Không
bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại
Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường
Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn
bị kết tập kinh luật. Trong số 500 Tỳ kheo này, 499 vị đã
đắc quả A La Hán, chỉ trừ tôn giả A Nan.
Bấy
giờ, tôn giả Đại Ca Diếp nói với các vị Tỳ kheo: "Này
chư hiền, trên đường tôi trở về thành Câu Thi (Kusinàrà)
để đảnh lễ Đức Thế Tôn lần cuối cùng, khi hay tin Ngài
nhập Niết bàn, thì có một việc đáng buồn xảy ra: Trong
khi các Tỳ kheo khóc than thảm thiết, không thể kiềm chế
được lòng thương tiếc Đức Thế Tôn, có người lảo đảo
trên mặt đất, bước đi không nổi, thì Tỳ kheo Bạt Nan
Đà (Upananda) đang đi trước họ, bảo họ im lặng và nói:
"Vị trưởng lão ấy thường dạy chúng ta nên làm như thế
này, không nên làm như thế kia; nên học những điều này,
không nên học những điều kia, thật là phiền toái.Bọn chúng
ta ngày nay mới thoát được nỗi khổ ấy, tùy ý muốn làm
gì làm, không còn ai ngăn cản nữa.Vì sao các ông lại thương
tiếc khóc than?". Ta nghe lời nói ấy, cảm thấy đau đớn
và lo âu. Ngày nay, tuy Phật đã Niết bàn, nhưng giới luật
vẫn còn đó, chúng ta phải hợp sức kết tập lại giới
luật chớ để cho Bạt Nan Đà cấu kết cùng bè đảng phá
hoại chánh pháp.
Các
Tỳ kheo đều tán đồng lời nói của tôn giả Đại Ca Diếp,
và thưa rằng: "Thưa trưởng lão, A Nan thường hầu cận Thế
Tôn, Thầy ấy thông minh, nghe nhiều, gìn giữ kho tàng chánh
pháp đầy đủ, nay ta nên mời Thầy vào trong số những người
kết tập luật tạng".
Tôn
giả Ca Diếp liền bảo: "A Nan còn ở địa vị cần phải
học (hữu học),còn bị tham ái, sân hận, si mê và sợ hãi
chi phối, không nên cho tham dự".
Thế
nhưng, lúc này tôn giả A Nan đang ở tại thành Tỳ Xá Ly,
ngày đêm thường thuyết pháp cho 4 chúng.Mọi người nghe pháp
đông đúc chẳng kém gì khi Phật tại thế. Tại đây, có
một Tỳ kheo người xứ Bạt Kỳ đang ngồi thiền trên lầu,
vì không khí ồn ào không thể du hí trong tam muội giải thoát,
bèn quán chiếu xem A Nan đã giác ngộ hay chưa, thì thấy rằng
A Nan còn ở bậc hữu học, liền đến chỗ A Nan, đọc lên
bài kệ:
" Ngồi
dưới chỗ cây vắng
Tâm
hướng đến Niết bàn.
Thiền
định chớ phóng dật
Nói
nhiều có ích chi?"
A Nan
nghe vị Tỳ kheo ấy đọc kệ như vậy, lại biết việc Ca
Diếp không cho mình tham dự kết tập luật tạng nên đầu
đêm, giữa đêm và cuối đêm đều siêng năng đi kinh hành,
mong cầu được giải thoát, nhưng vẫn chưa đạt được.
Đến lúc nửa đêm, thân thể mỏi mệt cực độ, thầy định
nằm nghĩ một chút, liền nghiêng đầu xuống gối, khi đầu
vừa chấm gối, thì bỗng dưng dứt hết lậu hoặc. Các Tỳ
kheo biết thế bèn thưa với Ca Diếp: " Đêm qua A Nan đã được
giải thoát, giờ đây nên cho thầy vào trong số người kết
tập luật tạng". Ca Diếp liền chấp nhận đề nghị ấy.
Thế rồi tôn giả chọn thành Vương Xá làm nơi kết tập;
vì ở đây có đầy đủ các phương tiện và thực phẩm.
Bấy
giờ, 500 vị La Hán liền đến thành Vương Xá. Trong tháng
đầu mùa hạ, họ lo sửa chữa phòng ốc và chuẩn bị ngọa
cụ; tháng thứ hai tọa thiền để hưởng pháp vị giải thoát;
đến tháng thứ ba mới tập họp lại một chỗ. Thế rồi,
tôn giả Ca Diếp đề cử tôn giả Ưu Ba Ly kết tập Luật
tạng, và được đại chúng chấp thuận.Ca Diếp bắt đầu
hỏi Ưu Ba Ly: Giới nào Phật chế trước nhất, chế tại
đâu, người nào sai phạm, phạm về tội gì v.v... Ưu Ba Ly
trình bày rằng: Phật chế giới dâm trước nhất, do Tu Đề
Na (Sudinna) vi phạm đầu tiên v.v...Một người hỏi, một người
đáp và cuối cùng hỏi lại đại chúng, đại chúng cũng hoàn
toàn nhất trí với sự trình bày của tôn giả Ưu Ba Ly. Công
việc này kéo dài đến 80 lần mới hoàn tất gồm đủ cả
giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni và được đặt tên là Bát thập
tụng luật (Bộ luật được đọc đến 80 lần).
Tiếp
theo, tôn giả Ca Diếp đề cử tôn giả A Nan kết tập kinh
tạng và được đại chúng nhất trí.Tôn giả A Nan lần lượt
kết tập các kinh sau đây:Tăng nhất, Tăng thập, Đại nhân
duyên, Tăng Kỳ Đà, Sa môn quả, Phạm Động và những kinh
Phật thuyết giảng cho Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu
bà di, chư Thiên và nhân loại. Những kinh dài kiết tập thành
một bộ gọi là Trường A Hàm, những kinh trung bình kết tập
lại thành một bộ gọi là Trung A Hàm. Những kinh nói cho nhiều
đối tượng như Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di
và chư Thiên kết tập thành một bộ gọi là Tạp A Hàm. Những
kinh lần lượt nói từ một pháp tăng dần đến mười một
pháp kết tập thành một bộ gọi là Tăng Nhất A Hàm. ngoài
ra tập họp các kinh nói bao quát nhiều vấn đề thành một
bộ gọi là Tạp Tạng. Thế rồi,tôn giả Ca Diếp tuyên bố:
"Từ nay chúng ta đã kết tập giáo pháp hoàn tất. Từ nay
trở đi, những gì Phật không chế định thì không được
tùy tiện chế định, những gì Phật đã chế định thì không
được vi phạm. Chúng ta phải kính cẩn học tập những gì
Phật đã chế định".
Tôn
giả A Nan bấy giờ thưa với tôn giả Ca Diếp: "Chính bản
thân tôi từng nghe Phật dạy rằng: "Sau khi ta Niết bàn, nếu
thấy những giới nào có tính cách nhỏ nhặt, các ngươi có
thể loại bỏ".
Ca
Diếp liền hỏi: "Thầy cho những giới nào là nhỏ nhặt?".
A
Nan đáp: "Không biết".
-
Vì sao không biết?
-
Vì tôi không hỏi Thế Tôn.
-
Vì sao không hỏi?
-
Vì bấy giờ thân Phật đang bất an, sợ làm não loạn Ngài.
- Vì
thầy không hỏi ý nghĩa những vấn đề ấy, nên phạm tội
Đột cát la, phải tự mình nhận tội và sám hối.
- Thưa
Đại đức, không phải là tôi không tôn kính giới mà không
hỏi ý nghĩa những vấn đề ấy nhưng vì sợ làm phiền Đức
Thế Tôn, nên không hỏi. Trong vấn đề này, tôi không thấy
mình phạm tội, nhưng vì kính trọng và tin tưởng Đại đức,
nên tôi xin sám hối.
- Khi
thầy vá y Tăng già lê cho Thế Tôn, thầy đã dùng chân đạp
lên y, do đó, phạm tội Đột cát la...(nt).
- Thưa
Đại đức, không phải là tôi không kính trọng Phật, nhưng
vì lúc đó không có ai cầm y,nên tôi phải dùng chân đạp
lên y để vá...(nt).
- Thầy
đã ba lần cầu xin Thế Tôn cho phép nữ giới xuất gia trong
chánh pháp, nên phạm tội Đột cát la...(nt).
- Thưa
Đại đức, không phải là tôi không tôn kính pháp, nhưng vì
bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề Cù Đàm Di từng nuôi dưỡng Thế Tôn
đến trưởng thành, rồi Ngài đi xuất gia mà thành Chánh giác.
Công ơn ấy cần phải báo đáp, nên tôi mới ba lần cầu
thỉnh Thế Tôn cho phép nữ giới xuất gia...(nt).
- Khi
Phật sắp nhập Niết bàn đã hiện tướng nói với Thầy
rằng: Nếu người nào đạt được bốn thần túc, muốn giữ
thọ mạng một kiếp hoặc hơn một kiếp đều có thể làm
được, Đức Như Lai đã thành tựu vô lượng thiền định,
và đã ba lần hiện tướng nói với thầy như thế mà thầy
không cung thỉnh Phật trụ thế một kiếp, hoặc hơn một
kiếp, nên phạm tội Đột cát la...(nt).
- Thưa
Đại đức, không phải tôi không muốn thỉnh Phật trụ thế
lâu dài, nhưng vì ác ma Ba Tuần che mờ tâm trí của tôi, nên
tôi không thưa thỉnh... (nt).
- Ngày
xưa, Phật đã ba lần nhờ thầy đi lấy nước cho Phật uống,
mà rốt cuộc thầy không dâng nước cho Phật, nên phạm tội
Đột cát la...(nt).
