[03]
Phần năm
TÁM PHÁP HỐI QUÁ
Tám pháp "hối quá" dịch âm là Ba la đề đề
xá ni, dịch nghĩa là "Đối tha
thuyết"
hay "Hướng bỉ hối" là khi phạm thì cần
đối trước một vị khác mà sám hối về việc quấy mình
đã làm để
được thanh tịnh. Tám pháp ấy là không bệnh mà do lòng tham
ăn, đi xin một trong tám thứ: Tô,
dầu, mật,
đường tán, sữa, lạc, cá, thịt.
Cả tám pháp đều do Lục quần Ni
phạm đầu tiên,
bị cư sĩ chê bai, Phật chế giới.
Trong tám thứ, ba thứ tô, sữa, lạc đều
là
những thực phẩm chế biến từ sữa. (Sữa tươi từ bò cái gọi là nhũ,
từ nhũ có
lạc, từ lạc có sinh tô, từ sinh tô có thục tô, từ thục tô có
đề hồ). Cùng với
đường, mật, dầu thành sáu thức
ăn có tính chất dinh dưỡng cao, người
xuất
gia chỉ nên xem như thuốc chữa bệnh. Cá, thịt thì liên hệ
đến sinh mạng của loài khác,
dù nói gì
đi nữa (như nói nguyên thủy
Phật cho
phép ăn năm thứ tịnh nhục, vân vân)
thì
ăn vào cũng thương tổn tâm từ,
mắc nợ
máu thịt khó mà giải thoát. Trừ phi bị bệnh kinh niên cần phải
ăn, hoặc không có thực phẩm nào
khác,
thì không nói. (Như ở Tây tạng, trên núi cao rất ít rau cỏ mọc
được, tu sĩ hầu hết theo đại thừa
giáo mà
không ăn chay. Khi sang Tây phương,
ngài
Dalai Lama, vị Phật vương xứ Tây tạng lưu vong, một hôm trông thấy
người
ta đang cắt cổ gà
để thết đãi, ngài từ chối dùng
dĩa
thịt gà hôm ấy mặc dù không có món ăn
nào
khác ngon hơn. Từ đấy ngài
ăn chay hoàn toàn như người
Trung Quốc
và Việt Nam, nhưng sau 12 tháng ngày lâm bệnh vàng da rất nặng,
bác sĩ bảo
ngài phải kiêng sữa, đậu phụng và
phải
trở lại ăn cá thịt mới khỏi bệnh. Tuy
không
trường trai được, mà ngài vẫn luôn tán thán việc
ăn chay là hoàn toàn hợp lý,
và cứ
đến mỗi kỳ đại lễ của Tây tạng và
khi
nhập thất thì ngài lại dùng chay).
Nếu không bệnh mà ăn các thứ trên,
thì có thể sinh bệnh thừa chất đường,
chất mỡ
(gọi là chứng thừa cholestérol trong máu, gây ra nhiều
chứng khó
chữa như xơ cứng động mạch, tiểu
đường,
v.v...). Hoặc nếu may mắn không bệnh (vì lá gan còn hoạt
động tốt) thì người cũng mập
phì rất
khó coi. Thứ nữa là ăn quen chất béo
ngọt thì
sinh cái tật tham vị ngon, đưa đến tình
trạng đọa lạc biết ngày nào
mới ra
khỏi biển khổ sinh tử?
---*---
Phần sáu
MỘT TRĂM
PHÁP CHÚNG HỌC
Phần này thuộc về uy nghi chánh hạnh, thuộc loại tội nhẹ nhất
trong năm
thiên, nhưng bản chất cũng đưa
đến
phiền não. Lại nữa những giới này thuộc về "già tội" không
phải
"Tánh tội" như sát đạo dâm vọng.
Trong khi
các tội trọng thuộc hai thiên đầu
khó
phạm mà dễ giữ, thì trái lại các tội thuộc thiên này rất dễ
phạm,
khó giữ.
Trong 100 pháp chúng học, điều thứ
14 (lắc
thân mà đi) trùng với
Ba dật
đề 176; số 49 (đại tiểu trên
cỏ tươi)
trùng với Ba dật đề 77. Còn
lại 98
điều giống như giới bản của Tỳ kheo.
Các giới điều trong thiên
này
đều do Lục quần phạm trước, bị cư sĩ
chê
trách nên Phật chế giới. Có thể tóm thâu vào bảy mục:
1. Về y phục
Gồm 8 giới, từ số 1 đến số 8 như
sau
Nội y tề chỉnh, năm y tề chỉnh,
không vắt
trái y mà đi, và ngồi;
quấn y
nơi cổ mà đi, và ngồi, trùm
đầu mà
đi, ngồi nhà cư sĩ.
2. Uy nghi đi đường
Gồm 12 điều, từ 9-17 và
93-95 như
sau:
Không lò cò vào, ngồi nhà cư sĩ, không ngồi xoạc
đùi; không chống nạnh vào,
ngồi nhà cư
sĩ, không lắc thân vào, ngồi nhà cư sĩ, dặt tay nhau, trèo cao quá
đầu, xâu đãy y vào
đầy gậy mà vác.
3. Tác phong lúc đến nhà cư
sĩ
Gồ 8 điều, từ 18-25 như sau:
Khéo che mình vào, ngồi nhà cư sĩ, không liếc ngó vào, ngồi nhà
cư sĩ,
yên lặng mà vào, ngồi nhà cư sĩ, không giỡn cười vào, ngồi nhà cư
sĩ.
4. Tác phong khi ăn uống
Gồm 23 điều, từ 26-48 như sau:
Chú ý khi ăn, cơm ngang miệng bát,
đồ ăn
ngang bát, cơm canh tương đương, phải ăn tuần tự, không moi giữa
bát,
không tự đòi cơm (canh nếu không bệnh), không lấy cơm lấp,
liếc bát
bên cạnh. Để ý nơi bát, không dồn lớn
miếng,
há miệng đợi cơm, không ngậm cơm nói, xa ném vào miệng,
ăn cón sót cơm, phồng má mà
ăn, nhai cơm lớn tiếng, hớp cơm mà
ăn, le lưỡi mà liếm, rảy tay
mà mà
ăn, lượm cơm rơi ăn, tay dơ cầm bát,
tạt nước
rửa chén (vào nhà cư sĩ).
5. Đại tiểu tiện
Gồm 3 điều cấm, từ 49-51, như sau:
Đại tiểu hỉ nhổ trên cỏ, nước sạch,
đứng mà đại tiểu.
6. Tác phong thuyết pháp
Gồm 20 điều, từ 52-59 và
86-92
Từ 52-59 là tám trường hợp không được
nói
phá cho những người không bệnh mà có tác phong thiếu cung
kính như
sau:
Vắt áo lên vai, quấn áo nơi cổ, người đang
che đầu, người đang trùm đầu,
hai tay
chống nạnh, chân mang dép da, chân mang guốc gỗ, người đang cưỡi
ngựa.
Từ 86-92 là bảy trường hợp nói pháp không
đúng phép tắc, khi người nghe không bị bệnh hoạn gì:
Người ngồi mình đứng, người nằm mình
ngồi; người ghế mình không, ngồi cao ngồi thấp,
đi trước đi sau, kinh hành cao
thấp,
đạo và phi
đạo.
Từ 96-100 là năm trường hợp cấm
thuyết
pháp vì người nghe thiếu cung kính không bỏ xuống những khí
giới
đang mang như sau: Cầm gậy,
cầm kiếm,
cầm mâu, cầm dao, che dù.
7. Kính tháp và tượng Phật
Gồm 26 điều cấm, từ 60-85 như sau:
Ngủ trong tháp Phật, cất giấu của cải, mang dép da vào, cầm dép
da vào,
dép da nhiễu tháp, đi ủng vào
tháp,
mang giày ủng vào, cầm giày ủng vào, ăn
uống
xả rác, khiêng thây đi qua,
chôn thây
nơi tháp, đốt thây nơi tháp, hướng tháp đốt thây, bốn phía hôi
tháp,
giường áo người chết, đại tiểu gần tháp, hướng tháp mà
tiểu, bốn
phía xông hơi, ảnh Phật vào cầu, tháp Phât xỉa răng,
hướng tháp xỉa răng, nhiễu tháp xỉa răng, khạc nhổ hỉ mũi, hướng
tháp hỉ
khạc, duỗi chân trước tháp. Tượng Phật phòng dưới mình ở
phòng
trên.
