. KHÔNG DIỆT TRANH CÃI
Phật ở Xá vệ. Ni Thâu la nan đà
có
tài ăn nói, khéo hòa giải các
vụ cãi
nhau. Các ni cô khác đến nhờ Thâu La
Nan Đà
giải quyết giùm một cuộc tranh chấp, nhưng cô này không làm, khiến
về sau
tất cả họ đều hoàn tục vì chán
cái sự
tiếp tục cãi nhau.
112. CHO NGOẠI ĐẠO ĂN
Phật ở Xá vệ chế giới.
Nhóm 6 Ni tự tay đem thực phẩm cho
hai sa
di đệ tử của Bạt nan đà một đã
theo ngoại đạo, một hoàn tục.
Một lần nọ, Phật và tăng chúng
được quá
nhiều thực phẩm do tín đầ dâng cúng; Đức Thế Tôn bảo A nan đem
chia bớt
cho các hành khất và lõa thể ngoại đạo
đang đi theo sau tăng đoàn. Tình cờ một cô gái lõa thể
ngoại
đạo được tôn giả chia phần bánh gấp
đôi kẻ
khác. Bọn này la lên: "A con nhỏ xinh
đẹp đã lọt vào mắt xanh của sa môn đẹp
trai rồi. Nó được chia phần nhiều hơn chúng ta!".
Ngoại đạo thường theo đoàn
đệ tử Phật để ăn thực phẩm dư thừa, vì
họ không được đồ cúng. Một ni cô thấy
một ông
lõa thể ngoại đạo ốm đói, sớt
bớt phần
ăn của mình cho ông ta. Khi được
hỏi
ai cho đồ ăn, người này nói, "Nữ sa môn trọc
đầu". Một lõa thể khác nghe
thế bất
bình, chê kẻ đồng đạo ấy không bằng
con chó còn
biết ơn người cho mình ăn.
Nhân những việc gây tai tiếng kể trên, Phật chế giới cấm Tỳ
kheo ni tự
tay đem thức ăn cho ngoại đạo, nếu
cần thì
để một nơi cho họ đến lấy.
113. ĐỂ NGƯỜI SAI SỬ
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni phạm. Thâu la nan
đà đến khất thực tại nhà
một
phụ nữ có con nhỏ đang khóc dai, mẹ
dỗ hoài
không nín. Thấy Tỳ kheo ni tới khất thực, bà ấy bảo: "Nếu cô có
cách gì
làm trẻ nín khóc, tôi sẽ cho đồ ăn.
"Thâu la
nan đà bế đứa trẻ vỗ về ầu ơ
một lát,
đứa bé nín khóc thật, khi ấy bà mẹ mới
đem thực phẩm ra cúng.
Lần khác Ni chủ Đại Ái đạo đi qua,
bà
mẹ cũng đang gặp nạn con khóc, bèn
gọi
bà vào nhờ dỗ giùm. Ni chủ nói, "Đó
không
phải việc làm của sa môn".
Bà mẹ nói, "Thế sao hôm kia có người nữa sa môn như bà
đã dỗ
được thằng bé nín khóc?" Ni chủ trở về bạch Phật, Đức Thế Tôn chế
giới.
114. XE CHỈ ĐÁNH SỢI
Phật ở Xá vệ; Nhóm 6 Ni tự tay xe chỉ đánh
sợi, cư sĩ trông thấy phẩm bình: "Các cô sa môn Thích nữ
sinh hoạt
giống như những phụ nữ tề gia nội trợ". Phật chế giới.
115. KHÔNG HỎI NẰM, NGỒI (trên giường, ghế nhà cư sĩ)
Phật ở Xá vệ; Thâu la nan đà
đi đến nhà một phụ nữ quen
biết, mặc y
phục đeo nữ trang của bà ấy
rồi nằm
trên giường trong lúc bà bỏ ra vườn sau. Người chồng về tưởng là
vợ, khi
biết là ni cô ông ta mắng cho một trận đuổi
ra. Phật chế giới. (Khác giới số 85 ở trên, "Tỳ kheo ni tới
chỗ lạ
tự trải đồ nằ", giới này là "đến
nhà cư sĩ quen biết mà tự tiện nằm").