- Thưa
Đại đức, không phải là tôi không dâng nước cho Phật,
nhưng vì bấy giờ có 500 chiếc xe vừa đi qua phía trên dòng
sông khiến cho nước đục sợ uống vào sinh bệnh, nên tôi
không lấy nước cho Thế Tôn...(nt).
- Thầy
đã cho phép nữ giới lễ Xá lợi Phật trước mọi người,
nên phạm tội Đột cát la...(nt).
- Thưa
Đại đức, không phải tôi muốn cho phép nữ giới lễ Xá
lợi Phật trước nhưng vì trời sắp tối,họ vào thành không
kịp, nên tôi mới cho phép...(nt).
Tiếp
theo, đại hội cứu xét những giới nào có thể loại bỏ,tôn
giả Ca Diếp trình bày: " Nếu chúng ta xem chúng học pháp (những
pháp cần phải học) là những giới nhỏ nhặt có thể loại
bỏ thì các Tỳ kheo khác sẽ bảo: Bốn giới Ba la đề đề
xá ni cũng là những giới nhỏ nhặt có thể loại bỏ. Nếu
chúng ta bảo bốn giới Ba la đề đề xá ni là những giới
nhỏ nhặt, thì các Tỳ kheo khác sẽ bảo: Các giới Ba dật
đề cũng là những giới nhỏ nhặt v.v... giờ đây, chúng
ta không thể khẳng định giới nào là giới nhỏ nhặt mà
loại bỏ một cách tùy tiện thì bọn ngoại đạo sẽ bảo:
"Pháp của sa môn Thích tử giống như mây khói, khi thầy còn
sống thì những pháp do thầy chế định các đệ tử tuân
thủ một cách nghiêm túc, nhưng sau khi thầy nhập Niết bàn,
họ không chịu thực hành nữa". Do vậy, tôi xin khẳng định
lại: "Những gì không do Phật chế thì không được tự ý
chế định, và những gì do Phật chế định thì không được
vi phạm. Chúng ta phải kính cẩn học tập những gì mà Phật
đã truyền dạy".
Sau
khi nghe trình bày, tất cả đại chúng đồng thanh nhất trí
với lời tuyên bố của tôn giả Ca Diếp.
Lúc
này trưởng lão Phú Lâu Na đang ở phương Nam, nghe Phật Niết
bàn tại thành Câu Thi, và các trưởng lão Tỳ kheo đang kết
tập Tỳ Ni pháp tạng tại thành Vương Xá, liền dẫn đồ
chúng đến đó tham dự. Nhưng khi đến nơi, đại hội kết
tập vừa xong.Do đó, trưởng lão yêu cầu đại hội đọc
tụng lại một lần nữa để trưởng lão và đồ chúng cùng
nghe. Đại hội đã hoan hỷ đáp ứng lời yêu cầu ấy.
Trong
đại hội kết tập này, được các trưởng lão sau đây chủ
trì:
1.
trưởng lão A Nhã Kiều Trần Như làm đệ nhất Thượng tọa
2.
Phú Lâu Na làm đệ nhị Thượng tọa
3.
Đàm Di làm đệ tam thượng tọa
4.
Đà Bà Ca Diếp làm đệ tứ Thượng tọa
5.
Bạt Đà Ca Diếp làm đệ ngũ Thượng tọa
6.
Đại Ca Diếp làm đệ lục Thượng tọa
7.
Ưu Ba Ly làm đệ thất Thượng tọa
8.
A Na Luật làm đệ bát Thượng tọa.
Vì
cuộc kết tập này vừa đúng 500 vị La hán, không nhiều,
không ít, nên được gọi là cuộc kết tập giáo pháp của
500 vị La hán (ngũ phần luật, ĐTK.1421, tr 190b- 192a).
So
sánh và nhận xét
1.
Nhận xét tổng quát
- Luật
ngũ phần trình bày tóm tắt, cô đọng, và chỉ trình bày
về sự kết tập.
- Luật
tứ phần, ngoài phần trình bày sự kiện kết tập, còn nói
thêm đôi nét về lúc Phật Niết bàn.
- Luật
Thập tụng trình bày tương đối phong phú nhất, vì còn thêm
nhiều chi tiết lúc Phật Niết bàn.
2.
Những vị chủ trì cuộc kết tập
- Luật
Ngũ phần (xem lại trước)
- Luật
Tứ phần ghi: a) Đà Ê La Ca Diếp, b) Trưởng lão Bà bà Na,
c) Đại Ca Diếp, d) Trưởng lão Đại Châu Na.
Luật
Thập tụng ghi: a) A Nhã Kiều Trần Như, b) Trưởng lão Quản
Đà, c) Thập Lực Ca Diếp, d) Ma Ha Ca Diếp.
3.
Những vấn đề Ca Diếp chất vấn A Nan
- Luật
Ngũ phần (tóm tắt những trình bày trên): a)- A Nan không hỏi
Phật những giới nào là nhỏ nhặt có thể loại bỏ, b)-
A Nan đạp chân lên y Tăng già lê của Phật, c)- A Nan đã xin
Phật cho phụ nữ xuất gia, d)- A Nan không xin Phật trụ thế
lâu hơn nữa mà để Phật Niết bàn, e)- A Nan không lấy nước
cho Phật uống khi Phật đang cần. f)- A Nan đã cho phép nữ
giới lễ xá lợi Phật trước nhất.
- Luật
Tứ phần: Bộ này đề cập đến 7 điều.Riêng điều thứ
hai khác hẳn hai bộ kia, như sau: Phật đã ba lần yêu cầu
A Nan làm người cúng dường mà A Nan nhất quyết không nhận.
Còn các điều 1,3,4,5,6, thì giống như các điều 1-5 của Ngũ
phần,chỉ đảo lộn vị trí. Điều 7 cuối cùng thì viết:
A Nan không ngăn nữ giới khiến họ làm bẩn chân Phật (1)
(ĐTK, 1428, tr 966a).
- Luật
Thập tụng: 5 điều trước giống như Luật ngũ phần, chỉ
đảo lộn vị trí. Riêng điều thứ sáu, luật này nói "A
Nan đã để lộ âm tàng tướng của Phật cho nữ giới xem
(2) (ĐTK 1428, tr 449b).
4-
Một số khía cạnh khác
a.
Địa điểm kết tập: cả ba bộ đều nhất trí cho là tại
thành Vương Xá.
b.
Thời gian kết tập: cả ba bộ đều đồng ý cho rằng vào
mùa hạ năm Phật Niết bàn.
c.
Số người tham dự kết tập: cả ba bộ đều ghi nhận con
số 500 vị La hán.
d.
Người phấn khởi nhất khi hay Phật nhập Niết bàn: cả ba
bộ đều cho là Tỳ kheo Bạt Nan Đà, một Tỳ kheo bán thế
xuất gia khi đã lớn tuổi.
e.
Tất cả đều đồng ý giữ nguyên những gì Phật chế, nhưng
tùy nghi áp dụng, không thêm cũng không bớt.
g .
Vấn đề tạng Luật: cả 3 bộ đều nhất trí cho rằng kết
tập Luật tạng trước do Ưu Ba Ly đảm trách, Kinh tạng sau,
do A Nan thực hiện,
- Bộ
Ngũ phần: chỉ nói kết tập tạng Luật và tạng Kinh. Hai
bộ kia thì bảo kết tập cả Luận tạng và do A Nan phụ trách,
như sau:
- Bộ
Tứ phần nói: điều gì liên quan đến những việc làm có
nạn hay không có nạn, đều tập họp lại thành tạng Luận.
- Bộ
Thập tụng nói: Phật dạy rằng ai phạm 5 tội - sát sinh,
trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, uống rượu thì sau khi chết
sẽ đọa vào địa ngục nhanh như tên bắn, đó là tạng Luận.
Bộ này nói rõ: Từ nay trở đi, mở đầu tất cả các bộ
Kinh, Luật, Luận đều dùng câu "Như thị ngã văn, nhất thời
...." (Tôi nghe như vầy, một thuở...)
Có
một điều khiến chúng ta phải lưu ý:tuy xuất phát từ một
đại hội kết tập mà khi tường thuật lại vẫn có những
điều dị biệt. Đó là do trình độ ghi nhận, phương thức
trình bày và quan điểm của mỗi bộ phái. Thế nhưng, đặc
biệt tư liệu này nằm trong luận tạng, được bảo trì khá
tốt, và tương đối còn giữ được tính chất nguyên thủy
và trung thực, chưa bị tình trạng "tam sao thất bổn" làm
cho sai lạc. Vì vậy, khi đề cập đến lịch sử kết tập
Tam tạng giáo điển, chúng ta có thể yên tâm phần nào trong
việc dẫn chứng về phương diện sử liệu.
Chú
thích
(1)
Tôn giả Ca Diếp chất vấn A Nan: "Vì sao thầy không ngăn cản
nữ giới để họ làm bẩn chân Phật?", A Nan đáp: "không
phải tôi cố ý làm như vậy, nhưng vì tâm hồn nữ giới
rất mềm yếu, nên khi đảnh lễ chân Phật, họ khóc lóc
làm rơi nước mắt trên chân Phật, khiến chân Phật bị nhiễm
bẩn".
(2)
Tôn giả Ca Diếp hỏi A Nan: "Vì sao thầy để lộ âm tàng
của Phật cho nữ giới xem?", A Nan đáp: "Vì nữ giới phúc
đức mỏng manh, nên muốn cho họ xem tướng âm tàng của Phật.
Khi thấy rồi họ sẽ nhàm chán cái thân nữ giới, sau đó
mong được cái thân nam tử, nên tôi cho họ xem".