---*---
Phần bảy
BẢY PHÁP DIỆT TRÁNH
Phần này là bảy phương pháp Phật dạy dùng
để giải quyết những tranh chấp trong tăng chúng, thuộc bốn phạm vi
là
ngôn, sự, mích, phạm.
"Ngôn tránh" là cãi nhau về pháp và luật.
"Sự tránh" là cãi nhau về công việc.
"Mích tránh" là cãi nhau trong lúc tìm lỗi.
"Phạm tránh" là cãi nhau về phạm tội nặng nhẹ.
Bảy phương pháp đó là:
1. Hiện tiền tì ni
Đáng cho hiện tiền tì
ni, phải cho hiện tiền tì ni.
Phật ở Xá vệ dạy pháp này. Nhân tôn gải Ca lưu
đà di, một trong Nhóm 6 Tỳ
kheo, cùng
nhiều vị đi tắm sông Aciravati. Tôn
giả lên
trước, lấy lộn y của vị khác mặc đi
về. Vị
kia lên sau tìm không thấy y mình mà thấy y của Ca lưu
đà di bỏ lại, bèn kết cho vị
này tội
ăn trộm, làm yết ma diệt tẩn
vắng mặt.
Tôn giả Ca lưu đà di
đến bạch Phật. Phật hỏi tôn giả Ca
lưu đà
di đến bạch Phật. Phật hỏi tôn giả
khi lấy y
mặc thì tâm nghĩ gì? Tôn giả đáp
tưởng
là của mình nên lấy mặc, thế thôi. Phật dạy thế thì không
phạm tội,
nhưng lần sau phải xem kỹ trước khi mặc. Và
đại chúng cũng không được phép làm yết ma kết tội kẻ vắng
mặt. Khi
làm các yết ma y chỉ, diệt tẩn, quở trách, ngăn
đến nhà cư sĩ, yết ma cử tội, v.v cần phải có mặt
đương sự, gọi là "hiện tiền tì
ni".
Pháp diệt tránh này gọi là "hiện tiền tì ni diệt tránh", nghĩa là
phương
pháp dứt tranh cãi trong đó cần có
mặt đương
sự.
2. Pháp diệt tránh "Ức niệm tì ni"
Đáng cho ức niệm tì
ni, phải cho ức niệm tì ni.
Phật ở Xá vệ, Đạp bà ma la
làm tri
sự, chia mền chiếu xấu cho một vị trong Lục quần Tỳ kheo, vị này
tức giận
vu khống tôn giả phạm giới dâm dục. Phật hỏi tôn giả có như vậy
không. Tôn
giả đáp từ khi xuất gia ông chưa từng
có tâm
niệm ấy dù trong giấc mộng. Lục quần cũng xác nhận tôn giả
thanh
tịnh. Phật tuyên bố Đạp bà ma
la là
bậc a la hán vô trước, không còn ý tưởng dâm dục. Nhưng các Tỳ
kheo cứ
tiếp tục quấy nhiễu tôn giả bằng cách đi
theo
mà cật vấn: "Ông có nhớ ông phạm tội ba la di, tăng
tàn... nào không" và tôn giả cứ phải trả lời: "Trưởng lão,
tôi
không phạm, chớ có cật vấn tôi mãi. Các Tỳ kheo vẫn theo hỏi dai,
tôn giả
bạch Phật. Phật cho tăng bạch tứ yết
ma làm
pháp "ức niệm tì ni". Yết ma xong thì phải để
cho đương sự yên ổn, không được
theo
hỏi lần đân.
Đương sự đủ uy ngh tác bạch:
"Xin đại đức tăng nghe cho. Tôi tên
Đạp bà ma la không phạm trọng,
các Tỳ
kheo lại bảo tôi phạm, và cứ theo hỏi tôi: "Ông có nhớ ông phạm
trọng
không?". Tôi đã nhớ mình không
phạm
tội, và đã xin các trưởng lão
chớ
thường xuyên cật vấn tôi. Thế mà các vị ấy vẫn theo vấn nạn không
thôi.
Nay xin tăng cho tôi pháp "ức niệm tì
ni". Xin tăng thương xót". (nói ba
lần).
Tăng sai một vị làm yết ma
nói như
trên để hỏi ý kiến đại chúng, nếu
bằng lòng
thì im lặng. Hỏi ba lần đều im lặng
có nghĩa
là yết ma đã thành,
Sau khi yết ma, thì tội ấy không được
cử
lại.
Nếu đương sự thực có phạm giới mà
làm yết ma như trên, thì đó là
yết ma
phi pháp.
3. Pháp diệt tránh "Bất si tì ni"
Đáng cho bất si tì
ni, thì cho bất si tì ni.
Phật ở Xá vệ;Tỳ kheo Nan đề trong
thời
gian bị bệnh điên cuồng tâm loạn đã
phạm nhiều tội, mất uy nghi. Về sau khi ông ấy hết bệnh, các vị
khác vẫn
theo hỏi, "Ông có nhớ ông đã
làm vậy
vậy hay không?". Nan đề xấu hổ nói:
"Trước
đây tôi đã phạm nhiều tội vì điên
cuồng tâm loạn chứ không cố ý. Xin chư vị
đừng theo hỏi tôi hoài". Các vị khác cứ lần
đân theo hỏi, đương sự bạch Phật.
Phật cho
bạch tứ yết ma làm pháp "Bất si tì ni" nghĩa là xác nhận
đương sự đã hết
điên, từ nay không
được nhắc lại những chuyện đương sự đã
làm trong lúc điên.
4. Pháp diệt tránh "Tự ngôn trị"
Phật ở Chiêm bặc, vào một ngày rằm bố tát, tăng
chúng nhóm họp đông đủ nhưng Đức Thế Tôn vẫn không thuyết giới. Mãi
cho đến nửa đêm, Phật vẫn ngồi
bất
động. Tôn giả A nan đến nhắc mấy lần,
Đức Thế
Tôn vẫn im lặng. Cuối cùng ngài mới dạy rằng,
đức Như Lai không thể nói giới khi mà
trong chúng có Tỳ kheo không thanh tịnh. Khi ấy tôn giả Mục Kiền
Kiên dùng
thiên nhãn quán sát và biết kẻ phạm giới đang
ngồi cách Thế tôn không xa. Tôn giả bèn
đến túm y vị ấy mà lôi ra khổi
pháp
đường. Đức Thế Tôn dạy: "Mục Liên,
lần
sau ông không được làm như
vậy, mà
phải làm yết ma cử tội". Từ nay về sau, hãy làm pháp "tự ngôn trị"
để diệt tranh cão/
Luật Tứ phần quyển 48 nói: Phật dạy A nan, khi tranh cãi về sự
phạm
giới tội, thì phải dùng ba pháp là "hiện tiền", "tự ngôn" và "như
thảo phú
địa" để giải quyết, không được dùng
vũ
lực mà trị tội. "Tự ngôn" là để cho
đương sự
tự phát lộ tội lỗi của mình rồi mới xử.
5. "Đa nhân ngữ tì ni"
Khi một cuộc tranh chấp trong đó
tăng
chúng chia thành hai phe, thì nên bốc thăm
để xem bên nào thắng, gọi là đa
nhân
ngữ. Nếu bên đúng pháp số thăm
lại ít
hơn bên phi pháp, thì tăng nên
tìm cớ giải tán cuộc họp; nếu bên phi pháp biết mình thắng thế cứ
ngồi lì,
thì nên sang chùa bên cạnh mời thêm những vị như pháp vào họp.
6. Pháp diệt tránh "Mích tội tướng tì ni"
Phật ở Thích Sí sấu, Tỳ kheo Tượng lực ưa tranh luận, khi thua
bèn nói
ngược lại những gì đã nói. Các
Tỳ kheo
bạch Phật, Phật dạy tăng hãy
bạch tứ
yết ma làm pháp "mích tội tướng" đối
với Tỳ
kheo ấy. Nghĩa là khi một người phạm tội nặng (ba la di) mà
nói
dối, thì tăng cứ bạch tứ yết ma kết
tội ba la
di, chờ đến khi họ thú tội mới giải yết ma.