116. KHÔNG TỪ MÀ ĐI
Lúc Phật ở Xá vệ, nhiều ni đi đến
thành
Câu tát la ngủ đêm trong nhà
cư sĩ
xong, sáng sớm không nói mà bỏ đi.
Sau đó hỏa
hoạn xảy ra, nhà bị cháy lây không ai cứu, vì cư sĩ cứ
tưởng còn
các Tỳ kheo ni ở lại. (Tương tự giới điều
số
83 ở trên, Tỳ kheo ni bỏ đi
không nói,
để trộm vào khiên đồ đạc trong
nhà
cư sĩ hảo tâm).
117. TÀ MẠNG CHÚ THUẬT
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni học các chú thuật của thế gian, tỉ như
các loại
bùa ngãi, thư phù yểm đảo... Phật
cấm.
118. DẠY NGƯỜI CHÚ THUẬT
Như trên, Nhóm 6 Ni đem chú thuật
thế gian
và ngoại đạo mà dạy cho
cư sĩ.
Phật cấm.
119. ĐỘ NGƯỜI CÓ THAI
Phật ở Xá vệ, Tỳ kheo ni Bà La độ
nhằm một
phụ nữ đã có bầu, cho thọ giới cụ túc xong, ni cô sinh ra
một
đứa bé và ẵm nó theo
để khất thực, bị cư sĩ chê
bai.
120. ĐỘ NGƯỜI CON BÚ
Phật ở Xá vệ. Có Tỳ kheo ni độ cho
một phụ
nữ có con còn bú, để lại nhà.
Bà mẹ thọ cụ túc giới xong, đứa con ở
nhà
khóc lóc vì khát sữa, gia đình
chồng
bèn đem tới chùa
để mẹ nó cho bú. Phật chế giới.
121. ĐỘ CHƯA ĐỦ TUỔI
Lúc Phật ở Xá vệ, các Tỳ kheo ni độ
cho
những thiếu nữ dưới 18 chưa biết gì đã
cho cạo tóc thọ giới. Khi đi ra,
những vị này
không có uy nghi, xử sự không khác gì thế tục, bị cư sĩ chê bai.
Phật chế
giới không được cho thiếu nữ duới 18
thọ giới
cụ túc.
122. KHÔNG HAI NĂM HỌC
Phật ở Xá vệ; các Tỳ kheo ni độ
cho thiếu
nữ cứ đúng 20 tuổi bèn cho thọ cụ túc giới. Vì họ không
được dạy về uy nghi, v.v. nên
cũng
không khác gì người thế tục. Phật chế giới phải
đủ 20 tuổi, và phải dạy uy
nghi giới
pháp rồi mới được cho thọ cụ túc.
123. KHÔNG HỌC SÁU PHÁP
Phật ở Xá vệ nhóm tăng chế giới:
Tỳ kheo
ni độ gái 18 tuổi phải cho học giới (sa di ni), và hai năm
học sáu pháp (thức xoa ma na) để xét nghiệm về thân và tâm
họ, coi
có đủ tư cách để thọ giới cụ túc
không cái đã.
124. ĐỘ KHÔNG HỎI TĂNG
Phật ở Xá vệ; có Tỳ kheo ni độ gái
đủ tuổi
thọ cụ túc, có cho học giới và sáu pháp, nhưng khi trình ra
trước
chúng tăng thì những người này
bị thọt
chân, chột mắt, điếc, què...
không
đủ thân tướng, làm mất mặt
đoàn thể. (nếu những vị này
ham tu,
chỉ nên cho thọ giới bồ tát xuất gia thì những vị thầy khỏi phạm
giới).
125. ĐỘ GÁI CÓ CHỒNG
Phật ở Xá vệ; các Tỳ kheo ni độ
cho phụ nữ
đã kết hôn, vội cho thọ cụ túc, trong khi họ còn mang nhiều
tập tục
xấu của thời còn tại gia. Do vậy Phật chế giới, phụ nữ
đã kết hôn thì phải
đợi đến 12 năm học pháp để "đoạn tâm
tương
tục" mới được thọ cụ túc.