LỊCH SỬ KẾT TẬP KINH LUẬT
LẦN THỨ HAI
Thích Phước sơn
Sau
khi Phật Niết bàn độ 100 năm, các Tỳ kheo Bạt Kỳ
ở Tỳ Xá Ly đề ra 10 điều phi pháp như sau: 1/ Tỳ kheo ăn
muối gừng để dành qua đêm vẫn hợp pháp, 2/ Tỳ kheo ăn
xong, nhận được thức ăn khác, dùng hai ngón tay cầm thức
ăn để ăn vẫn hợp pháp, 3/ Tỳ kheo ăn xong, rời khỏi chỗ,
rồi ngồi ăn lại vẫn hợp pháp, 4/ Tỳ kheo ăn xong, đi sang
nơi khác ăn thêm vẫn hợp pháp, 5/ Tỳ kheo dùng sữa đường
hòa lại uống ngoài bữa ăn chính vẫn hợp pháp, 6/ Tỳ kheo
uống rượu tự chế biến từ trái cây vẫn hợp pháp, 7/
Tỳ kheo tùy ý làm tọa cụ lớn hoặc nhỏ vừa với mình
vẫn hợp pháp, 8/ Tỳ kheo có thể làm những việc mà lúc
còn cư sĩ đã làm vẫn hợp pháp, tất nhiên có việc có thể
làm được và có việc không thể làm được, 9/ Trong một
trú xứ có một nhóm Tỳ kheo làm pháp yết ma riêng, sau đó
đến yêu cầu chúng Tăng chấp nhận pháp yết ma ấy vẫn
hợp pháp, 10/ Tỳ kheo có thể thu nhận và cất giữ vàng bạc,
tiền của vẫn hợp pháp.
Thế
rồi, vào các ngày mồng 8, 14 và 15, các Tỳ kheo ấy thường
ngồi ở chỗ đông người qua lại, đặt một cái bát nước
trước mặt, nói với mọi người rằng đó là cái bát điềm
lành, rồi yêu cầu họ bố thí:
"Những
điềm lành ở trong này, các vị hãy bố thí y bát, giày dép
và thuốc men". Những người muốn bố thí, liền bố thí,
những người không muốn bố thí thì chê trách, hủy báng,
nói: "Sa môn Thích tử không nên nhận vàng bạc, tiền của,
giả sử có ai đem cho, cũng không nên đưa mắt nhìn đến,
nay vì sao lại bày ra cái trò xin bố thí như thế này?".
Bấy
giờ, Trưởng lão Da Xá ở trên giảng đường Trùng Các, bên
dòng sông Di Hầu thấy thế, liền nói với các Tỳ kheo: "Các
Thầy chớ bày ra cái trò xin bố thí như vậy. Chính tai tôi
từng nghe Phật dạy: Người cầu xin bố thí phi pháp, và người
cầu bố thí cho kẻ xin phi pháp, cả hai đều có tội". Thầy
nói với các Tỳ kheo xong, lại nói với các bạch y nam nữ
già trẻ: "Các người đừng bố thí như thế. Chính tôi từng
nghe Phật dạy: Người cầu xin phi pháp và người bố thí
cho kẻ xin phi pháp, cả hai đều có tội".
Khi
các Tỳ kheo được vàng bạc, tiền của rồi, liền đem chia
cho Da Xá, nói với Thầy: "Đại đức có thể nhận phần này".
Da
Xá đáp: "Tôi không nhận cái phần bố thí do xin phi pháp như
vậy".
- Nếu
thầy không nhận thì có thể cho lại chư Tăng.
- Tôi
đã không nhận thì lấy đâu mà cho chư Tăng?
Thế
rồi, các Tỳ kheo ấy bèn hạch tội Da Xá rằng trước đây
Thầy đã nói cho bạch y biết việc đó, làm như thế là nhục
mạ bạch y, nên họ phạt Da Xá bằng pháp yết ma hạ ý (làm
vui lòng người khác).
Sau
khi tuân thủ pháp yết ma hạ ý, Da Xá liền bảo các Tỳ kheo
cử một Tỳ kheo cùng đi với Thầy đến các nhà bạch y để
xin lỗi họ. Da Xá bèn đi đến chỗ 500 Ưu bà tắc đang tụ
họp, nói với họ: "Các người nên biết, điều gì chánh
pháp thì tôi nói là chánh pháp, điều gì phi pháp thì tôi
nói là phi pháp, điều gì chánh luật thì tôi nói là chánh
luật, điều gì phi luật thì tôi nói là phi luật. Những gì
do Phật dạy thì tôi bảo là do Phật dạy, những gì không
phải do Phật dạy thì tôi bảo là không phải do Phật dạy.
Trước đây tôi đã nói như thế, khiến các Ưu bà tắc nổi
giận, nên hôm nay tôi đến để xin lỗi".
Các
Ưu bà tắc nghe thế, hoảng kinh bảo: "Thưa Đại đức, lúc
nào Đại đức bảo đây là pháp, đây là luật, đây là lời
Phật dạy, khiến cho chúng tôi nổi giận mà nay phải đến
xin lỗi?".
Nhân
đó, Da Xá mới nói với họ rằng, ngày trước tại thành
Vương Xá, Đức Thế Tôn có nói với các đại thần của
vua Bình Sa Vương rằng: "Sa môn Thích tử không nên cất giữ
vàng bạc châu báu và dùng nó để buôn bán". Rồi Phật nêu
ví dụ về mặt trời, mặt trăng không sáng tỏ là vì bị
4 thứ khói, bụi và A tu la che khuất. Cũng thế, Sa môn Thích
tử cũng bị 4 thứ sau đây che khuất: 1/ Không đoạn trừ
ái dục, làm điều bất tịnh, 2/ Đam mê rượu thịt không
chịu trừ bỏ, 3/ Chuyên làm những việc tà vạy để mưu
sinh, 4/ Thu nhận vàng bạc châu báu rồi dùng nó để mua bán
kiếm lời. Chỉ có những ai xem ngũ dục là thanh tịnh mới
cất giữ vàng bạc châu báu, và dùng nó để mua bán, rồi
xem như một việc làm hợp pháp. Phật thường bảo: "Tỳ kheo
cần xe thì xin xe, cần người thì nhờ người, tùy theo những
nhu cầu cần thiết Ta đều cho phép cầu xin, nhưng hoàn toàn
không được thu nhận vàng bạc châu báu và dùng nó để mua
bán".
Da
Xá lặp lại lời Phật dạy xong, bèn hỏi các người Ưu bà
tắc là những điều đó có đúng luật, đúng lời Phật dạy
hay không. Các người ấy đều nhất trí thừa nhận là đúng,
và phát biểu: "Tại thành Tỳ Xá Ly hiện nay chỉ có Đại
đức Da Xá là số một trong hàng Sa môn Thích tử". Thế rồi,
họ yêu cầu Thầy trụ trì tại thành Tỳ Xá Ly để họ cúng
dường tứ sự (4 món cần thiết suốt đời).
Sau
đó, Da Xá từ giã các cư sĩ rồi trở về lại trú xứ. Các
Tỳ kheo Bạt Kỳ biết Da Xá được các người Ưu bà tắc
tín nhiệm, nên xoay qua kết tội thầy phạm Ba dật đề, vì
trước đây đã xúc phạm các Tỳ kheo, do đó, phải sám hối.
Da Xá khẳng định rằng mình vô tội nên không có lý do gì
phải sám hối. Các Tỳ kheo Bạt Kỳ bèn tập họp lại, định
làm yết ma kết tội Da Xá ngoan cố không nhận tội. Thấy
tình thế gay cấn, Da Xá liền dùng thần thông bay đến nước
Ba Tuần. Trên đường đi, Thầy gặp 60 Tỳ kheo đã đắc tam
minh, lục thông, đều là đệ tử của A Nan, Thầy liền yêu
cầu họ họp sức để diệt trừ 10 điều phi pháp của nhóm
Tỳ kheo Bạt Kỳ, đồng thời Thầy tiếp tục vận động
hai nhóm Tỳ kheo khác, mỗi nhóm gồm 30 người. Họ cũng đã
đạt được đạo quả cao siêu như nhóm Tỳ kheo trước, và
ai nấy đều nhiệt tình hưởng ứng công việc chính nghĩa
của thầy. Rồi thầy tiếp tục đến núi A Phù mời trưởng
lão Tam Phù Đà hợp tác, và trưởng lão cũng tùy hỷ.
Bấy
giờ, trưởng lão Ly Bà Đa đã đạt được từ tâm tam muội,
có đông đảo đồ chúng, đang ở tại thành Câu Xá Di. Da
Xá cũng đến đó mời trưởng lão tham gia, và trưởng lão
cũng hoan hỷ.
Các
Tỳ kheo Bạt Kỳ nghe tin Da Xá đã đến gặp trưởng lão Ly
Bà Đa, họ bèn chở đầy thuyền những y bát của Sa môn và
những vật dụng cần thiết khác, cùng đến đó định mua
chuộc trưởng lão để trưởng lão yểm trợ. Trong thuyền
ấy, có một Tỳ kheo tên Sa Lan, thấy sự việc phức tạp,
thầy bèn căn cứ vào kinh luật chiêm nghiệm xem các Tỳ kheo
Bạt Kỳ hành động đúng pháp hay phi pháp, thì thầy thấy
rằng họ phi pháp. Bỗng dưng, trên không trung có vị thiên
thần ba lần xướng lên rằng: "Đúng thế ! đúng thế ! Các
Tỳ kheo Bạt Kỳ hành động phi pháp như ông đã thấy".
Khi
đi đến Câu Xá Di, các Tỳ kheo Bạt Kỳ liền vào diện kiến
trưởng lão Ly Bà Đa và thưa rằng: "Chúng tôi chở rất nhiều
vật dụng cần thiết của Sa môn đến để cúng dường đại
đức, mong đại đức nạp thọ". Trưởng lão từ chối nói:
"Y bát của tôi đã đầy đủ chẳng cần chi nữa". Họ lại
nài nỉ: "Nếu không nhận nhiều, xin đại đức nhận cho chút
ít". Trưởng lão khẳng định: "Y bát của tôi đã đủ không
thể nào nhận thêm những vật của các thầy một cách phi
pháp".