7. Pháp diệt tránh "Như thảo phú địa
tì
ni"
Phật ở Xá vệ, các Tỳ kheo nhân một việc nhỏ mà gây gổ chia
thành hai
phe cãi nhau không dứt (một bên là phe của một thượng tọa luật sư,
phe kia
của Luật sư), Phật can không được
cuối cùng
ngài phải bỏ vào rừng an cư với một con voi chúa, có bầy khỉ dâng
trái cây
mỗi ngày. Cư sĩ sau đó không đến vườn
Cấp cô
độc để cúng dường nữa vì vắng Phật, chúng tăng
bèn lên rừng thỉnh Phật trở về. Phật dạy hai phe hãy giảng
hòa bằng
pháp "Như thảo phú địa" (trải cỏ che
lấp) là
một cách xí xóa tất cả cho nhau, vì hai bên
đều có lỗi.
Nhân đấy Phật kể câu chuyện để
chứng minh
những kẻ oan gia nhiều đời mà cuối cùng còn sống với nhau
được, tại sao Tỳ kheo lại không hòa
nhau để tu học.
Ngày xưa giữa vua Phạm Chí và vua Trường Sinh có mối thù từ
nhiều
đời kiếp. Vua Phạm Chí cất quân sang
đánh
chiếm nuớc của vua Trường sinh, bắt vua và hoàng hậu
đem đi xử trảm. Thái tử còn
nhỏ
được người trung thần ẵm mang đi
thoát được,
mai danh ẩn tích trở thành một trẻ bụi
đời kiếm sống bằng nghề hát rong. Một hôm đi ngang hoàng
cung bấy
giờ đã bị vua Phạm Chí chiếm
đoạt, nghe giọng hát hay, hoàng
hậu
của vua Phạm Chí bèn gọi đứa trẻ vào
cung để mua vui. Đứa trẻ được hoàng
hậu yêu mến, cho ở luôn trong cung cấm. Một hôm xâu ngọc quý của
hoàng hậu
không cánh mà bay mất. Nhà vua, hoàng và đình
thần đều nghi đứa bé ăn cắp, vì
ngoài
nó ra không người nào được vào
ra
trong cung. Khi bị bắt, đứa trẻ bèn
nhận tội ngay không chối cãi. Hỏi cung, nó khai ra thêm bốn người
liên lụy
trong vụ này là thái tử, quan tể tướng, ông tỷ phú trong thành, và
nữ danh
ca được yêu chuộng nhất. Cả
bốn người
đều bị bắt vào tù. Quản tể
tướng hỏi:
"Này con, tại sao con biết rõ là ta không lấy, mà lại khai ẩu?".
Nó bảo: "Vì quan thông minh, đa
mưu túc
trí, thế nào cũng tìm ra manh mối vụ này".
Thái tử cũng hỏi nó một câu tương tự, nó
đáp, "Tại vì ngài là con vua, vua sẽ không nỡ giết. Không
lẽ cha mà
lại đi giết con?".
Ông tỷ phú vào tù gặp nó, bứt đầu
bứt tai
bảo: "Trời đất quỷ thần ơi, sao cháu nỡ nào khai oan cho
bác vậy?"
Thì nó tỉnh bơ đáp rằng: "Tại vì
bác có thể bỏ tiền ra chuộc mạng để
khỏi ở tù".
Và khi cô ca sĩ khóc lóc hỏi nó, "Em ơi, tại sao em nỡ vu khống
cho chị
lấy xâu chuỗi ngọc trong khi chị chẳng biết ất giám gì?"
Nó trả lời: "Vì thiên hạ đều hâm
mộ chị, nên
thế nào người ta cũng tìm cách đưa vụ
này
ra ánh sáng càng sớm càng tốt, để cứu
chị
thoát nạn lao tù".
Quả nhiên sau đó một người đầu
đảng khét
tiếng tài danh về nghề trộm cướp được
đưa vào khám đường đối chất.
Gặp nó,
người chuyên nghề trộm cướp hỏi: "Trong cung, ngoài
đức vua, hoàng hậu và bé ra,
còn có
con vật nào được ra vào
không?"
- "Có một con khỉ thường theo chơi với hoàng hậu".
Kẻ trộm nổi danh đi về, rồi trở
lại đem
theo vào nội cung một bầy khỉ. Ông cũng xin cho
đem con khỉ của hoàng hậu
đến. Sau khi mượn tạm những xâu chuỗi
của các
cung nữ đang đeo, y phân phát cho mỗi con khỉ một chuỗi, rồi tự
đeo vào
cổ một xâu. Cả bầy khỉ đềm làm
theo y,
con nào cũng tròng chuỗi trang sức vào cổ. Con khỉ của hoàng hậu
trông
thấy liền bắt chước đi lấy xâu chuỗi
ngọc quý
nó đã ăn cắp ra đeo. Thế là
nội
vụ đã ra manh mối.
Khi nhà vua hỏi tại sao nó không lấy cắp mà chịu nhận tội, lại
khai
thêm những người vô tội khác. Nó trả lời, "Con chỉ là một tên bụi
đời, dù con có nói mình không
lấy cũng
chẳng ai tin. Con không có chứng cớ gì để
minh oan nếu không nhận tội sẽ bị vua trừng trị. Do vậy con cứ
nhận đại,
rồi khai thêm mấy người mà con biết có bị tống vào ngục
cũng không
sao. Họ là những người danh tiếng, có thể nhờ họ mà người ta sẽ ra
công
điều tra vụ án này". Vua công
nhận
thằng bé thông minh, và từ đấy càng
thêm yêu mến, cho hầu cận luôn bên mình.
Một hôm theo vua đi săn lạc giữa
rừng sâu,
cậu bé bây giờ tuổi đã thành niên,
đang canh cho vua ngủ. Thấy nhà vua ngủ say li bì, cậu tuốt
gươm
khỏi vỏ toan giết để báo thù
cho cha,
nhưng bỗng nhớ lời cha dặn: "Lấy oán báo oán, oán ấy chất chồng;
lấy ân
báo oán, oán ấy tiêu tan" cậu tra gươm vào vỏ.
Đúng lúc ấy, nhà vua trở dậy
kể lại
giấc chiêm bao: "Vừa rồi ta mộng thấy con vua Trường Sinh
đến báo mối thù giết cha ngày
trước".
Cậu bé liền thú thực với vua tông tích của mình, vốn là thái tử.
Nhà vua
cảm động, trả lại ngai vàng
cho thái
tử con vua Trường Sinh, lại gả con gái cho chàng. Mối thù giữa hai
nhà từ
đấy chấm dứt, hai nước láng giềng trở
thành
bạn hữu.
---*---
Phụ lục:
NGUỒN GỐC CÁC GIỚI
ĐƠN ĐỀ
(GIỚI BẢN TỲ KHEO)
Muốn hiểu rõ mỗi giới, ta cần hiểu các dữ kiện lịch sử làm căn
bản cho giới luật. Sau đây xin trích dẫn một số tài liệu về
các
nguồn gốc ấy, rút từ Tứ Phần Giới Bổn Duyên Khởi sự nghĩa của ngài
Quảng
Mạc đời nhà Minh (thế kỷ thứ
14).
1. Giới tiểu vọng ngữ:
Do tôn giả Tượng lực phạm đầu tiên.
Ông có tài biện luận mỗi khi thua thì nói ngược lại, chối phăng
những điều đã nói. Các Tỳ kheo bất mãn bạch Phật. Phật chế
giới
này.
2. Mắng nhiếc (hủy tỷ ngữ):
Do Lục quần Tỳ kheo phạm. Phật kể truyện thú vật cũng không ưa
nói lời
mếch lòng nó, để khuyến cáo các Tỳ
kheo.
3. Lưỡng thiệt:
Lục quần Tỳ kheo phạm, chuyên môn gây xáo trộn trong chúng bằng
những
lời thất thiệt. Phật kể chuyện sư tử và cọm mất tình thân thiện do
sự
đâm thọc của anh chồn, để khuyên
răn
các Tỳ kheo và chế giới.
4. Ngủ đêm cùng nhà với nữ:
Tôn giả A na luật hôm lỡ đường,
ghé vào
nhà một dâm nữ tá túc. Gặp lúc nguy hiến tôn giả phải vận thần
thông bay
lên hư không để thoát. Trở về, tôn
giả thuật
lại, Đức Thế Tôn nhân đấy chế giới để bảo vệ danh dự cho tăng đoàn.