126. ĐỦ NĂM THIẾU PHÉP
Cũng như giới 124, chỉ khác trường hợp này là
độ cho gái có chồng; dù
đã ở chùa
đủ 12 năm nhưng thiếu khả năng về nhiều mặt. Do vậy phải trình
cho
chúng tăng khi muốn độ người nào,
để khỏi vì "tình cảm riêng" và
"quen
con mắt" mà độ cho những người không
đủ tiêu
chuẩn, và cho thọ giớ cụ túc.
127. ĐỘ CHO NGƯỜI XẤU (dâm nữ, tặc
nữ)
Phật ở Xá vệ; có Tỳ kheo ni độ cho
dâm nữ
xuất gia. Những người trước kia từng ra vào xóm
điếm quen biết cô này, trông
thấy
"nàng" đã cạo tóc thành ni cô
bèn
tưởng rằng nữ xuất gia toàn là người như vậy.
128. ĐỘ KHÔNG NUÔI DẠY
Phật ở Xá vệ; Ni bà An độ nhiều đệ
tử
không dạy dỗ, các cô này đi ra
mất uy
nghi, thiếu tư cách, hỏi các cô đệ tử ai, họ xưng tên thầy
mình là
"Ni bà An ổn". Phật chế giới muốn độ
người,
thầy phải đủ khả năng nuôi đệ tử bằng tài thí pháp thí.
129. KHÔNG NƯƠNG TỰA THẦY
Phật ở Xá vệ; Tỳ kheo ni độ nhiều
đệ tử
cho thọ cụ túc giới xong thả cho đi khắp không học giới pháp, uy
nghi...
bị đời chê trách. Phật chế giới Tỳ kheo ni sau khi thọ giới
phải
nương thầy hai năm.
130. KHÔNG PHÉP, LÀM THẦY
Phật ở Xá vệ, có những Tỳ kheo ni không biết gì cũng
độ đệ tử nên thầy trò cùng dốt
nát,
thiếu uy nghi. Phật chế giới, Tỳ kheo ni muốn
độ đệ tử phải đảnh lễ tăng chúng, xin phép; tăng cho mới được độ.
Tăng xét
thấy vị ấy có đủ khả năng nuôi và dạy
đệ tử thì mới yết ma cho độ
chúng.
131. THIẾU HẠ LÀM THẦY
Phật ở Xá vệ. Có nhiều ni mới thọ cụ túc giới không lâu
đã độ đệ
tử, nên không biết dạy dỗ. Phật chế giới, Tỳ kheo ni phải
đủ 12 hạ mới được làm thầy
độ chúng.
132. ĐỦ HẠ, TĂNG KHÔNG CHO
Phật ở Xá vệ, có Tỳ kheo ni tu lâu, đủ hạ
nhưng tăng xét thấy vị ấy không đủ khả năng để độ người, nên
không
cho nhận đệ tử. Phật chế giới, dù
đã đủ
hoặc trên 12 hạ, cũng phải có phép tăng
mới được độ người. (Giới này tương tự giới số 130 trên kia.
Giới
130 cấm độ người là nhắm hạng
thầy dốt
nói chung, bất kể đủ tuổi hạ hay
không. Giới
này nhắm hạng thầy tự cho mình đã
tu lâu, dư tuổi hạ nhưng thiếu năng
lực mà
vẫn tự tiện độ chúng).
133. HỦY BÁNG KHÔNG CHO
Phật ở Xá vệ. Sau khi Phật chế giới muốn
độ người phải xin tăng cho phép. Có những vị khi tăng làm
yết ma
tuyên bố không cho phép họ độ đệ tử, bèn
hủy báng chúng tăng, nói có tham sân
si sợ,
kẻ cho người không. Phật chế giới không được hủy báng.
134. ĐỘ KẺ CÓ CHỦ
Phật ở Xá vệ; có Tỳ kheo ni độ cho
những
cô gái đang ở dưới sự giám hộ của cha mẹ, hoặc chồng, hoặc chủ...
của họ.