Biết
Trưởng lão Ly Bà Đa có một đệ tử tên Đạt Ma thường
hầu bên cạnh, các Tỳ kheo Bạt Kỳ liền đến xin cúng dường
vật dụng cho thầy, thầy cũng từ chối. Họ bèn thuyết phục:
"Khi Phật còn tại thế, người ta đến cúng dường Phật,
nếu Phật không nhận thì họ đem cúng dường A Nan, A Nan đều
nhận cả. A Nan nhận thì cũng như Phật nhận". Đạt Ma nghe
thế liền nhận một vật. Nhận rồi liền hỏi: "Các Thầy
muốn điều gì mà cưỡng ép bố thí cho tôi?". Họ đáp: "Chúng
tôi muốn đại đức thưa với Hòa thượng Bổn sư, tận lực
hỗ trợ chúng tôi, đừng để cho Da xá phá hoại pháp luật
của chúng tôi".
Đạt
Ma liền đến thưa với thầy mình: "Hòa thượng nên ủng hộ
các Tỳ kheo Bạt Kỳ", Ly Bà Đa nói: "Những người làm điều
phi pháp, ta không ủng hộ". Đạt Ma thưa: "Mong thầy suy nghĩ
lại". Ly Bà Đa liền khiển trách Đạt Ma: "Nay ngươi khuyên
ta hỗ trợ những kẻ phi pháp, ngươi chẳng phải là đệ
tử của ta nữa. Từ nay trở đi chớ có ở quanh quẩn bên
ta".
Đạt
Ma sợ hãi, xấu hổ, đến thuật lại với các Tỳ kheo Bạt
Kỳ sự kiện vừa rồi và họ bèn an ủi, khuyên Thầy đừng
sợ gì cả.
Thế
rồi, trưởng lão Ly Bà Đa suy nghĩ: "Nếu ta dẹp trừ những
việc phi pháp của bọn họ tại đây, họ sẽ khởi lên trở
lại, vậy ta phải cùng nhau đến chỗ ở của họ mà dẹp
trừ". Nghĩ vậy, liền cùng với Da Xá đến thành Tỳ Xá Ly.
Nơi thành này, có vị Tỳ kheo tên là Nhất Thiết Khứ, Thầy
là vị Thượng tọa có uy vọng nhất trong hàng Sa môn Thích
tử ở cõi Diêm phù đề này, đã đắc quả A la hán, có tam
minh, lục thông, cũng là đệ tử lớn nhất của A Nan. Da Xá
liền bàn với Ly Bà Đa, cùng đến gặp Nhất Thiết Khứ để
bàn bạc công việc rồi sẽ thực hiện. Sau khi gặp Thượng
tọa Nhất Thiết Khứ, chào hỏi xong xuôi, Ly Bà Đa một mình
đến phòng Thượng tọa, trải tọa cụ an nghỉ. Đêm đến,
Ly Bà Đa suy nghĩ: "Thượng tọa Nhất Thiết Khứ này đã quá
già nua mà còn nỗ lực ngồi thiền suốt đêm, thì ta nay đâu
được phép an nghỉ". Nhất Thiết Khứ cũng suy nghĩ: "Vị
khách Tỳ kheo này đi đường cực nhọc mà còn ngồi thiền
suốt đêm để hành đạo, thì ta đâu được phép nằm yên".
Hai
người ngồi thiền suốt đêm suy nghĩ về nhau như thế. Đến
cuối đêm, Nhất Thiết Khứ hỏi Ly Bà Đa: "Đêm nay Thầy
nhập vào loại thiền định nào?"
Ly
Bà Đa đáp: "Tính tôi rất nặng lòng từ bi, đêm nay tôi nhập
vào từ tâm tam muội".
- Đó
là loại Thiền định thô thiển. Chẳng hay Thầy đã đắc
quả A la hán chưa?
- Đã
đắc rồi. Thế còn Thượng tọa đêm nay nhập vào loại Thiền
định nào?
- Tính
tôi thích quán tưởng về "không", đêm rồi tôi nhập vào
không tam muội.
- Đó
là việc làm của bậc đại nhân. Vì không tam muội là pháp
của bậc đại nhân. Nhưng Thượng tọa đã đắc quả vị
A la hán chưa?
- Đã
đắc rồi.
- Vậy
xin Thượng tọa cho biết, muối để cách đêm có được phép
dùng không?
- Việc
ấy nên hỏi giữa chúng Tăng, nếu hỏi riêng tôi, những kẻ
phi pháp sẽ cho tôi là có ý thiên vị và không chấp nhận
tôi vào thành phần bàn luận Tỳ ni (giới luật).
Bấy
giờ, Ly Bà Đa liền tập họp Tăng chúng để luận bàn Tỳ
ni, nhưng vì Tăng chúng đông đảo, không khí ồn náo, khó
quyết đoán Tăng sự nên Thầy đề nghị bạch nhị yết ma
đề cử một số đại diện để chủ trì cuộc họp và quyết
đoán các sự việc. Nhóm Tỳ keo Bạt Kỳ trước hết đề
cử 4 vị: 1/Nhất Thiết Khứ, 2/ Ly Bà Đa, 3/ Bất Xà Tôn,
4/ Tu Ma Na. Nhóm Tỳ kheo Ấp Ba Lợi cũng đề cử 4 người:
1/ Tam Phù Đà, 2/ Sa Lan, 3/ Trường Phát, 4/ Ba Sa Lam.
Các
Thượng tọa được Tăng sai bèn nhất trí chọn khu vườn
của một nữ thí chủ đã cúng dường cho chư Tăng, tại Tỳ
Xá Ly làm nơi nghị sự.
Bấy
giờ Ly Bà Đa bèn hỏi Thượng tọa Nhất Thiết Khứ điểm
thứ nhất: "Muối để cách đêm có được phép dùng không?"
Nhất
Thiết Khứ đáp: "Không được dùng".
- Phật
chế định điều này tại nơi nào?
- Tại
thành Vương Xá.
- Do
ai mà chế?
- Do
một Tỳ kheo ở nơi A lan nhã.
- Phạm
về việc gì?
- Phạm
về việc dùng thức ăn để cách đêm, thuộc tội Ba dật
đề.
Thế
rồi, Ly Bà Đa kết luận: Đó là pháp, đó là luật, đó là
lời Phật dạy, các Tỳ kheo Bạt Kỳ làm điều phi pháp, phi
luật, trái lời Phật dạy, giờ đây bỏ xuống một thẻ.
Và
cứ thế, Ly Bà Đa hỏi, Nhất Thiết Khứ đáp, cho đến khi
kết thúc 10 điều phi pháp.
Tiếp
theo, 8 vị này bèn suy cử 4 người đại diện là: Nhất Thiết
Khứ 136 tuổi hạ, Ly Bà Đa 120 tuổi hạ, Tam Phù Đà và Da
Xá đều 110 tuổi hạ, những vị này có trách nhiệm đem các
quyết định của Đại hội vừa rồi ra công bố trước 700
vị A la hán, theo thể thức Ly Bà Đa hỏi và Nhất Thiết Khứ
đáp như trên. Cuối cùng, Ly Bà Đa kết luận: "Những gì không
do Phật chế thì không được tùy tiện chế định, những
gì do Phật đã chế thì không được vi phạm. Tăng chúng phải
chăm chỉ học tập những gì Phật đã truyền dạy".
Cuộc
kết tập này vừa đúng 700 vị A la hán, nên gọi là cuộc
kết tập của 700 người. (Ngũ phần Luật, ĐTK.1421, tr.192a-194b).
Vài
điều ghi nhận
1/
Lý do kết tập: cả hai bộ Tứ Phần luật (ĐTK.1428, tr.969c-976a)
và Thập Tụng luật (ĐTK.1435, tr.453c-455c) đều nhất trí với
Ngũ Phần Luật cho rằng do 10 điều phi pháp của nhóm Tỳ
kheo Bạt Kỳ mà phải mở Đại hội kết tập pháp tạng lần
thứ hai này.
2/
Thời gian kết tập: Ngũ Phần luật và Tứ Phần luật đều
ghi nhận là sau Phật Niết bàn 100 năm. Riêng Thập Tụng luật
thì bảo là sau Phật Niết bàn 110 năm.
3/
Địa điểm kết tập: cả ba bộ đều nhất trí bảo là tại
Tỳ Xá Ly.
4/
Thành phần chủ trì cuộc kết tập: Hai bộ kia cũng không
khác mấy với Ngũ Phần (xem lại trên), chỉ có cách phiên
âm tên của các trưởng lão hơi khác đôi chút mà thôi.
5/
Số người tham dự kết tập: Cả ba bộ đều nhất trí cho
rằng cuộc kết tập lần này có tất cả 700 vị A la hán.
6/
Về 10 điều phi pháp: Cả ba bộ, kể cả Luật Thiện Kiến
(ĐTK.1462,tr.677c) và Luật Nam tông (Luật xuất gia, quyển thượng,
T.K.Hộ Tông, 241) cũng ghi nhận là có tất cả 10 điều, nhưng
về thứ tự của 10 điều thì có đảo lộn chút ít (xem bản
so sánh ở sau). Tuy thế, nội dung của từng điều thì các
bộ gần như nhất trí, chỉ khác nhau về cách diễn giải
rộng hay hẹp mà thôi.