5. Ngủ quá 3 đêm với người
chưa thọ
cụ:
Lục quần tỳ kheo ngủ thiếu uy nghi, để cư
sĩ trông thấy, chê bai. Các Tỳ kheo bạch Phật, Phật chế
giới cấm
ngủ chung phòng với cư sĩ. Một hôm, trên
đường du hóa của Ngài, sa di La hầu la phải
đứng trong cầu vệ sinh suốt đêm,
vì
không đại đức nào dám chứa
người chưa
thọ cụ túc, sau khi Phật chế giới. Phật bèn dẫn vào cho ở với Ngài
một
đêm, và nhóm tăng
quở trách không có lòng từ ái đối
với
trẻ nhỏ. Rồi Ngài chế lại giới này, cho phép người chưa thọ
cụ túc
được ở chung với Tỳ kheo dưới 3 đêm,
khi gặp trường hợp đặc biệt.
6. Tụng giới với người chưa thọ cụ túc:
Lục quần Tỳ kheo bắt chước kiểu tụng đọc
của bà la môn, làm cho những vị ưa thanh tịnh trầm tư phải
khó
chịu. Phật chế giới cấm.
7. Nói tội thô ác của Tỳ kheo cho người chưa thọ cụ túc:
(khi chúng
tăng chưa yết ma cho nói).
Lúc Phật ở Linh thứu, có vị Tỳ kheo đang hành
sám, phải đi sau chót. Lục quần chỉ
cho cư sĩ
xem và kể vị ấy phạm tội như vậy như kia, phải làm như vậy
như kia.
Tỳ kheo có tội lấy làm sỉ nhục, hiền trách Lục quần. Phật chế
giới. Về
sau, khi được tăng sai đi nói tội phá
tăng
của Đề bà đạt đa cho cư sĩ
biết, tôn
giả Xá lợi phất sợ phạm giới. Phật thêm "trừ khi tăng
sai".
8. Thật đắc đạo, cho người chưa
thọ cụ túc
biết:
Một Tỳ kheo ở Bà lý nói cho sa di và cư sĩ biết những gì mình
đã chứng
đắc vượt con người. Phật biết được, chế giới cấm nói.
9. Nói pháp cho nữ nhân quá năm,
sáu lời:
Tôn giả Ca lưu đà di kề tai
cô dâu
mà nói trước mặt bà mẹ chồng, bà hỏi: "Ông ta nói cái gì thế?".
Cô dâu bảo, "Nói pháp".
- "Nói pháp thì sao không nói lớn cho ta nghe với, lại
đi nói thầm?"
Câu chuyện tới tai Phật, Ngài bèn chế giới cấm nói pháp cho phụ
nữ. Phụ
nữ khiếu nại, Ngài bèn cho nói (pháp) nhưng không
được quá 5, 6 câu nếu không có nam
nhân biết
điều (có đủ trí khôn để phân biệt phải trái, thanh thô) cùng
ở
đấy. Nếu có, thì cho nói nhiều
hơn
cũng được.
10. Đào
đất:
Lục quần Tỳ kheo tu bổ nhà giảng, đào
đất, bị cư sĩ chê vì làm chết
côn
trùng. Phật bèn chế giới. (Các giáo phái ở Ấn
độ trước Phật giáo cũng kiêng sát sinh còn quá khích hơn
đạo Phật, như Kỳ na giáo. Giới cấm này
một phần vì từ bi, nhưng phần lớn hơn là để
tránh cơ hiềm của ngoại đạo).
11. Hoại quỷ thần thôn:
Một Tỳ kheo ở đồng trống tự phá
cây. Tất
cả cây đều có quỷ thần và sinh vật ở, nếu phá thì các sinh
vật ấy
không có chỗ nương. Do thần cây khiếu nại, Phật chế giới.
12. Dư ngữ não xuất:
(Chọc tức người với những lời lẽ ngang bướng, không
đúng vào
đề tài, đánh trống lấp). Khởi
từ Xiển
đà Tỳ kheo có tội, bị cử, bèn hỏi vặn lại
để xúc não.
13. Hiềm mạ tri sự: tự địa
Tỳ kheo chê
tri sự tăng là tôn giả
Đáp-bà-ma-la lo về chỗ nằm,
mền gối
cho chúng, nói sau lưng tôn giả là "còn có thương, giận, sợ, si"
(hiềm:
chê sau lưng). Các Tỳ kheo trách cứ, Từ địa
nói: "Tôi không chê, chỉ mắng thôi" (mạ: mắng, người kia
nghe
được). Đức Phật chế giới cấm cả hai
lối nói.
14. Trải đồ nằm chúng tăng ở chỗ
trống:
Nhóm 17 Tỳ kheo nhỏ tuổi, được
thâu vào
tăng đoàn một cách sơ suất,
đ4 để bừa bãi
đồ nằm của tăng chúng ngoài
trời,
khiến chim phá chuộc gặm. Phật nhân đấy
chế
giới. ("Thập thất quần Tỳ kheo" là nhóm 17 vị, lớn nhất 17
tuổi,
nhỏ nhất 12 tuổi, gốc ở La duyệt thành, chơi với nhau từ bé
được cha mẹ cưng chiều. Upàli
đầu đàn, vốn là con một, cha
mẹ mong
cho cậu làm một nghề gì không nhọc mệt được
sung sướng. Thấy tăng đoàn nhờ nấp bóng Phật
được trọng nể, nên cả hai ông
bà
đều muốn cho con xuất gia. Cậu bé
cũng thích
ý ấy, rồi cả bọn bạn bè của cậu thấy cậu xuất gia cũng
đi theo luôn. Các Tỳ kheo thâu nạp
cho cả 17
trẻ làm Tỳ kheo ngay. Nửa đêm
cả bọn khóc la kêu đói, đòi
ăn đủ thứ. Từ am thất, Đức Phật nghe
biết,
quở trách ra lệnh cấm từ nay không được nhận kẻ dưới 20 tuổi vào
làm Tỳ kheo. Vì làm sao bọn nhỏ chịu đựng
được đói rét, ăn ngày một bữa, sức nắng mặt trời, các loài
bò sát,
các lời mạ lỵ phỉ báng trong lúc đi
xin ăn?
Nhưng đối với 17 vị đã lỡ nhận thì đành
phải chịu, cũng như đối với Lục quần.
Tăng đoàn
thường gặp rắc rối do hai "băng" này
gây ra).
15. Trải đồ nằm chúng tăng ở chỗ
vắng:
Do một khách tăng đi vân thủy ghé
Kỳ viên
xin trọ, sáng ra đi không cáo từ,
cũng không
xếp trả đồ nằm, làm cho mối mọt ăn
rách nát sau một thời gian bị bỏ quên. Chính Phật tìm thấy
trong
lúc ngài tuần hành qua các trú xứ của chư tăng
khi họ đi phó trai, một mình Ngài ở nhà. Khi chư tăng
trở về, ngào nhóm tăng chế ra
giới này.
16. Trải đồ nằm lấn chỗ của người
đến
trước:
Lục quần Tỳ kheo cùng với đám 17
thiếu niên
Tỳ kheo đi đường xa, đến một chùa
xin
trọ. Lục quần để cho các Tỳ kheo nhỏ
đi trước
xin chỗ xong, đến sau, cậy thế lớn cưỡng bức, trải đồ nằm ra choán
chỗ.
Các Tỳ kheo khác trông thấy, chê trách, bạch Phật.
17. Đuổi người khác ra khỏi phòng:
Cấm đuổi người khác ra khỏi phòng
khi sân giận, không ưa. Cũng một lần khác, trên
đường du hành 17 Tỳ kheo nhỏ
đến một nơi xin được chỗ tốt, vừa
trải đồ ra
nằm, thì Lục quần đến sau đuổi
ra dành
chỗ. 17 Tỳ kheo nhỏ khóc la làm kẻ bàng quan cảm
động, chê cười.
18. Ngồi ghế giường sút chân:
Tài Kỳ viên, các Tỳ kheo ở trên gác, ngồi giường sút chân, chưa
an chỗ
thì chân giường bị sút, và bởi ván gác mục, rớt trúng các Tỳ kheo ở
dưới,
gây thương tích.
19. Dùng nước có trùng tưới trên bùn, cỏ:
Xiển đà Tỳ kheo làm nhà ở,
lấy nước
có trùng hòa với bùn để trét vách, bị
cư sĩ
chê. (Xem giới thứ 10 ở trên).
20. Lợp nhà quá hạn:
Cấm chồng chất quá nhiều đồ lợp
mái. Xiển
đà làm chỗ trú, còn thừa nhiều tranh, tự nhủ, tranh này khó
kiếm,
bèn chồng nhiều lớp lên mái, làm nhà sụp vì không chịu nổi sức
nặng. Cư sĩ
chê cười, đến tai Phật.