Khi những người này trốn đi
xuất gia,
thì chồng, chủ, cha mẹ họ đến
bắt về,
gây sự huyên náo. Phật chế giới cấm độ
cho những người không có phép cha mẹ, chồng, chủ... cho xuất gia.
135. ĐỘ KẺ ĐANG YÊU
Phật ở Xá vệ, có Tỳ kheo ni độ
nhằm gái
đang thất tình, vào chùa hay cáu kỉnh sầu muộn. Phật chế
giới này
bắt buộc trước khi độ người, phải
biết rõ
lai lịch họ, tìm hiểu nguyên nhân gì khiến họ muốn xuất gia.
136. GẠT THỨC XOA HỌC
Phật ở Xá vệ. Thâu la nan đà
bảo
một thức xoa hãy bỏ cái này học cái này, rồi ta sẽ
độ cho thọ giới. Kẻ kia nghe lời,
nhưng rốt
cuộc Thâu la nan đà cứ lần lửa không
độ cho thọ cụ túc giới, cốt để cô này lui tới cúng dường
cho lâu.
Cô phiền não, oán trách Thâu la nan đà.
Phật chế giới. (Nếu không vì y thực, mà chỉ vì muốn thử tâm kiên
cố của
người ấy đối với đạo, thì chắc
không
phạm giới này).
137. GẠT THỨC XOA Y
Phật ở Xá vệ; cũng cô Thâu la nan đà
bảo một ni cô đem y cúng ta, ta sẽ
cho thọ
giới, rốt cuộc Thâu la nan đà nhận y mà không cho thọ. Phật
chế
giới.
138. DƯỚI MƯỜI HAI THÁNG
Phật ở Xá vệ, Ni bà An ổn độ đệ tử
thật
nhiều mà không dạy xuể, họ đi
ra thiếu
tư cách, mất uy nghi... Phật chế giới, độ người này sau
mười hai
tháng mới được độ người khác. (mỗi
năm chỉ
được độ một người).
139. ĐỂ CÁCH MỘT ĐÊM
Phật ở Xá vệ; Ni chúng độ người
thọ cụ túc
xong, cách đêm mới qua bạch Tỳ kheo tăng.
Phật chế giới cho ni thọ cụ túc xong phải qua bạch chúng tăng cùng
trong ngày ấy, không được để cách đêm.
(thiếu cung kỉnh).
140. KHÔNG THỌ GIÁO THỌ
Phật ở Xá vệ; có nhiều Tỳ kheo ni vào ngày bồ tát không
đến Tỳ kheo tăng nhận sự chỉ giáo.
Phật chế
giới này.
141. KHÔNG CẦU GIÁO THỌ
Phật ở Xá vệ; có nhiều ni không đến
tăng
cầu sự chỉ giáo vào ngày bố tát. (Phạm
điều 6 trong 8 kỉnh pháp).
142. KHÔNG CẦU TỰ TỨ
Lúc ở Xá vệ, Phật đã dạy Tỳ
kheo ni
xong hạ phải sang bạch tăng cầu ba sự
tự tứ,
song có nhiều vị không chịu sang. Phật chế giới này.
143. AN CƯ KHÔNG TĂNG
Phật ở Xá vệ; có Tỳ kheo ni an cư ở chỗ không có chùa tăng
nên không có chỗ y chỉ cầu giáo thọ, xong hạ cũng không có
thầy
để trình bày ba việc tự tứ
thấy nghe
nghi. Phật cấm ni an cư một nơi cách quá xa xhùa tăng
(nhưng quá gần thì cũng không tốt lắm).