Ở
điều 2, Ngũ Phần luật ghi: "Lưỡng chỉ" sao thực thực tịnh"
(dùng hai ngón tay cầm thức ăn để ăn vẫn hợp pháp), và
được giải thích rõ là: Tỳ kheo ăn xong, rời khỏi chỗ
ngồi, nếu nhận được thức ăn khác, không cần xin phép
ăn thêm, dùng hai ngón tay cầm thức ăn mà ăn vẫn hợp pháp.
Chúng tôi đã so sánh các bộ Tứ Phần luật, Thập Tụng luật,
Thiện Kiến luật - là những tư liệu rất căn bản, cổ xưa,
còn giữ nguyên vẹn - cũng đều giải thích ý nghĩa như Ngũ
Phần. Nhưng không hiểu sao phần lớn các loại luật giải
về sau, thường giải thích điều này khác hẳn. Cụ thể
như Phật Quang Đại Từ Điển, tr.442a, giải thích điều 2
Nhị chỉ tịnh như sau: Từ lúc mặt trời đúng ngọ cho đến
lúc bóng xế hai ngón tay vẫn có thể ăn được (mà không
phạm luật). Nhân đây, người viết muốn nêu lên thắc mắc
này, xin chất chính các vị tôn túc luật sư, và rất mong
vấn đề này được làm sáng tỏ.
Tại
sao gọi 10 điều ấy là phi pháp? Thiết nghĩ, lúc bấy giờ
cách Phật Niết bàn mới khoảng 100 năm, các vị tôn túc trưởng
lão nghiêm trì giới luật vẫn còn nhiều, chánh pháp còn được
nhiều người sùng thượng, mà các Tỳ kheo Bạt Kỳ lại tự
tiện đặt ra những điều luật mới khác với giới luật
Phật chế, nên mới bị lên án gắt gao như vậy. Kỳ thực,
trong 10 điều ấy chỉ có vài điều là trái luật, ngoài ra,
các điều khác cũng không có gì là trầm trọng lắm, nếu
đem so sánh với thời đại chúng ta ngày nay. Vả lại, nếu
muốn cho chánh pháp tồn tại lâu dài và được truyền bá
rộng rãi, thì các sứ giả Như Lai phải biết tùy theo căn
cơ, thời đại và hoàn cảnh mà áp dụng giới luật một
cách uyển chuyển, linh động, miễn sao không phương hại đến
mục đích giải thoát là được. Nếu không thì giới luật
của Phật sẽ có nhiều điều trở nên vô hiệu. Thế nên,
Phật đã cẩn thận căn dặn: "Này các Tỳ kheo, tuy là những
điều do Ta chế định, nhưng nếu không phù hợp với phong
tục tập quán của địa phương đó, thì không nên áp dụng.
Trái lại, có những điều không do Ta quy định, nhưng vốn
là phong tục tập quán của địa phương ấy thì không thể
không thi hành" (Ngũ Phần luật, ĐTK.1421, tr.153a).
Rồi
Đức Phật bổ túc: "Tỳ kheo khi làm việc vì, nên đem đối
chiếu với kinh, luật, nếu việc làm đó phù hợp với tinh
thần của kinh, luật thì hãy làm. Ngược lại, nếu việc
làm đó trái với tinh thần của kinh, luật, thì không nên
làm" (Tứ Phần Luật, ĐTK.1428, tr.970a).
Tóm
lại, tinh thần của Phật giáo là "Tùy duyên mà bất biến,
bất biến mà vẫn tùy duyên". Chúng ta có thể linh động áp
dụng giới luật sao cho tốt nhất để đạt đến mục đích
giải thoát, nhưng phải thận trọng trong việc đề xuất những
quy định mới, và nhất là không nên tùy tiện sửa đổi
giới luật của Phật./.
Phụ
lục: Bản so sánh 10 điều phi pháp
Các
bộ luật - Những điều khoản
-
Ngũ Phần luật: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
-
Tứ Phần luật: 7 1 3 2 6 8 9 5 4 10
-
Thập Tụng luật: 1 2 5 3 4 7 9 8 6 10
-
Thiện Kiến luật: 1 2 4 3 7 8 9 6 5 10
-
Nam Tông luật: 1 2 4 3 7 8 9 6 5 10
Chỉ
có cột 3 của Ngũ Phần luật (3 Tứ Phần: 5 Thập Tụng: 4
Thiện Kiến: 4 Nam Tông) về nội dung, so với mỗi bộ có sai
khác đôi chút, còn 9 cột kia, tuy vị thứ của mỗi bộ có
khác nhau, nhưng nội dung căn bản có thể nói tương đối
nhất quán. (Khi nào có dịp, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề
này).
LỊCH SỬ KẾT TẬP KINH LUẬT
LẦN THỨ BA
Thích Phước sơn
Sau
Phật Niết bàn 100 năm thì Đại hội kết tập Pháp Tạng
lần thứ hai diễn ra, và sau lần kết tập lần thứ 2 đúng
118 năm lại diễn ra cuộc kết tập lần thứ 3. Như
vậy lần kết tập này xảy ra sau Phật Niết bàn 218 năm,
tức là 325 năm trước Tây lịch. Đại hội lần này do Hoàng
đế A Dục (Asoka) đề xướng và bảo trợ .
Vua
A Dục ra đời khoảng 200 năm sau Phật Niết Bàn, tức khoảng
340 năm trước Tây lịch. Lúc ông còn trẻ vốn tính tình hung
bạo, nên không được phụ vương yêu thích, do đó ông bị
đưa đi trấn nhậm một vùng đất xa xôi. Đến khi phụ vương
băng hà, ông liền đem quân về triều, giết người anh cả
là Hoàng thái tử Tu Ma Na (Sumara) và tất cả những người
anh em khác, chỉ để lại người em cùng mẹ là Túc Đại
Đa (còn gọi là Đế Tu) rồi lên ngôi vua. Sau khi tức vị,
trong khoảng 3 năm đầu, nhà vua chỉ phụng sự ngoại đạo,
theo truyền thống của tiên vương để lại.Đến năm thứ
ba, nhân trông thấy một Sa di tên Nê Cù Đà (Nigrodha) oai nghi
tề chỉnh, tướng mạo đoan trang, nên vua phát tâm tín kính
Phật pháp.
Vị
Sa di này chính là con của Tu Ma Na khi vua sát hại các người
anh em trong hoàng tộc, thì người chị dâu, vợ Tu Ma Na, đang
mang thai, trốn được.Sau đó bà sinh ra Nê Cù Đà.Lúc Nê Cù
Đà lên 7 tuổi, thì được A la hán Bà Lưu Na (Mahàvaruna) độ
cho xuất gia làm Sa di. Chuyện kể rằng, lúc Bổn sư thế phát,
tóc rơi chưa tới đất thì Nê Cù Đà đã đắc quả La hán.
Vị Sa di này, trong một tiền kiếp xa xưa, vốn là anh của
A Dục. Hai anh em cùng mộ đạo tu hành, tạo nhiều công đức.
Do nhân duyên ấy nên khi vừa thấy ông, vua A Dục đã có thiện
cảm ngay tức khắc.Hơn nữa, nhờ đã gieo trồng phước đức
trong quá khứ, nên nhà vua dễ dàng kính tín Tam bảo, và phát
tâm cúng dường Tăng chúng một cách nhiệt thành. Số người
nhận được sự cúng dường của Vua lên đến 6 vạn người
trong mỗi ngày. Đồng thời, vua cho xây cất 84.000 ngôi già
lam, và kiến tạo 84.000 ngôi bảo tháp trong khắp quốc độ,
cũng như tại các nước chư hầu xung quanh.
Khi
các ngôi bảo tháp và tự viện hoàn thành, nhà vua mở tiệc
khánh hạ, cúng dường rộng rãi chư Tăng. Nhân thấy oai nghi
tề chỉnh và đạo hạnh thanh cao của Thánh chúng, nhà vua
càng thêm tin tưởng Phật pháp nhiệm mầu. Do đó, vua cho một
người con trai là Ma Sẩn Đà (Mahinda) và một người con gái
tên là Tăng Già Mật Đa (Sanghamitta) cùng xuất gia một lúc.Ma
Sẩn Đà bấy giờ đúng 20 tuổi.Hòa thượng Bổn sư của
Thầy là Mục Kiền Liên Tử Đế Tu (Moggaliputta - tissa) và
Tăng Già Mật Đa vừa 18 tuổi, Hòa thượng Bổn sư của cô
là Đàm Ma Ba La (Dhammapàli).
Nhà
vua càng ngày càng nhiệt thành ủng hộ Phật pháp, cúng dường
Tăng chúng một cách trọng hậu, thì ngoại đạo đi khất
thực mỗi ngày mỗi trở nên khó khăn. Do đó, họ gia nhập
vào hàng ngũ Tăng chúng càng lúc càng đông. Trong số đó,
có người xuất thân từ đạo thờ lửa, có người theo đạo
lõa thể, và có người theo đạo dầm nước lạnh. Do tiêm
nhiễm lối sống ngoại đạo, nên mặc dù đã vào trong Tăng
chúng, các Tỳ kheo tân tòng này vẫn hành xử như ngoại đạo.
Thậm chí, họ còn đem giáo luật ngoại đạo ra giảng dạy
cho tín chúng, khiến cho Phật pháp trở nên hỗn loạn.Vì thế,
các Tỳ kheo chân chính không thể hòa hợp bố tát, tự tứ
và làm Phật sự chung với họ. Tình trạng bất ổn cứ kéo
dài mãi, khiến Tăng chúng sống trong sự rạn nứt, bất hòa,
suốt 7 năm mà không bố tát được. Vua A Dục chứng kiến
tình trạng chia rẽ của Tăng đoàn như vậy, nên rất đau
lòng. Nhằm chấn chỉnh lại hàng ngũ Tăng chúng, vua bèn sai
một viên quan đại thần đem sắc lệnh của mình đến các
tự viện, truyền cho Tăng chúng phải cùng nhau hòa hợp Bố
Tát. Nhưng họ không nói gì cả. Vị quan Khâm sai không biết
làm thế nào, đành phải trở về triều, bàn bạc với một
viên quan đồng liêu.Vị quan này bèn hiến kế bằng cách gợi
ý: "Tôi thấy đại vương khi chinh phục các nước, hễ ai
không tuân lệnh thì giết chết; trường hợp này cũng phải
làm như thế".