21. Giáo thọ ni:
Đại ái đạo xin Phật cho Tỳ
kheo đến chùa ni giáo thọ cho ni.
Phật sai chư thượng tọa thứ đệ sai
tăng giáo
thọ ni. Lục quần Tỳ kheo không được chư tăng sai, cũng tự tiện đến
chùa
ni để giáo giới, chỉ nói toàn
chuyện
thế tục. Bà dì lại đến kiện Phật,
Phật ra
lệnh, cấm đi giáo thọ cho ni chúng, trừ tăng sai.
22. Nói pháp đến tối mịt:
Cấm giáo giới ni sau khi mặt trời lặn. Tôn giả Nanda
được tăng sai giáo thọ ni, dạy tới
tối mới
xong. Khi ni trở về chùa trong thành Xá vệ, thì cổng thành
đã đóng,
phải nghỉ đêm ở ngoài thành. Sáng sớm, ni trở về, bị cư sĩ
đàm tiếu. Phật nhân
đây chế giới.
23. Nhạo báng người giáo thọ ni:
Lục quần Tỳ kheo không được tăng
sai giáo
thọ ni, bè hủy báng những vị được
tăng
sai rằng: những vị này vì muốn ăn
ngon
nên thuyết pháp. Phật chế giới cấm nói vậy.
24. Tặng y cho ni:
Một Tỳ kheo trong chùa Kỳ viên khi vào thành khất thực, ni
chúng thấy
uy nghi khả kính nên thường cúng dường. Tỳ kheo không nhận. Một
hôm
được chúng chia y, vị Tỳ kheo bèn
nghĩ, đem y này tặng cho ni cô
thường
cho mình vật thực, chắc cô ấy sẽ từ chối và như vậy từ nay ta khỏi
bị quấy
nhiễu. Nào nhè cô kia nhận liền, Tỳ kheo đi rêu
rao hành vi kém tế nhị của cô kia. Câu chuyện
đến Phật, Phật chế giới.
25. May y cho ni:
Ngoài những tài năng khác, tôn giả
Ca lưu
đà di còn là thợ may. Ông may giùm cho một ni cô thứ y phục
giống
phụ nữ thế gian. Mặc vào, ni bị cư sĩ chế nhạo. Bà gì tới kiện
Phật, phật
chế giới cấm may y cho ni.
26. Ngồi với ni:
Ca lưu đà di ngồi nói
chuyện với
Thâu la nan đà trước cổng, mọi
người
trông thấy, chê bai.
27. Hẹn ni cùng đi:
Lục quần Tỳ kheo cùng du hành với ni, cư sĩ chê. Phật chế giới
cấm. Về
sau, ni đi riêng bị giặc cướp,
Phật
chế lại giới này, là trừ lúc nguy hiểm.
28. Cùng ni ngồi một thuyền:
Lục quần Tỳ kheo cùng ngồi thuyền với ni
để sang sông bị chê cười nên Phật cấm. Về sau, khi sông
Hằng bị
lụt, trời tối, các Tỳ kheo qua sông trước, ni ở lại bị giặc bắt.
Phật chế
giới lại, trừ trường hợp đặc biệt, và
trừ khi thuyền lớn.
29. Ăn đồ cúng dường do ni ca tụng
mình:
Ở Xá vệ, một cư sĩ mời Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên thọ thực,
đang sửa soạn, thì ni Thâu la
nan
đà đến,
hỏi cúng dường ai đó, đáp hai tôn giả Xá Lợi Phất, và Mục
Kiền
Liên. Ni bảo: "Sao lại mời mấy người hạ tiện
đó, nếu nói cho tôi biết tôi sẽ mời dùm bậc
đại long tượng".
Cư sĩ hỏi: "Cô muốn nói ai vậy?"
Ni nói: "Đề bà
đạt đa".
Vừa lúc ấy hai tôn giả đến, ni bèn
đổi giọng: "Đây, bậc đại long tượng đã
đến".
Cư sĩ nói: "Tại sao cô vừa nói "hạ tiện", bây giờ lại nói "long
tượng"?
Từ nay đừng tới nhà tôi nữa".
Xá Lợi Phất về bạch Phật, Phật chế giới cấmăn
một bữa do ni ca tụng mình mà được.
Sau đó, ở thành La duyệt,
một cư sĩ
muốn mời tôn giả Lê sư đạt. Một ni cô
biết
chuyện này, khi tôn giả đến thành,
cô bèn tới nhà cư sĩ để báo tin. Cư
sĩ thiết
trai xong đi mời tôn giả đến thọ, tôn giả hỏi, sao biết tôi đến thành
này, cư sĩ đáp, nhờ ni cô cho hay.
Tôn giả
cẩn thận sợ phạm giới nên không ăn.
Phật bèn chế lại giới, thêm câu "Trừ trường hợp thí chủ
đã có ý muốn mời trước".
30. Hẹn cùng nữ nhân đi chung:
Một cô gái người Tỳ xá li làm dâu người ở Xá vệ, gây lộn với mẹ
chồng
nên bỏ về lại nhà cha mẹ ở Tỳ xá li đúng
vào
lúc tôn giả A na luật (Anurudha) cũng đi
từ
Xá vệ đến Tỳ xá li. Cô gái xin quá giang theo Ngài, tôn giả
bằng
lòng. Dè đâu nửa đường, chồng cô ta
đuổi kịp
trông thấy tôn giả, tưởng ông rủ rê vợ mình, nên
đánh tôn giả gần chết. Tôn giả nhẫn
thọ, ngồi
kiết già bên đường, nhập "hỏa
quang
tam muội" người kia thấy sám hối. Tôn giả tha thứ bỏ đi, trợ về Kỳ
viên
thuật lại chuyện, Phật bèn chế giới. (so sánh với số 4 ở trên).
31. Ăn quá một bữa ăn:
Ở nước Câu tát la, có một cư sĩ nguyện cho ở lại một
đêm, và cúng dường một bữa
ăn cho các tu sĩ khi lỡ đường ngang
đấy, vì
ở đấy không có tăng xá. Lục quần Tỳ
kheo đến
thấy được tiếp đãi nồng hậu nên cố ở luôn, không chịu
đi. Cư sĩ chê cười, các Tỳ
kheo bạch
Phật chế giới cấm quá một bữa. Sau, tôn giả Xá Lợi Phất
đi qua đấy, nhuốm bệnh mà cũng
không
dám ở lại vì sợ phạm giới, do đó bệnh
càng
tăng. Phật bèn sửa lại, là trừ
trường
hợp bị bệnh.
32. Nhận ăn tại nhiều nhà
(1 lần):
Phật cùng 1250 Tỳ kheo du hành đến
nước A
na tần lâu có một bà la môn chở nhiều xe thực phẩm
để cúng dường, khi nào chư tăng
không xin được gì, vì họ đang
đi qua
một vùng đói kém. Khi đoàn
lữ
hành đến biên giới nước A na
tần lâu,
thì dân chúng ồ ạt thiết cúng. Bà la môn Sa nâu không biết làm gì
với thực
phẩm còn lại, xin đổ giữa đường cho
Đức Phật
và tăng chúng dẫm lên
để chứng cho lòng thành của
ông, trước
khi ông từ giã (vì sự đi theo không
cần nữa).
Phật bảo ông nấu tất cả đồ khô còn lại ấy, thành một thứ
cháo thập
cẩm, cúng dường chư tăng dùng
sáng trc
khi đi khất thực. Từ đấy, dân mộ đạo
khi được
biết Phật cho phép ăn cháo trước khi đi khất thực, bèn chia
nhau
nấu các thứ cháo nêm ngon lành để
cúng. Một
vị đại thần cũng thi đua cầu phước, làm một bữa
ăn thịnh soạn để cúng tăng. Vì
chư Tỳ
kheo trước đã dùng cháo, nên
lúc
đến phó trai tại nhà vị
đại thần, không thể nào
ăn thêm
được. Gia chủ rất phiền não vì cớ ấy, bạch Phật. Phật chế
giới cấm
ăn trước khi đến nhà cư sĩ thọ
thực.