144. KHÔNG THƯA MÀ VÀO
Phật ở Xá vệ; có một Tỳ kheo ni giao thiệp rộng qua
đời, ni chúng thiêu xác xong
đem di cốt vào trong vườn Cấp
cô
độc mà xây tháp, ngày ngày
thay phiên
nhau đến thắp hương đốt trầm dâng hoa
cúng
nước, khóc lóc làm cho chúng tăng
tọa
thiền mất thanh tịnh. Cư sĩ các nơi trông thấy chỗ thờ trang nghiêm,
không hay biết gì cũng bắt chước kéo nhau tới cúng dường lễ bái
như lễ
tháp phật. Một hôm một vị la hán khách tăng
dẫn đồ chúng đi ngang vườn Cấp cô độc, trông thấy cảnh dập dìu
ấy
cũng tưởng là tháp thờ Răng Phật hay
Móng tay
Phật gì ấy, nên sì sụp lễ bái. Tôn gải Ưu ba li
đang tạo thiền gần đấy thấy vậy lên
tiếng: "Huynh có biết tháp ai đấy
không mà
lạy?".
Vị La hán vỡ lẽ ra là tháp của một ni cô, bèn bảo
đệ tử tới đập phá, liệng ra ngoài
cổng
chùa. Trước khi cùng đồ đệ ra đi, ông
đến bảo
tôn giả Ưu ba ly hãy đề phòng,
sắp có đại nạn. Quả nhiên lúc
các ni
cô canh giữ chạy về chùa ni trình bày tự sự, toàn thể ni chúng
mang gậy
gộc kéo đến. Tôn giả Ưu ba ly đang
nhập định
Diệt thọ tưởng, ngồi bất động như cái thây chết. Được các ni canh
tháp cho
biết do ông này mà tháp bị đập
phá,
các Tỳ kheo ni lấy đá chọi, gậy gộc quất túi bụi vào người
tôn giả,
nhưng ngài không hề hấn gì, vì đã
dứt
hết cảm giác trong lúc nhập định. Tỳ
kheo ni
hành hung tôn giả cho hả giận xong, kéo nhau về chùa. Khi
tôn giả
xuất định trở về trú xứ, các Tỳ kheo
trông
thấy y trên người ngài rách như xơ mướp, thân tàn ma dại,
hỏi ra
biết ngài đã bị các ni cô hành
hung,
họ tức giận bảo nhau: "Bất quá thì đừng
cúng
dường cung kính chúng ta cũng được rồi, làm gì mà
đánh anh em một cách tàn nhẫn
đến thế?"
Họ quyết định từ nay cấm cổng
không cho
bất cứ bà ni nào bén mảng vào vườn Cấp cô
độc. Ni chủ Đại ái đạo đến thăm Phật
cũng bị
từ chối không cho vào vườn. Nhiều ngày không thấy bà di mẫu
đến thăm, Đức Thế Tôn hỏi tôn giả A
nan mới
biết đã xảy ra cợ sự. Ngài bèn nhóm tăng
chế giới: Từ nay chư ni muốn vào chùa tăng
phải bạch trước để xin phép. Vị tăng giữ cổng nên hỏi, "Các
cô
không mang theo dao búa gậy gọc đấy
chứ?".
Khi họ trả lời là "không" mới cho vào.
145. MẮNG TỲ KHEO TĂNG
Các ni cô như trên, hôm sau vào thành khất thực, gặp tôn giả Ưu
ba ly
đang ôm bát đi, họ mắng nhiếc: "Chính
lão
thầy chùa kia là kẻ đã xúi
giục phá
tháp chúng ta. Thật là kẻ dã man tàn nhẫn vô nhân
đạo". Các kth về bạch Phật, Phật chế
giới.
146. TRÁCH MẮNG NI CHÚNG
Phật ở Câu diêm di. Tỳ kheo ni Ca La ưa cãi nhau với người, ai
can cô
còn mắng lại.
147. MỔ NHỌT KHÔNG THƯA
Phật ở Thích sí sấu, vườn Ni câu luật. Tỳ kheo
Đạt đà Ca tì la nhờ người nam
mổ xẻ
ung nhọt, khi chạm xúc thân thể mềm mại của cô, người ấy nổi tâm
xấu toan
phá phạm hạnh. Ni cô hô hoán lên. Các vị ni khác quở trách Ca tì
la rồi
bạch Đức Thế Tôn. Phật dạy, phải bạch
chúng
trước mới được để cho nam y sĩ mổ xẻ băng bó ung nhọt trên
người.