Nghe
bạn nói có lý, viên Khâm sai liền trở lại tu viện, chất
vấn vị Thượng tọa: "Đại vương đã có sắc lệnh khiến
Tăng chúng phải hòa hợp thuyết giới, vì sao các vị không
phục tùng?". Thượng tọa đáp: "Thưa thượng quan. vì các
thiện Tỳ kheo không chịu bố tát chung với các Tỳ kheo ngoại
đạo, chứ không phải không phục tùng".
Ngay
lậạp tức, viên Khâm sai liền tuốt gươm giết vị Thượng
tọa ấy, và lần lượt giết đến chỗ Tỳ kheo Túc Đại
Đa, Túc Đại Đa lền bảo vị ấy dừng tay lại không được
cuồng sát bừa bãi những người vô tội.Viên Khâm sai đành
phải dừng tay, rồi trở về triều để yết kiến nhà vua.
Bây
giờ nói về nguyên nhân khiến cho Túc Đại Đa đi tu: Sau khi
vua A Dục lên ngôi bèn phong cho em là Túc Đại Đa làm Thái
tử. Một hôm Túc Đại Đa vào rừng du ngoạn, bỗng thấy
các con ni làm việc theo bản năng chúng sinh để duy trì nòi
giống. Ông nghĩ: "Các con nai này ăn cỏ xanh, uống nước lã,
mà còn như thế, thì các chư Tăng ở trong phòng kín, có chăn
êm nệm ấm, ăn uống no đủ thì lẽ nào lại không việc
ấy". Thế rồi ông trở về hoàng cung, đem ý nghĩ ngây thơ
của mình trình bày với hoàng huynh A Dục, vua nghe thế, tự
nhủ: "Thật quái lạ! Chuyện không đáng nghi ngờ mà bỗng
dưng sinh nghi ngờ. Có khác nào nơi bình địa bỗng khởi phong
ba!". Do đó, để dạy cho Túc Đại Đa một bài học, vua âm
thầm sắp đặt mưu kế, khiến Túc Đại Đa phạm phải tội
nặng đáng bị tử hình. Lúc ấy, vua phẫn nộ bảo với em
mình: "Nay ta ban cho ngươi một ân huệ cuối cùng, cho phép
ngươi làm vua trong vòng 7 ngày, sau đó ta sẽ trị tội".
Thế
rồi Túc Đại Đa được lên ngôi báu, ngự nơi lầu son điện
ngọc, có cung tần mỹ nữ, đờn ca xướng hát và đủ các
thứ sơn hào hải vị không thiếu thứ gì. Nhưng ông chẳng
màng để tâm đến những thứ ấy mà chỉ ngong ngóng sợ
chết đến nỗi thân thể cực kỳ tiều tụy.
Sau
7 hôm, A Dục hỏi Túc Đại Đa trong thời gian qua hưởng vinh
hoa phú quí tột bực như vậy có cảm thấy thích thú hay không,
thì Túc Đại Đa thực thà bộc bạch hết những tâm sự khổ
đau của mình. Vua liền bảo: "Chỉ vì biết trước sinh mệnh
mình trong 7 hôm nữa sẽ kết thúc mà ngươi còn hốt hoảng,
quên ăn bỏ ngủ, thân thể trở nên tàn tạ đến thế, huống
gì các Tỳ kheo trong từng hơi thở đều nghĩ đến lẽ vô
thường, không biết cái chết đến lúc nào, thử hỏi còn
tâm trí đâu nữa mà đắm trước những vật dục ở đời?".
Được
lời như cởi tấm lòng, Túc Đại Đa liền sinh tín tâm đối
với Phật pháp và chẳng bao lâu ông phát tâm xuất gia làm
một Tỳ kheo.
Nhắc
lại việc trước, khi viên quan Khâm sai bị Túc Đại Đa ngăn
lại. Ông liền trở về triều tâu lên nhà vua sự kiện diễn
tiến vừa rồi.Vua nghe thế vô cùng kinh ngạc, đau đớn tột
cùng, ngất xỉu, té quyuống đất. Hồi lâu vua mới tỉnh
lại, thống trách viên quan ấy: "Trẫm sai khanh đến tu viện
là để truyền lệnh cho các Tỳ kheo phải hòa hợp thuyết
giới chứ đâu phải bảo đến giết họ!". Thế rồi, vua
tức tốc ngự giá đến hỏi chư Tăng, trong trường hợp vừa
rồi, vua có tội hay viên Khâm sai kia có tội.Trong các Tỳ
kheo, có người nói do có lệnh của vua mà Tăng chúng bị chết
oan, nên vua có tội. Có người thì bảo cả hai đều có tội.
Nhưng có người bình tĩnh hơn, hỏi vua có ý định giết hại
hay không, thì vua đáp là chỉ muốn xây dựng Tăng đoàn, tạo
lập công đức chứ không có tâm sát hại. Vị ấy kết luận:
"Nếu tâm đại vương như thế, thì đại vương vô tội,mà
kẻ giết người kia có tội"
Qua
những trình bày khác nhau như thế, vua càng thêm phân vân,
liền hỏi các Tỳ kheo, ai có thể làm cho vua hết nghi hoặc.
Các Tỳ kheo bảo rằng chỉ có trưởng lão Mục Kiền Liên
Tử Đế Tu, người đã đạt tam minh, chứng quả A la hán,
mới có thể chấm dứt được sự nghi ngờ của vua mà thôi.Sau
khi nghe lời chỉ dẫn, vua liền cáo từ các Tỳ kheo, trở
về cung đình, chuẩn bị lễ cúng dường.Chuẩn bị xong các
việc, vua phái người đến tu viện cung thỉnh Mục Kiền Liên
Tử Đế Tu và đại chúng vào triều thọ trai.Thọ trai xong,
vua mời trưởng lão Đại Tu cùng Tăng chúng đến một đạo
tràng đã được thiết lập tại Viên Lâm (Uyỳana). Khi đến
nơi, để biết chắc trưởng lão có thể đoạn trừ được
điều nghi ngờ của mình hay không, vua thỉnh cầu trưởng
lão thi thố vài phép thần thông. Trưởng lão đã hoan hỷ
đáp ứng lời yêu cầu ấy khiến vua rất khâm phục nghĩ
rằng ác pháp sẽ diệt trừ, Phật pháp sẽ lại trùng hưng.
Thế rồi, vua đem sự việc trước kia ra chất vấn trưởng
lão. Trưởng lão bèn hỏi lại nhà vua: "Khi ấy đại vương
có tâm sát hại hay không?", vua đáp: "Đệ tử chỉ mong có
công đức,chứ không có tâm sát hại". Trưởng lão khẳng
định: "Nếu không có tâm giết hại thì đại vương vô tội".
Rồi trưởng lão đem kinh Bản sinh ra giảng cho vua nghe. Sau
khi nghe pháp, mọi thắc mắc trong lòng của vua đều giải
tỏa. Tiếp đến trưởng lão trình bày thế nào là đúng luật,
thế nào là trái luật, thế nào là đúng pháp, thế nào là
phi pháp, những gì do Phật dạy và những gì không phải do
Phật dạy...Vua được diễm phúc nghe pháp liên tục như thế
suốt 7 ngày.Với tâm trạng hân hoan sau khi nghe pháp, vua nghĩ
rằng lần kết tập pháp tạng này chắc chắn sẽ thành công,
liền sai người ngăn đạo tràng ra thành hai khu vực a và b.
Những ai cùng một kiến giải thì ở chung một khu vực. Đồng
thời mỗi khu vực cử ra một vị đại diện để trả lời
những điều vua hỏi.
Thế
rồi, vua hỏi vị đại diện của một khu vực: "Thưa Đại
đức, Phật pháp như thế nào?". Họ bèn lao nhao lên. Có người
bảo là thường; có người bảo là đoạn; có người nói
là có tưởng, có người nói là không phải tưởng cũng không
phải không tưởng; có người nói là thế gian Niết bàn...".
Vua
nghe họ đáp lung tung như thế, biết chắc nhóm Tỳ kheo này
đích thực là ngoại đạo, chứ không phải Tỳ kheo chân chính.
Do đó, vua ra lệnh họ cởi bỏ pháp phục, ban cho y phục màu
trắng, và đuổi ra khỏi Tăng đoàn. Rồi vua sang khu vực của
6 vạn Tỳ kheo kia, lên tiếng hỏi vị đại diện: "Thưa Đại
đức, Phật pháp như thế nào?". Vị ấy đáp: "Thưa đại
vương, Đức Phật phân biện giảng dạy theo từng trình độ".
Quay sang trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Đế Tu, vua hỏi: "Có
đúng thế không, thưa Đại đức?". Trưởng lão đáp: "Đúng
thế, thưa đại vương".Biết Phật pháp đã được thanh tịnh,
vua bèn thỉnh cầu chư Tăng thuyết giới bố tát trở lại,
và sai người bảo vệ chúng Tăng rồi từ biệt, hồi loan.
Sau
khi vua rời khỏi đạo tràng, 6 vạn Tỳ kheo liền suy cử trưởng
lão Mục Kiền Liên Tử Đế Tu làm chủ tọa và tuyển chọn
999 Tỳ kheo tinh thông tam tạng, đã đắc tam minh,mở cuộc
đại hội kết tập pháp tạng. Thể thức kết tập lần này
giống hai lần trước, không khác gì cả.Do vậy, Phật pháp
trở lại thanh tịnh, mọi hỗn loạn, cấu uế đều được
dẹp trừ.