Về sau có người bị bệnh đến nhà
một cư
sĩ thọ trai nhưng không ăn được một
thứ gì,
mà cũng không dám nhận thực phẩm tại nhà khác sau
đó. lại có khi một nhà cho
ăn không no. Rồi lại có khi, đã
nhận
lời mời ăn tại một nhà, sau
đó lại có nhà vừa cúng thực
phẩm, vừa
cúng y. Nếu giữ lời hứa ăn tại nhà
đầu tiên thì không có y. Phật
bèn chế
thêm là trừ những trường hợp đặc biệt
ấy.
33. Biệt chúng thực:
Cấm vắng mặt trong các bữa ăn đông
chúng.
Để bà đạt đa là kẻ
đầu tiên phạm
điều này. Sau khi mưu hại
Phật, tiếng
ác đồn khắp. Lợi dưỡng không còn,
Đề bà dùng dư
đảng đi khất thực từng nhà,
gọi là
"biệt chúng thực". Việc khất thực riêng nhóm như vậy trở thành một
dấu
hiệu muốn ly khai với đại chúng (Đoàn
thể), nên Phật cấm ăn biệt chúng,
nghĩa là
tụ họp nhau 4 người trở lên mà ăn. Về
sau có
người bị bệnh, được mời ăn riêng, không dám. Có thí chủ
thiết trai
và dâng y sau mùa an cư, cũng không dám. Có người
đi đường, bạn đồng hành mời
ăn, cũng không dám, để đi một mình
đằng sau bị cướp... Phật nhân đây chế
thêm,
trừ trường hợp đặc biệt như vậy, đi
đường, đi
phó trai... thì có thể ăn biệt
chúng.
34. Nhận ăn quá hạn:
Một cô gái ở Xá vệ lấy chồng xa về nhà thăm
cha mẹ, đã khuyên mẹ quy y tam bảo, cúng dường chư tăng.
Cô mải nấu ăn cúng dường, khi người chồng đến tìm,
đợi mãi, nổi sân, bỏ
đi cưới vợ khác. Gia đình cô
vì thế mà
phải tan nát. Một thương khách mộ đạo
vì
ham thí thực cho chư tăng, bị bỏ lại
sau đoàn,
bị giặc cướp. Phật nhân đấy chế giới,
cấm lạm
dụng hảo tâm của thí chủ (cấm ăn bữa ăn của cô dâu về nhà
cha mẹ và
ăn của người đi đường).
35. Ăn thêm trái phép:
Phật ở Kỳ viên, ca ngợi phương pháp "Nhất tọa thực" (chỉ
ăn ngày một lần). Chư Tỳ kheo
tuân
theo, chỉ ăn một lần. Sau đó nhiều vị
gầy ốm
xanh xao, Phật hỏi A nan, tôn giả đáp vì Phật dạy chỉ nên
ăn một lần, những người ấy hoặc ăn
không đủ,
hoặc gặp món ăn không được, mà vẫn không dám
ăn lần khác. Phật cho làm phép
Dư thực
mà ăn thêm. Pháp này nghĩa là,
một vị
ăn đã no, nhận
đồ ăn từ thí chủ, hãy
ăn một ít, rồi bảo vị kia cứ tùy
tiện
mà dùng.
36. Mời ăn thêm trái phép:
Tỳ-kheo nào, biết Tỳ-kheo kia ăn đã đủ, hoặc khi thọ thỉnh,
không làm
phép dư thực mà ân cần mời vị kia ăn, nói rằng: "Trưởng lão, hãy
dùng món
ăn này". Chỉ với mục đích này chứ không có gì khác, tức là muốn
người khác
phạm giới, phạm Ba-dật-đề.
37. Ăn phi thời:
Nhằm tiết Trung thu có hội chợ, hai Tỳ kheo Nan
đà và Bạt nan
đà cố đi
khất thực thật muộn, để tiện dịp xem hội, khi về chùa thì
đã tối mịt. Các Tỳ kheo tra
hỏi biệt
được liền bạch Phật. Lại thêm
tôn giả
Ca lưu đà di chờ trời tối mới
khi khất
thực, vào một nhà nọ phụ nữ có thai đi
ra
tưởng là con quỷ, sợ quá, té ngửa mà truỵ thai. Phật bèn
cấm
đi khất thực phi thời. Các Tỳ kheo
phải đi
xin sáng sớm, và ăn trước ngọ.
38. Ăn đồ cách đêm:
Tôn giả Ca na ở núi Linh Thứu, một hôm nảy ra ý kiến, tội gì
đi khất thực hàng ngày cho
nhọc xác.
Đồ ăn còn hôm nay,
để tới mới mốt ăn. Chư Tỳ kheo thấy
vắng tôn
giả vào các bữa tiểu thực, hỏi, biết lý do, bèn bạch Phật
chế giới
cấm để dành.
39. Cấm ăn đồ không ai mời:
Một Tỳ kheo ở Kỳ viên nảy ra ý, nay ta hãy thực hành hạnh mặc y
phấn
tảo và xin ăn để sống. Bèn
hành hạnh
ấy. Khi đi trông thấy các gia chủ
cúng thí
thực cho người quá cố bên bờ sông hoặc dưới bức thành, Tỳ
kheo bèn
lấy đồ thí thực để ăn, khỏi đi xin.
Các gia
chủ chê bai, Tỳ kheo gì mà người ta không cho, lại cứ lấy
ăn. Phật nghe, bèn chế giới Tỳ
kheo
không được bỏ vào miệng bất cứ
cái gì
không do người ta cúng. Sau đó có
người sợ
phạm giới, lại còn không dám uống nước và xỉa răng.
Phật lại thêm: trừ tăm và
nước
thì được bỏ vào miệng.
40. Xin ăn đồ ngon:
Tôn giả Bạt nan đà
đến một thương gia thí chủ, xin ăn đồ
ngon.
Cư sĩ hỏi: "Đại đức có bệnh gì không".
Đáp: "Không".
Cư sĩ bảo: "Không bệnh mà đòi
ăn ngon cái gì? Chúng tôi
đây làm việc cực nhọc, không
có
đồ ngon mà
ăn, sao Tỳ kheo lại đòi
ăn ngon?"
Các Tỳ kheo bạch Phật, Phật chế giới.
41.Cho ngoại đạo ăn:
Phật và đại chúng đi từ Câu tát la
đến Xá
vệ, giữa đường, cư sĩ cũng rất nhiều bánh đa (bánh tráng). Phật
bảo A nan
chia cho chúng tăng, còn thừa thì cho hành khất (thường
đi từng đoàn theo sau
đoàn khất sĩ, cốt chờ những
dịp như
vậy). Trong đám hành khất có
một cô
gái ngoại đạo lõa thể, dung
mạo dễ
coi, chìa tay ra xin bánh. Tôn giả A nan vô tình phát cho cô ta 1
cái bánh
kép (2 cái dính liền). Những kẻ bàng quan bảo nhau, cô gái
đã lọt mắt xanh của tôn giả
rồi
đó. Tôn giả nghe, lấy làm bực.
Các Tỳ
kheo bạch Phật, Phật chế giới cấm cho ngoại
đạo ăn. Sau ngoại đạo khiếu nại, Phật thấy có lý, nên chế
lại, rằng
"Cấm cho ngoại đạo ăn, bằng cách cho
tận
tay".
42. Ăn rồi mới vào chỗ mới:
Không được làm cho người
khác hụt
nhận sự cúng dường bằng cách để họ
đợi hoặc
bằng cách khác.
Một thí chủ ở Xá vệ mời tôn giả Bạt nan đà
cùng một số Tỳ kheo đến nhà
thọ trai.
Chư tăng đều tề tựu sốt ruột đợi nhân
vật
chính thế mà tôn giả Bạt nan đà
còn ở mãi nơi nao? Trời gần đứng
bóng, chư
tăng đành phải yêu cầu khổ chủ cho ăn
trước, sợ quá giờ ngọ. Đương sự lúc ấy đang thọ trai ở nhà
khác.
Lần khác, người ta cúng dường trái cây cho tôn giả lúc ấy lại
đang vắng mặt nên chư Tăng
không dám chia. Đương sự lại về trễ, khiến chúng tăng bị phạm giới
ăn phi
thời và tích trữ đồ ăn.
43. Ngồi nán lại ở nhà ăn:
Ăn xong không được nấn ná ở
nơi có đàn bà
đẹp. Trường hợp tôn giả Ca lưu đà
di
cứ dùng dằng ở nhà người bạn gái cũ, mặc chồng cô ta
đuổi khéo nhiều lần.