148. ĂN XONG ĂN NỮA
Phật ở Xá vệ, có cư sĩ đến thỉnh
ni chúng
hôm sau về nhà thọ trai. Đêm
ấy
cả nhà cư sĩ thức để làm các
thứ cúng
dường. Hôm sau gặp ngày lễ hội, chùa được
thập phương mang nhiều đồ đến cúng, chư ni ăn trước ở chùa
xong mới
ôm bát đến nhà cư sĩ thọ thực.
Vì
đã no bụng nên họ không thể
ăn thêm gì nhiều; cư sĩ thấy
họ
ăn một cách thờ ơ nên lấy làm
buồn bã.
Những vị thiểu dục quở trách và bạch Phật. Phật chế giới,
đã nhận mời
ăn thì không
được ăn trước.
149. GANH TỊ VỚI THẦY
Ni An ổn đến nhà một cư sĩ
được nhiều đồ cúng trở về khen với đệ
tử Đề
xá: "Cư sĩ ấy thật là tốt bụng, nhiệt tâm".
Ni đệ tử bảo: "Họ chỉ tốt bụng,
nhiệt tâm
đối với thầy mà thôi; đâu có
đạo tâm gì".
150. HƯƠNG LIỆU XOA THÂN
Phật ở Xá vệ; Nhóm 6 Ni phạm; cư sĩ nghe mùi thơm của hương
liệu (nước
hoa, v.v.) toát ra từ thân thể các ni cô, chê bai là "giống như
dâm nữ".
Vì ở đời, kẻ xức nước hoa là
cốt
để dụ cho người khác phái ngửi mùi
thơm mà bị thu hút đến nơi mình;
đôi khi vì thế mà họ nổi tâm
xấu và có
phản ứng bất lương. Phật cấm.
151. DẦU MÈ XOA THÂN
Phật ở Xá vệ. Nhóm 6 Ni phạm. Thoa "Dầu mè" cũng như ngày nay
xức kem
dưỡng da vậy; đều là những
kiểu cách
làm dáng của bọn ăn không ngồi rồi,
dư tiền
lắm của xưa cũng như nay, luôn nghĩ cách trau chuốt cái thây xú
uế.
152. BẢO ĐỒNG GIỚI XOA
Phật ở Xá vệ; Nhóm 6 Ni phạm, như trên, nhưng thay vì tự mình
làm thì
lại nhờ Tỳ kheo ni khác xoa, còn tệ hơn nữa vì làm cho hai người
mất thì
giờ. (Hoặc có thể không thoa dầu mè để
trang
điểm mà xức dầu cạo gió thường thì giờ, tạo cho cơ thể có
thói quen
xấu. Trừ phi trúng gió quá nặng).
153. BẢO THỨC XOA XAO
Như trên, nhưng sai thức xoa là kẻ dưới mình về khía cạnh "thâm
niên"
trong đạo. Họ có thể vì nể mà
phải
giúp, nhưng không vui vẻ lắm.
154. SADI NI XOA
Như trên, xem từ số 151.
155. BẢO PHỤ NỮ XOA
Như trên, xem từ số 151.
156. MẶC QUẦN LÓT ĐỘN
Phật ở Xá vệ chế giới. Thâu la nan đà
đi khất thức thấy các phụ nữ mặc quần
độn cho
mông nở, eo thắt... về bắt chước. Phật cấm chỉ.
157. SẮM ĐỒ TRANG ĐIỂM
Phật ở Xá vệ; Nhóm 6 Tỳ kheo ni phạm bị cư sĩ chê bai "giống
dâm nữ".
158. MANG GIÀY CẦM DÙ
Phật ở Xá vệ; Nhóm 6 Ni phạm, bị đời
mai
mỉa. Phật chế giới cấm.
159. KHÔNG BỆNH NGỒI XE
Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni phạm, bị cư sĩ chê bai "giống như dâm
nữ".
(Ngày xưa, xe cũng như kiệu, đều do
người
kéo. Phần nhiều chỉ có hạng quan quyền, trưởng giả và gái
mãi dâm
giàu có mới sử dụng phương tiện giao thông
đắt tiền và phong kiến này). Do vậy Phật chế giới cấm ngồi
xe.