Đại
hội kết tập lần này trải qua 9 tháng thì hoàn tất, do trưởng
lão Mục Kiền Liên Tử Đế Tu làm chủ tọa, 999 vị Tỳ kheo
A la hán tham dự, nên gọi là cuộc kết tập của 1000 vị
La hán.
Sau
khi kết tập, trưởng lão Mục Kiền Liên Tử Đế Tu bèn soạn
ra luận thư để phản bác nghĩa lý của các phái ngoại đạo
đương thời. Đến khi biết mình sắp viên tịch, trưởng
lão bèn sai vị cao đồ là Đại đức Ma Sẩn Đà đem luật
tạng truyền sang nước Sư Tử (Srilanca:Tích Lan). Vâng lệnh
sư phụ, Đại đức Ma Sẩn Đà đem giáo pháp sang Tích Lan
truyền bá. Đến khi sắp viên tịch, Đại đức lại đem truyền
cho đệ tử là A Túc Tra (Arittha); A Túc Tra truyền cho đệ
tử là Đế Tu Đạt Đa (Tissadatta); Đế Tu truyền cho đệ
tử là Già La Tu Mạt Na (Kàlasumana); Già La Tu Mạt Na truyền
cho đệ tử là Địa Già Na (Dìghanàmaka); Địa Già Na truyền
cho Tu Mạt Na (Dìghasumana); Tu Mạt Na truyền cho Đàm Vô Đức
(Dhamarakkhita); Đàm Vô Đức truyền cho Đế Tu (Tissa); Đế
Tu truyền cho Đề Bà (Deva); Đề Bà truyền cho Tu Mạt Na (Sumana);
Tu Mạt Na truyền cho Chuyên Na Già (Cùlagàna); Chuyên Na Già
truyền cho Đàm Vô Ba Li (Dhammapàlinàma); Đàm Vô Ba Li truyền
cho Xí Ma (Khemanàma); Xí Ma truyền cho Ưu Ba Đế Tu (Upatissa);
Ưu Ba Đế Tu truyền cho Pháp Cự (?); Pháp Cự truyền cho A
Bà Gia (Abhaya); A Bà Gia truyền cho Tiểu Đề Bà (Cùladeva);
Tiểu Đề Bà truyền cho Tư bà (Sìva).
Đó
là các luận sư trí tuệ đệ nhất, thần thông vô ngại,
ái tận La hán, thầy trò truyền nhau, đến nay không dứt (Thiện
Kiến Luật Tỳ Bà Sa, quyển I,II ĐTK 24, tr 678b - 684).
Vài
điều ghi nhận
1.
Lý do kết tập: Vì các ngoại đạo trà trộn vào hàng ngũ
Tăng đoàn làm cho Tăng chúng bất hòa và Phật pháp trở nên
hỗn loạn, nên mới mở đại hội kết tập.
2.
Thời gian kết tập: Lần kết tập này diễn ra sau khi Phật
Niết Bàn 218 năm, tức trước Tây lịch 325 năm. Và công việc
được thực hiện trong thời gian 9 tháng.
3.
Địa điểm kết tập: Tại Viên Lâm (Uyỳana), thành Hoa Thị
(Pàtaliputta) nước Ma Kiệt Đà (Magadha).
4.
Vị chủ tọa cuộc kết tập: Trưởng lão Mục Kiền Liên
Tử Đế Tu (Moggaputta - Tissa).
5.
Số người tham dự kết tập: gồm 1000 vị A La Hán (kể cả
vị chủ tọa) đã chứng Tam minh, tinh thông Tam tạng.
6,
Người khởi xướng và bảo trợ cuộc kết tập: Hoàng đế
A Dục (sinh khoảng năm 350 trước Tây lịch).
7.
Giá trị của cuộc kết tập: hai lần kết tập thứ nhất
và thứ nhì sử Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền đều
có ghi chép, và đều công nhận. Nhưng lần kết tập thứ
ba này chỉ thấy ghi lại trong Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa
(bộ sớ giải Luật tạng của Nam truyền) và Đảo sử Tích
Lan.Còn thư tịch của Bắc truyền không ghi chép. Vì quan điểm
của Bắc truyền cho đây là sự kết tập của Bộ phái mà
thôi, nên không công nhận như một cuộc kết tập chính thức./.
LỊCH SỬ KẾT TẬP KINH LUẬT
LẦN THỨ TƯ
Thích Phước sơn
I-
Thuyết thứ nhất
Sau
Phật Niết bàn khoảng 400 năm, tại nước Kiền Đà La (Gandhàra)
có vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishca) trị vì, đất nước phú cường,
danh vang khắp nơi ,các nước xung quanh đều quy phục. Trong
những lúc rảnh rỗi việc triều đình, nhà vua thường đọc
kinh Phật. Mỗi ngày vua thỉnh một vị cao tăng vào cung thuyết
pháp. Nhưng vua thấy quan điểm mỗi người một khác, không
ai giống ai, nên rất băn khoăn, không biết làm sao để giải
tỏa. Vì vậy vua liền thỉnh giáo Hiếp Tôn Giả (Parsva), Hiếp
Tôn Giả liền thưa: " Tâu Đại vương, vì đức Như Lai nhập
diệt trải qua năm tháng đã lâu, các đệ tử thường dựa
theo quan điểm của thầy mình, có những nhận thức bất đồng,
do đó mà sinh ra mâu thuẫn với nhau".
vua
nghe nói thế rất lấy làm buồn lòng, trầm ngâm hồi lâu,
rồi bạch với tôn giả: "Trẫm nhờ hưởng được phúc đức
của tổ tiên, nên được kế thừa tông miếu, cai trị muôn
dân, nay tuy xả cách Thánh nhân (Phật), nhưng còn may mắn nếm
được pháp vị. Trẫm muốn quên sự hèn kém của mình, dốc
lòng thiệu long chánh pháp, mở đại hội kết tập pháp tạng
để thống nhất những quan điểm riêng của các bộ phái".
Hiếp
Tôn Giả tán thán: "Đại vương đã gieo trồng căn lành từ
đời trước, nên đời này đủ phước lộc, lại lưu tâm
đến Phật pháp,thực là hợp với nguyện vọng của bần
tăng". Thế rồi, vua truyền lệnh triệu tập các bậc thánh
triết xa gần. Nhận được sắc chỉ, các bậc minh triết
thông đạt tam tạng, những bậc hiền tài xuất chúng từ
bốn phương vân tập về kinh thành.Vua bèn thiết lễ cúng
dường suốt 7 ngày, và bàn kế hoạch mở đại hội kết
tập. Nhưng thấy số người khá đông đúc, sợ khó tránh
khỏi ô hợp, nên vua đem điều thao thức của mình trình lên
Tăng chúng rồi truyền lệnh: "Những vị nào đã chứng đắc
Thánh quả thì ở lại, những vị nào còn triền phược xin
hãy trở về chỗ cũ". Tuy vậy, chúng hội vẫn còn quá đông,
nên vua lại ra lệnh: "Các bậc vô học (chứng quả A la hán)
xin hãy ở lại,còn các bậc hữu học hãy ra về. Thế nhưng
số người vẫn còn nhiều, vì thế vua lại hạ lệnh: "Những
vị đầy đủ tam minh lục thông hãy ở lại, còn những vị
khác đều hãy trở về". Nhưng hội chúng vẫn còn đông, buộc
lòng vua phải hạ lệnh một lần cuối cùng: "Những ai đối
với nội giáo thì tinh thông Tam tạng, đối với ngoại điển
thì quán triệt ngũ minh, xin mời ở lại, còn những vị khác
xin hoan hỷ lui về trú xứ".
Chung
cục, sau bốn lần gạn lọc, số người còn lại tính được
499 người.Lúc ấy, nhà vua thấy trong nước mình hay mưa nắng
bất thường, sợ làm khổ nhọc các vị tôn túc, nên định
đưa hội chúng đến thành Vương Xá - nơi thạch thất mà
tôn giả Ca Diếp xưa kia đã kết tập giáo pháp - mở đại
hội kết tập.Nhưng Hiếp Tôn Giả cùng các vị tôn túc can
rằng: "Thưa Đại vương, không nên. Vì ở đó có nhiều ngoại
đạo, nhiều luận sư khác phái rất phức tạp. Chúng ta sẽ
phải bận rộn thù tiếp,giao tế với họ mất hết thì giờ,
ắt hẳn sẽ gây trở ngại công việc kết tập và soạn ra
luận giải. Hơn nữa, đại chúng giờ đây đều nhất trí
muốn thực hiện việc kết tập tại nước này. Vì đất
nước này ở bốn phía có núi non kiên cố,có thần Dược
Xoa gìn giữ, đất đai phì nhiêu , sản vật phong phú, là nơi
thánh hiền vân tập, các bậc thần tiên qua lại,và hiện
giờ Tăng chúng đang quy tụ tại đây". Sau khi nghe trình bày,
vua thấy hợp lý, nên chuẩn thuận đề nghị ấy.
Thế
rồi, vua truyền lệnh cho công nhân xây dựng lo thiết lập
già lam tại thành Ca Thấp Di La (Kasmira) để kết tập pháp
tạng.
Lúc
bấy giờ, các vị A la hán thấy tôn giả Thế Hữu (Vasumitra)
mặc y phục luộm thuộm, đang đứng trước hành lang, bèn
nói với tôn giả: "Ông chưa đoạn trừ kiết sử, nếu luận
nghị giáo pháp sẽ vấp phải sai lầm, vậy ông nên rời khỏi
đây mà đi nơi khác".