44. Chỗ vắng cùng nữ giới:
Tôn giả trở lại ngồi nói chuyện với cô ta sau cánh cửa. Phật
chế giới.
45. Ngồi với nữ chỗ trống:
Lần sau tôn giả ngồi ngay ngưỡng cửa nói chuyện với người
đẹp. Phật thêm
điều này.
46. Đuổi bạn ra khỏi làng:
Không được bỏ đói một Tỳ kheo khác
để trả
thù.
Tôn giả Bạt nan đà rủ một
Tỳ kheo
mà ông ta thù hận đi theo mình
đến trưa rồi bỏ rơi vị này,
khiến
đương sự phải nhịn đói luôn cho đến
sáng mai.
Phật chế giới.
47. Nhận thuốc quá thời gian thí chủ cúng:
Không được nhận thuốc nhiều hơn số
cần dùng
trong 4 tháng. Thí chủ Ma ha nam dòng họ Thích ở Ca tỳ la vệ xin
cúng
dường thuốc cần dùng cho chư Tăng.
Rủi thay
khi Lục quần Tỳ kheo đến thì kho thuốc
đã cạn. Lục quần Tỳ kheo không tin và chê Thích Ma ha nam
là nói
láo. Bất mãn, vị khổ chủ này ngưng cúng dường Tăng.
Đức Phật quở trách Lục quần Tỳ kheo và chế giới chỉ cho thọ
thuốc
trong bốn tháng. Về sau, nhiều thí chủ khác cúng dường dài hạn
đủ loại thuốc cho chư tăng, có vị
không dám
nhận quá giới hạn bốn tháng, Phật chế lại giới, thêm: "Trừ
khi thí
chủ cúng dài hạn".
48. Xem quân đội:
Cấm tham dự những buổi duyệt binh, kiến người ta phải
đuổi khéo (trường hợp Lục quần Tỳ
kheo). Vua
Ba Tư Nặc phải nhờ đem đường đến cúng dường Thế Tôn, kèm
theo lời
tán thán để được rảnh nợ với Lục
quần.
49. Ở lại trong quân trại quá ba đêm:
Không được ở lại trong quân đội
quá 2 hoặc
3 ngày. Lại cũng là trường hợp Lục quần.
50. Xem quân tập trận:
Không được quá chú ý đến những
cuộc tập
trận. Cũng lại là Lục quần Tỳ kheo. Một trong những vị này
nghịch
ngợm bị một mũi tên vào người.
51. Uống rượu:
Không được uống bất cứ thứ nước nào
có men.
Tôn giả Sa gia đà xin ngủ
nhờ nhà
một bà la môn. Ông này chỉ còn căn phòng
thường bị một con rồng quấy phá. Tôn giả nói không sao.
Nửa đêm, con rồng xuất
hiện, nổi
giận thổi tắt hết đèn. Tôn giả
lúc ấy
đang nhập định bèn thổi mạnh
hơn. Rồng
hết hơi chịu thua. Tôn giả thâu kẻ chiến bại vào bình bát
đưa cho chủ nhà.
Vua Kausambi hay tin, dặn người bà la môn mời tôn giả
đến thọ trai tại hoàng cung
khi vị này
trở lại. Nhà vua cho thiết những món ăn
và
ngay cả rượu - cái mà chư tăng chưa
bao giờ
khất thực được. Kết quả là tôn giả chập choạng trở về Tinh
xá nôn
oẹ tùm lum, chim và quạ tranh nhau mổ những
đồ thổ ra đó, chúng làm ồn đến
nỗi Đức
Phật phải quở "Đồ ngu! Thắng con rồng lớn mà thua con rắng
nhỏ!" và
chế giới cấm nếm rượu.
52. Đùa giỡn trong nước:
Vua Ba tư nặc và hoàng hậu Mallikà đứng
trên
lầu cao nhìn xuống sông Aciravati thấy Thập thất quần Tỳ kheo nhào
lộn
đùa giỡn. Vốn là Phật tử thuần
thành,
luôn luôn thấy khía cạnh tốt, hai vị vương giả cười khoan hồng
đám Tỳ kheo nhi đồng chưa được hoàn
toàn vào khuôn phép. Nhưng sau đó, Hoàng
hậu phái một Bà la môn đến tán dương
Phật và
cúng dường đường rồi thuật lại chuyện
trên
cho Phật nghe. Phật chế giới.
53. Thọc lét người khác:
Một vị trong Lục quần Tỳ kheo thọc lét một trong nhóm Thập thất
quần Tỳ
kheo làm chết người. Do đó Phật chế
giới.
54. Không nghe can:
Tỳ kheo Đơn đà muốn phá
giới, các
Tỳ kheo can không nghe, bạch Phật.
55. Nhát Tỳ kheo khác:
Không được làm người khác
sợ hãi.
Tôn giả Na ca la muốn Đức Phật bỏ
những
cuộc đi kinh hành ban đêm
nên
hóa trang làm ma để dọa ngài.
Phật chế
giới.
56. Nửa tháng tắm:
Trừ trường hợp đặc biệt, 15 ngày
mới được tắm một lần.
Vua xứ Ma kiệt đà cho phép
chư tăng
tắm trong dòng suối ấm dành riêng cho hoàng gia. Chư tăng
lạm dụng phép đặc biệt này, nhất là Lục quần Tỳ kheo còn ra
suối cả
ban đêm, khiến nhà vua và các
cung phi
không còn biết tắm vào lúc nào. Phật chế giới.
57. Đốt lửa chỗ trống:
Cấm nhóm lửa ở bất cứ chỗ nào, trừ trường hợp
đặc biệt.
Lục quần Tỳ kheo trốn ra ngoài tinh xá, gặp trời
đông lạnh nhóm lửa dưới gốc cây rỗng.
Khó từ
trong cây tỏa ra, làm một con rắn độc
đang trú ngụ ở đó bò ra. Hoảng sợ, Lục quần Tỳ kheo bỏ
chạy,
để lửa lan đến tinh xá cháy tiêu
giảng
đường. Cư sĩ bàn tán nhà cháy
làm chết
côn trùng. Phật chế giới.
58. Giấu đồ người khác:
Không được tinh nghịch giấu đồ vật
của
người khác. Trường hợp Lục quần Tỳ kheo giấu y của Thập thất quần làm
họ không đi dự trai tăng được.
59. Chân thật tịnh thí:
Không được lén lấy lại y đã
cho
người khác. Cũng là trường hợp Lục quần chơi xấu với Thập thất
quần.
60. Mặc y mới:
Chư tăng phải mặc áo nhuộm, không
được mặc
áo dành cho cư sĩ, gọi là bạch y. Phật cho nhuộm ba màu hòa
lại:
xanh lá cây, đen, vàng nghệ,
vừa dễ
nhuộm vừa ít tốn. Các nhà luận sư Trung Hoa nói: lấy
đồng nhuộm xanh, lấy bùn nhuộm
đen, lấy tinh chất của lá cây rubia
cordifolia mà nhuộm vàng. Những thứ thuốc này dễ nhuộm nên
mỗi lần
giặt đều có thể nhuộm lại.
61. Hại mạng súc sinh:
Không được uống nước có trùng
mà
phải lọc trước. Việc lọc nước bằng đãy
lọc đã
được thi hành trước khi Phật chế giới. Chư tăng
vì lòng từ đối với chúng sinh
bé nhỏ
phải luôn luôn mang đãy lọc theo mình.
63. Làm người ta nghi và buồn:
Không được làm các bạn
đồng tu lo lắng, nghi ngờ.
Thập thất quần hỏi Lục quần Tỳ kheo về những pháp
để đắc bốn thiền và bốn quả.
Lục quần
bảo: "Hỏi như thế là phạm tội đại
vọng ngữ".
Nghi ngờ, Thập thất quần đến hỏi các vị trưởng lão, chư vị
này
đáp: "Không phạm" và bạch Phật
chế
giới.
64. Che giấu tội thô của người khác:
không được che giấu tội thô của
người
khác. Tôn giả Bạt nan đà chơi thân với một Tỳ kheo và tâm
sự cho vị
này nghe vài chuyện bậy của mình, không quên dặn người bạn cố tri
đừng kể lại cho người thứ ba. Về sau,
hai vị
giận nhau, người bạn đem kể hết cho mọi người. Phật chế giới.