160. KHÔNG MẶC ÁO LÓT
Phật ở Xá vệ chế giới. "Tăng kỳ
chi" là
áo che ngực, nách, eo của phụ nữ. Nhóm 6 Ni vào thôn xóm, không
mặc tăng
kỳ chi, y ngoài bị gío bay để
lộ nách,
ngực. Cư sĩ chê cười. Phật chế giới, vào xóm phải mặc tăng
kỳ chi bên trong đại y (tăng
già
lê).
161. TỐI ĐẾN NHÀ NGƯỜI
Phật ở Xá vệ chế giới. Nguyên do vì Thâu la nan
đà tới nhà một cư sĩ vào buổi
tối, lúc
về lẻn vào lấy đồ đạc mang đi.
162. TỐI MỞ CỔNG CHÙA
Lúc Phật ở Xá vệ, Nhóm 6 Ni tối mở cổng chùa
đi ra không dặn, để trộm vào
vơ vét
tài sản của ni.
163. TRỜI LẶN ĐỂ CỔNG
Phật ở Xá vệ; Nhóm 6 Ni vào lúc mặt trời lặn mở cổng
đi ra, đúng vào lúc một kẻ
cướp vượt
ngục đang tìm
đường thoát, gặp cửa mở bèn
lẻn vào.
Khi quan quân truy lùng hỏi, các ni đều
không
thấy ai vào chùa. Họ vẫn nghi, lục soát một hồi quả nhiên
bắt
được tên cướp
đang trốn trong chùa, bèn chê
trách
chùa dung chứa giặc. Hỏi ra là do Nhóm 6 Ni trời lặn
đã ra đi
để cổng mở. Phật chế giới.
164. KHÔNG CÓ AN CƯ
Phật ở Xá vệ chế giới. Nhiều ni cô du hành cả bốn mùa, bị cư sĩ
chê
trách đến tai Phật. Phật chế, ni phải
an cư
ba tháng mùa mưa phần trước (tiền an cư, tức từ ngày rằm)
hoặc phần
sau (hậu an cư, tức từ 16 trở đi).
Xem giới
số 95.
165. ĐỘ NGƯỜI THƯỜNG XUẤT
Phật ở Xá vệ; có Tỳ kheo ni độ cho
những
người bị chứng bệnh thường rỉ chảy đại tiểu tiện, mũi dãi...
thọ cụ
túc giới, Phật cấm.
166. ĐỘ NGƯỜI HAI HÌNH
Phật ở Xá vệ. Có Tỳ kheo ni độ cho
kẻ có
hai căn (bán nam bán nữ), nghĩa là lúc giao thiệp với nữ
thì họ
giống nam, lúc giao thiệp với nam thì họ giống nữ. Phật cấm.
167. ĐỘ NGƯỜI NHẬP MỘT
Phật ở Xá vệ; Tỳ kheo ni độ cho kẻ
hai
đường đại, tiểu nhập một. Phật cấm.
Dị tật này có ba trường hợp như sau:
Một là âm đạo nhập một với trực tràng,
thì kinh nguyệt và phân cùng xuất từ một chỗ.
Hai là âm đạo và
đường tiểu tiện nhập một; thì
kinh
nguyệt và tiểu tiện chảy theo một đường.
Hai
trường hợp này thường do bẩm sinh.
Ba là đối với những phụ nữ đã
sinh
con, thì ngày xưa lúc chưa có phẫu thuật khâu vá, có thể có trường
hợp lúc
sinh nở âm đạo bị rách thông lên
trên
là đường tiểu và dưới là hậu
môn, trở
thành cả ba đường nhập một, khiến cho
đại,
tiểu và bất tịnh cùng xuất từ một chỗ.
168. ĐỘ NGƯỜI NỢ, BỆNH
Phật ở Xá vệ. Bấy giờ có Tỳ kheo ni độ
người đang mắc nợ, bị chủ nợ tới đòi, kêu réo chửi rủa,
mắng lây cả
ni chúng, gây huyên náo trong chùa. Lại có người
độ cho kẻ có bệnh kinh niên,
các cô
khác phải săn sóc bệnh nhân tối ngày
không có thì giờ hành đạo. Phật chế
giới cấm
độ cho những người đang mắc nợ và có bệnh khó dứt.