Thế
Hữu nói: "Nay chư hiền đối với chánh pháp không có điều
chi nghi ngờ, muốn thay Phật để tuyên dương nên mới tập
họp nơi đây mà luận bàn Phật pháp. Tôi tuy không được
thông tuệ, nhưng cũng hiểu giáo pháp ít nhiều, văn chương
u huyền của tam tạng và những lý luận khúc chiết của ngũ
minh cũng đã từng nghiên cứu và đạt được những ý thú
nhất định".
Các
vị A la hán nói: "Lời nói suông không có gì làm bằng chứng,
nếu vậy thì thầy hãy ẩn cư nơi vắng vẻ một thời gian,
lo tu tập gấp để chứng đạt quả vô học, rồi mới tham
dự cũng chưa muộn".
Thế
Hữu nói: " Tôi xem quả vô học cũng như đàm dãi, chí tôi
chỉ cầu Phật quả, chẳng thèm đi con đường nhỏ". Bèn
vò cái y rách ném đi.Khi chiếc y chưa rơi tới đất, thì tôn
giả (tuyên bố mình) chứng được thánh quả vô học.
Lúc
ấy, các vị A la hán lại khiển trách: "Kẻ Tăng thượng mạn
chính là người này đây. Quả vô học được chư Phật hết
lời tán thán, đâu có thể chứng đắc dễ dàng như thế?"
Muốn
cho mọi người hết mối ngờ vực, Thế Hữu bèn ném chiếc
y lên hư không, chư Thiên bèn tiếp lấy và cung kính thỉnh
cầu: "Tôn giả nên chứng Phật quả để sau này kế thừa
Đức Từ Thị (Di Lặc), làm bậc tôn quý nhất trong ba cõi,
và làm chỗ nương tựa cho bốn loài, chứ giờ đây tôn giả
chứng quả nhỏ làm chi?".
Bấy
giờ các vị A la hán thấy sự ly kỳ như thế bèn tạ lỗi,
và mời tôn giả tham gia đại hội kết tập cho đủ số 500
người. Đồng thời hội chúng suy cử Thế Hữu làm đệ nhất
và Hiếp Tôn Giả làm đệ nhị chủ tọa cuộc kết tập để
quyết đoán những ý kiến bất đồng của cử tọa.Những
vấn đề của kinh điển, sau khi được hội nghị thảo luận
và biểu quyết, bèn biên tập thành ba bộ luận, đó là:
1.
Bộ luận "Ưu Ba Đề Xá" gồm 10 vạn bài tụng, dùng để
giải thích Kinh tạng.
2.
Bộ luận "Tì Nại Da Tì Bà Sa" cũng gồm 10 vạn bài tụng,
để giải thích Luật tạng.
3.
Bộ luận " A Tì Đạt Ma Tì Bà Sa" cũng gồm 10 vạn bài tụng,
để giải thích Luận tạng.
Như
vậy cả ba bộ gồm 30 vạn bài tụng, chín trăm sáu mươi
vạn lời (9.600.000), giải thích đầy đủ ba tạng giáo điển.
Trong đó, không có chi tiết nào là không bàn bạc tận cùng,
không có chỗ sâu xa nào là không cứu xét rốt ráo. Những
nghĩa lý thâm u được làm cho sáng tỏ, những lời nói còn
mù mờ được làm cho rõ ràng. Thành quả này nhằm truyền
lại muôn đời cho hậu thế dùng làm cương lĩnh.
Kế
đến, vua Ca Nị Sắc Ca bèn sai thợ đúc đồng dùng đồng
đỏ dát thành lá mỏng, để chép luận văn, rồi đem cất
vào trong hang đá, xây thép lên trên để cúng dường. Vua lại
sai thần Dược Xoa phòng vệ khắp nước, không để cho ngoại
đạo mang bộ luận ấy ra khỏi lãnh thổ. Những ai muốn học
tập nó thì phải đến đó mà học .
Sau
khi xong việc, vua bèn thiết lễ trai tăng cúng dường rất
trọng hậu để chúc mừng đại hội kết tập vừa thành
công viên mãn (Đại Đường Tây Vức,quyển ba, Sa môn Biện
Cơ soạn tại chùa Từ Ân, ĐTK 51, ký hiệu 2087, tr 886b).
Tóm
tắt
1/
Lý do kết tập: vì chư Tăng của các bộ phái có những kiến
giải bất đồng về kinh điển,nên mới mở đại hội kết
tập.
2/
Thời gian kết tập: Khoảng 400 năm sau Phật Niết Bàn.
3/
Địa điểm kết tập: tại thành Ca Thấp Di La (Kasmira), tên
cũ gọi là Kế Tân, nước Kiền Đà La (Gandhàra) thuộc miền
Tây Bắc Ấn Độ.
4/
Vị chủ tọa cuộc kết tập: Tôn giả Thế Hữu (Vasumitra)
với sự trợ thủ của Hiếp Tôn Giả.
5/
Số người tham dự kết tập: 500 vị Hiền thánh (kể cả
vị chủ tọa) đã đạt địa vị vô lậu, tức quả A la hán.
6/
Người khởi xướng cuộc kết tập: vua Ca Nị Sắc Ca (Kanishka),
vị hộ pháp được xem là có công tương đương với hoàng
đế A Dục.
7/
Thành quả cuộc kết tập: Soạn ra ba bộ luận: kinh sớ, luật
sớ, và luận sớ, gồm ba mươi vạn bài tụng, 9.600.000 lời.
8/
Phương thức bảo quản: Vua ra sắc lệnh sai thần Dược Xoa
bảo vệ không cho ngoại đạo hay người nào mang bộ luận
này ra khỏi nước.
II-
Thuyết thứ hai
1.
Thời gian kết tập: Sau Phật Niết bàn 500 năm, và thời gian
biên tập xong các bộ luận kéo dài đến 12 năm.
2.
Địa điểm kết tập: Tại Kế Tân, tức Ca Thấp Di La (Kasmira)
3.
Vị chủ tọa cuộc kết tập: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử, và
Bồ tát Mã Minh chấp bút.
4.
Số người tham dự: 500 vị La hán và 500 vị Bồ tát.
5.
Thành quả: Soạn một bộ luận gồm 8 kiền độ (tức 8 phần),
đặt tên là Phát Tuệ luận (hay Phát Trí luận) gồm 5 vạn
bài kệ. Sau 12 năm mới hoàn thành, giả thích rộng rãi, gồm
thành 100 vạn bài kệ.
6.
Phương thức bảo quản: Các thánh giả dùng thần lực khiến
các thần linh bảo vệ không cho bất cứ một ai mang bộ luận
này ra khỏi nước (Bà Tẩu Bàn Đậu - Vasubandhu) pháp sư truyện,
Chân Đế đời Trần dịch, ĐTK 50, ký hiệu 2049, tr 189a).
III-
Thuyết thứ ba
1.Thời
gian kết tập: Vào thời vua Bà Tha Già Mã Ni (Vattagàmani) cai
trị Tích Lan (ước chừng 400 năm sau Phật nhập diệt (?).
2.
Địa điểm kết tập: tại thôn Mã Đặc Lê, phía Đông A
Lư Ca, nước Tích Lan.
3.
Vị chủ tọa cuộc kết tập: Thượng tọa La Hi Da Đại.
4.
Số người tham dự: 500 vị Tỳ kheo.
5.
Người khởi xướng và bảo trợ: Vua Ba Tha Già Mã Ni (Vattagàmani).
6.
Thành quả kết tập: Kỳ kết tập này đọc lại giáo điển
3 tạng của Thượng tọa bộ, hiệu đính lại những chú thích
của ba tạng, sắp xếp lại thứ tự của kinh điển, viết
một bộ Tam tạng bằng tiếng Pàli, và làm bản chú thích
bằng văn Tăng Già La (Tích Lan) (đảo sử Tích Lan, theo sự
dẫn lại của Phật Quang Đại từ điển, tr 5189a).
Vài
điều ghi nhận
- Thuyết
thứ nhất, tư liệu lấy từ Tây Vức ký, một tác phẩm viết
khá súc tích, khúc chiết và chặt chẽ, khá nổi tiếng, nhất
là về phương diện sử liệu. Do đó, gần như hầu hết các
học giả đều công nhận học thuyết này.
- Thuyết
thứ hai lấy từ Bà Tẩu Bàn Đậu pháp sư truyện. Văn của
tập truyện này viết chuệch choạc rời rạc, các dữ kiện
phần lớn không giống với Tây Vức ký. Tuy cũng được xem
là lần kết tập pháp tạng thứ tư, nhưng rất ít học giả
công nhận giá trị của nó.
- Thuyết
thứ ba, tư liệu còn ghi lại đầy đủ trong Đảo sử. Địa
điểm và thành phần tham dự hoàn toàn khác hẳn với cuộc
kết tập tại Ca Thấp Di La. Tuy vậy, các học giả đều công
nhận đây là lần kết tập thứ tư của Phật giáo Thượng
tọa bộ tại Tích Lan.
- Nếu
như nước Kiền Đà La hay miền Tây-Bắc Ấn Độ được xem
là cái nôi, là căn cứ địa mà Phật giáo đại thừa thai
nghén và phát triển, rồi từ đó truyền sang các nước thì
trái lại, Tích Lan chính là trung tâm của Phật giáo của các
nước khác trong vùng.
- Thời
điểm vua Ca Nị Sắc Ca ra đời có tới 5 mảng tư liệu đề
cập đến, xê dịch từ 300 đến 700 năm, nhưng chỉ có thuyết
cho rằng ông ra đời vào khoảng 400 năm sau Phật nhập diệt,
là được các học giả đồng tình hơn hết (Xem thêm Phật
Quang đại từ điển, tr.3976b).
LỊCH SỬ KẾT TẬP KINH LUẬT
LẦN THỨ NĂM VÀ SÁU
Thích Phước sơn