65. Trao giới cho người chưa đủ
tuổi:
Không được trao giới cho sa di
dưới 20
tuổi thọ cụ túc giới. Đây là trường hợp nổi tiếng của Thập
thất
quần một nhóm trẻ con từ 12 đến 17
tuổi. Đức
Phật vừa cho phép tăng đoàn nhận thêm thì các vị trưởng lão
vội cho
17 vị này thọ giới. Các chuyện phiền phức xảy ra ngay trong
đêm sau. Phật quở và chế giới,
nhưng
không nỡ đuổi các vị tân Tỳ kheo này.
66. Gợi lại việc tranh cãi:
Không được nhắc lại chuyệt bất hòa
đã qua. Lục quần Tỳ kheo phạm.
67. Đi với giặc:
Không được tháp tùng
đoàn lữ hành bất chánh. Chư tăng
ở Xá vệ, trên đường đến
Vaisali, nhập
bọn với một băng cướp. Rủi tahy, cả đoãn lữ hành bị bắt.
Chư tăng
bị ghép tội đồng lõa. Bọn cướp bị xử tử. còn chư tăng
được vau Ba Tư Nặc ân xá. Phật chế giới.
68. Có ác kiến không nghe can:
Tỳ kheo A lê tra ở tinh xá Kỳ viên có ác kiến rằng: dâm dục
không trở
ngại đạo. Các vị khác can ba lần mà
ông vẫn không bỏ. Phật chế giới.
69. Theo Tỳ kheo bị cử tội:
A lê tra đã bị khai trừ mà
Lục quần
vẫn chấp chứa ông ta. Phật chế giới.
70. Theo Sa di bị đuổi:
Không được nhận, giữ một sa di đã
bị đuổi. Ở tinh xá Jetavana, hai sa
di của
Bạt nan đà phạm giới bị đuổi.
Lục quần
chứa chấp. Phật chế giới.
71. Cự khuyến học giới:
Không được bất tuân giới cấm mà
biện hộ là "tôi không biết trước" như Tỳ kheo Xiển
đà.
72. Chê luật:
Không được coi thường luật, chỉ
trích giới
bổn. Lục quần tuyên bố rằng: vào thời tụng giới mỗi tháng,
chỉ nên
tụng bốn giới trọng và 13 tăng tàn,
những giới còn lại chỉ tổ làm rối đầu
và
làm những kẻ cả lo thêm hoang mang. Phật quở và chế giới.
73. Sợ bị cử tội, nói chận:
Không biết giới thì tội nặng gấp hai. Một trong số Lục quần cãi
mình
không biết việt đã làm thuộc
một
điều cấm trong giới bổn. Đức Phật tuyên
bố "vừa phạm tội, vừa không biết tội là phạt gấp
đôi".
74. Dự yết ma rồi hối:
Không được vu khống vị yết ma là
thiên vị hoặc bất công.
Tôn giả Đạp bà ma la hết
lòng xả
thân lo cho chúng, không hề nghĩ đến
tư lợi.
Thấy y tôn giả quá rách nát, đại chúng vừa được chúng dường một y
tốt, đem
tặng cho tôn giả theo đúng luật. Lục quần vốn ghét Đạp bà
ma la, vu
khống tăng chúng là thiên vị
và
đặt đủ điều nói xấu. Phật biết chuyện
chế
giới.
75. Không gởi dục:
Không được cản trở đại chúng nhóm
họp.
Ở tinh xá Jetavana, chư tăng sửa
soạn nhóm
chúng. Lục quần Tỳ kheo bảo nhau: "Thế nào chúng ta cũng bị
cử tội,
bây giờ chúng ta đi ra, họ sẽ chẳng làm
gì được" Chư tăng thiếu mặt họ nên
buổi nhóm chúng bất thành. Phật chế giới không họp phải gởi dục.
76. Gởi dục sau hối:
Không được ngăn trở chúng tăng thi
hành
các quyết định.
Vì sợ bị cử tội, Lục quần đã
ngăn
cản tăng nhóm họp. Một hôm, khi đại chúng gọi đến, họ viện cớ đang
bận vá
áo không đi được. Đại chúng bắt phải có một vị trong nhóm đi họp
thay cho
cả bọn. Chính vị này bị cử tội, Lục quần nghe vậy bảo rằng
quyết
định của chúng tăng là vô hiệu
quả vì
họ không đồng ý. Phật chế giới.
77. Nghe lỏm bốn việc tranh chấp:
Không được kể lại những chuyện cãi
nhau giữa tăng chúng.
Lục quần nhắc lại những chuyện cãi vã, làm tăng
thêm các mối bất hòa.
78. Nổi sân đánh Tỳ kheo:
Không được đánh đập, đối xử tàn
nhẫn như trường hợp Lục quần hành hạ Thập thất quần.
79. Nắm tay dọa Tỳ kheo:
Cũng nhân trường hợp Lục quần.
80. Vu khống tàn tệ:
Không được gây buồn phiền người
khác bằng
những lời xỉ vả vu khống. Trường hợp Lục quần đối với nhóm Tỳ kheo
Thập
thất quần.
81. Đột nhập vương cung:
Không được đột nhập vào
cung vua.
Trường hợp tôn giả Ca lưu đa di
đột nhập
cung vua Ba tư nặc, lúc đó đang nghỉ trưa cùng hoàng hậu
Mallika.
Tình thế xảy ra rất lúng túng, vì hoàng hậu không kịp sửa y phục
cho tề
chỉnh. Tôn giả vội thối lui.
82. Lượm châu báu:
Không được nhặt cất tiền bạc, nữ
trang, đồ
quý giá, trừ ở trong tinh xá hay trong chỗ nghỉ đêm.
Một du khách mất túi tiền, chư tăng
nhặt
được đưa lại cho ông. Ông vu khống chư tăng lấy bớt một phần. Phật
dạy:
"Đáng lẽ cứ để yên túi vàng ở giữa
đường. Trừ khi người ta vào viếng tinh xá làm rớt nữ trang
thì
được nhặt giữ giùm, hoặc khi
đến ngủ nhà thợ vàng thì
được lấy đồ trang sức đang để bừa bãi
cất vào tủ cho người ta".
83. Vào làng trái thời:
Không được vào làng không
phải lúc.
Tôn giả Bạt nan đà buổi tối
hay vào
làng đánh bài với cư sĩ. Tôn
giả
được bài mãi, khiến họ tức
giận
đi tố cáo. Phật chế giới.
84. Giường cao quá lượng:
Chân ghế và giường không được cao
quá 8
ngón tay Phật như trường hợp tôn giả Ca lưu đà di làm. Phật
chế
giới.
85. Nằm nệm bông tơ:
Không được làm nệm ghế và
giường
bằng lông mịn màng. Trường hợp Lục quần.
86. Ống kim bằng xương, răng,
sừng:
Không được có hộp đựng kim chỉ
bằng trân
bảo, khắc hoặc mài.
Một nhà thủ công nghệ ở Vương xá muốn tỏ lòng thành với tăng
đoàn, nên cúng dường tăng
chúng những
sản phẩm của mình làm ra. Chư tăng
xin
quá nhiều, tới nỗi thí chủ bị sạt nghiệp.
87. Quá lượng ngọa cụ:
Vải bao ngọa cụ không được quá
kích thước
ấn định.
Một hôm chư tăng đi khất thực.
Phật đi
kiểm soát tinh xá Kỳ viên thấy các ngọa cụ bị ướt sũng nước
mưa và
dính đầy bùn (trời nóng chư tăng
ra ngủ ngoài vườn). Ngài chế cách xử dụng vải bao và ấn
định kích thước.
88. Vải băng ghẻ quá lượng:
Cho phép sử dụng miếng vải với kích thước ấn
định để băng bó vết thương, vết
phỏng. Chư
tăng bị các ung nhọt mà không băng
bó
nên rất đau đớn và bẩn
thỉu.
Phật cho họ xử dụng loại vải mềm và nhẹ. Phật phải ấn
định kích thước mới được cất giữ.
89. Áo tắm mưa quá lượng:
Cũng vì lý do trên, ngài ấn định
kích
thước áo tắm mưa.
90. Ba y quá lượng:
Tất cả chư tăng dù vóc dáng
thế
nào, đều không được đắp y dài
hơn y
của Phật, để tỏ lòng tôn kính.
Người
ta kể là tôn giả Sunanda có vóc dáng hơi giống Thế tôn nên hay bị
chư tăng
nhìn lầm. Phật bắt tôn giả luôn luôn
đắp y đen, còn Ngài thì đắp y vàng.
-ooOoo-