Xuất phát là việc của bậc thượng nhân, cốt
để kế thừa Phật pháp chứ không phải để trốn nợ, tìm chốn an
thân,
hoặc mượn đạo tạo đời. Công việc cao
cả ấy
không thể được đảm nhiệm bởi những thành phần bất túc. Bởi
vậy nếu
muốn chánh pháp được truyền thừa, thì
phẩm chất của người xuất gia cần được
chú
trọng hơn là số lượng.
169. HỌC NGHỀ BÓI TOÁN
Phật ở Xá vệ chế giới; Nhóm 6 Ni phạm. "Thuật số" là một trong
những tà
mạng Phật cấm. Ngay cả phật tử tại gia còn không
được sống bằng nghề bói toán, huống
chi xuất
gia.
170. DẠY NGHỀ BÓI TOÁN
Như trên. Lục quần Tỳ kheo ni dạy cho cư sĩ cách coi hướng
đất, ngày giờ tốt xấu, v.v.,
bị Phật
cấm.
"Chánh pháp niệm xứ" quyển 48 nói xuất gia có 13 việc chướng
ngại hành
đạo.
1. Nói nhiều.
2. Chữa bệnh.
3. Hội họa.
4. Đờn ca xướng hát làm thơ
ngâm vịnh.
5. Chiêm tinh (xem thiên văn).
6. Đoán điềm triệu (bói toán).
7. Tham ăn ngon.
8. Ưa của báu (vàng bạc, đá
quý, chơi
đồ cổ, sưu tập tem cò, v.v.).
9. Thân cận quyền quý.
10. Hi vọng được mời.
11. Không cầu học chánh pháp.
12. Xã giao rộng.
13. Ở chung với người xấu.
171. BỊ ĐUỔI KHÔNG ĐI
Phật ở Xá vệ chế giới. Nhóm 6 Tỳ kheo phạm.
172. HỎI KHÔNG XIN TRƯỚC
Phật ở Xá vệ; Ni An ổn đến một Tỳ
kheo hỏi
nghĩa kinh luật, vị này không đáp
ngay
được, đâm ra hổ thẹn. Phật chế giới muốn hỏi Tỳ kheo nghĩa lý cần
phải
bạch trước.
Pháp không phải lúc nào cũng nói được
và
bạ đâu nói đó. người hỏi pháp cần có
tâm khiêm
hạ cầu thỉnh, để thầy tùy
thời, tùy
chỗ, tùy người và tùy pháp mà giải thích.
173. ĐI ĐỨNG XÚC NÃO
Phật ở Xá vệ chế giới này. Do Nhóm 6 Tỳ kheo phạm. Những vị này
muốn
xúc não người đang ở chung, bèn
ở
trước mặt họ mà đi đứng nằm ngồi để
quấy rối.
Xem thêm giời số 92 ở trên, quấy rối người ở chung bằng
cách hỏi
nhau nghĩa lý kinh luật.
174. XÂY THÁP CHÙA TĂNG
Xem sự tích ở giới 144.
175. KHINH TÂN TỲ KHEO
Phật ở Xá vệ chế giới; vì có nhiều ni không cung kính tân Tỳ
kheo.
176. ĐI MÀ LẮC MÌNH
Phật ở Xá vệ chế giới. Nhóm 6 Ni phạm, bắt chước các phụ nữ ở
đời, làm dáng lúc
đi Phật cấm.
177. DÙNG ĐỒ TRANG SỨC
Phật ở Xá vệ chế giới; Nhóm 6 Ni phạm (đeo
đồ trang sức của phụ nữ).
178. BẢO NGOẠI ĐẠO XOA
Phật ở Xá vệ chế giới; khi một Tỳ kheo ni có em gái
đang tu theo ngoại đạo đến thăm, cô này
nhờ xoa bóp vì Phật đã cấm ni
và nữ
phật tử xoa. (Xem các giới từ số 150 đến
155).
-ooOoo-