Những
lời của Đức Phật có nghĩa rằng ngay cả nếu một giáo thuyết nào được kết
tập trong những kinh điển của Phật , chúng ta phải thể nghiệm để quyết
định hoặc là chúng có bị sai lạc bởi lý do nào hay không. Nếu có sự sai
lạc bởi phương cách tranh luận, nó không thích hợp để xác quyết sự uyên
bác xuyên suốt theo chữ nghĩa.
Giả
sử rằng điều gì ấy có thể chứng minh rõ ràng qua sự khảo sát khoa học.
Rằng một giả thuyết nào đấy được thẩm tra và xác minh hay một sự việc
nào đấy cho thấy như một kết quả của sự khảo sát khoa học. Và hơn thế
nữa, giả sử rằng sự việc ấy là không phù hợp với giáo nghĩa đạo Phật.
Không nghi ngờ gì nữa mà chúng ta phải chấp nhận kết quả của sự nghiên
cứu khoa học. Chúng ta thấy đấy, vị thế phổ biến của Phật giáo là chúng
ta luôn luôn chấp nhận sự thật. Đơn thuần suy đoán không thôi dựa vào
căn bản kinh nghiệm, khi điều như thế là có thể xảy ra, sẽ không có kết
quả. Vì vậy nếu một giả thuyết đã từng được thử nghiệm, và đã từng được
thấy là chắc chắn một trăm phần trăm, thế thì đấy là điều mà chúng ta
phải chấp nhận.
Chúng
tôi nghĩ quan điểm này là cốt lõi chính yếu của tư duy Phật giáo. Nó
là thái độ phổ quát của Phật giáo. Những người Phật tử tin tưởng ở sự
tái sinh. Nhưng giả sử rằng qua những phương tiện khảo nghiệm khác
nhau, một ngày nào đấy khoa học đi đến một kết luận xác định rằng không
có sự tái sinh. Nếu điều này được chứng minh một cách xác định rõ ràng,
thế thì chúng ta phải chấp nó và chúng ta sẽ chấp nhận nó. Đây là ý
tưởng phổ quát của Phật giáo. Thế thì dường như phương pháp khoa học
hiệu quả hơn và năng động hơn! Nhưng dĩ nhiên chúng ta biết rằng cũng
có một giới hạn của phương pháp này.
Một
cách căn bản, thái độ của Phật giáo trên bất cứ đối tượng nào phải là
một mà nó phù hợp với những sự thật. Nếu, trên sự khảo nghiệm, chúng
ta thấy rằng nó hợp lý hay có chứng cớ cho một quan điểm, thế thì chúng
ta nên chấp nhận nó. Điều ấy không phải nói rằng không có những điểm
nào đấy mà chúng vượt ngoài khả năng của con người về lý luận suy diễn –
đấy là một vấn đề khác. Nhưng những vấn đề chẳng hạn như kích thước
hay tọa độ của mặt trăng và những ngôi sao là những thứ mà tâm tư đầu óc
con người có thể biết được. Trên những vấn đề này, thật quan trọng để
chấp nhận sự thật, trạng huống thực tế, cho dù chúng là gì đi nữa.
Khi
chúng ta khảo nghiệm những sự diễn tả nào đấy như chúng hiện diện
trong kinh luận của chúng ta, chúng ta thấy rằng chúng không phù hợp với
thực tế. Trong trường hợp như thế, chúng ta phải chấp nhận thực tế, và
không phải là sự giải thích của chữ nghĩa trong kinh điển. Điều này
phải nên là một thái độ căn bản.
Lý
do nào cho sự trình bày những chủ đề trong chi tiết bao quát như thế?
Cội rể của khổ đau đến từ năng lực của vô minh si ám, và sự tàn phá của
vô minh được dẫn đến bởi tích trí (trí tuệ phân tích của hàng thanh
văn). Chúng tôi sẽ đưa ra một phác thảo ngắn gọn về hệ thống của luận
lý học Phật giáo. Trong những dạng thức của phương cách mà tích trí
nghiên cứu hay khảo nghiệm những đối tượng của nó, có sáu cách thức để
nghiên cứu hay khảo nghiệm, được hoàn thành với mục tiêu cuối cùng trừ
tiệt khổ đau.
1- Trước tiên là nghiên cứu ý nghĩa của những từ ngữ, đấy là, khảo nghiệm ý nghĩa từng chữ một.
2- Thứ hai là nghiên cứu những hiện trạng của những sự việc trong dạng thức chúng là nội tại hay ngoại tại.
3- Thứ ba là nghiên cứu đặc điểm của hiện tượng – đặc điểm cá thể, chi tiết của chúng và đặc điểm tổng quát của chúng.
4-
Thứ tư là nghiên cứu mức độ của hiện tượng trong dạng thức nơi mà những
phẩm chất thích hợp và không thích hợp thể hiện hay ẩn chứa.
5- Thứ năm là là nghiên cứu thời gian, bởi vì sự chuyển biến hiện tượng phụ thuộc vào thời gian.
6- Thứ sáu là nghiên cứu sự suy luận, trong điều này có bốn loại:
>
a- Suy luận về sự phụ thuộc: những tác động ấy lệ thuộc trên những nguyên nhân.
b- Suy luận về sự biểu lộ của chức năng: thí dụ, lửa biểu hiện chức
năng của đốt cháy hay nước biểu hiện chức năng của việc làm ẩm ướt.
c- Suy luận về tính tự nhiên: đấy là mỗi hiện tượng có tính tự nhiên
của nó; thí dụ, lửa có tính tự nhiên của hơi nóng và nước có tính tự
nhiên của ẩm ướt.
d- Suy luận về giá trị tổ chức hay cấu thành: không mâu thuẫn đối kháng với sự nhận thức và liên hệ trực tiếp.
>
Nhận thức về giá trị có hai loại, nhận thức giá trị trực tiếp và suy luận. Nhận thức giá trị suy luận có ba hình thức:
1- Suy luận bởi năng lực của sự việc.
2- Suy luận qua tiếng tăm.
3- Suy luận qua kinh điển bằng phương thức của có thể tin được.
Căn
bản cho phát sinh một ý thức suy luận là một dấu hiệu hợp lý. Điều
quan trọng của những dấu hiệu hợp lý hay lý trí là qua sự việc mà một ý
thức suy luận là sự tìm ra một đối tượng – thông thường ấn dấu đến nhận
thức trực tiếp – trong sự phụ thuộc trên dấu hiện đúng đắn, không sai
lầm. Những bậc thầy của luận lý học – Trần Na, Pháp Xứng, .v.v… - đã
trước tác những trình bày về những loại lý trí trong những phương pháp
rất chi tiết.
Một dấu hiệu đúng hay lý trí là một kiểu mẫu ba chiều, ngắn gọn nó có nghĩa là:
1- Dấu hiệu được cấu thành như hiện diện môt quyền sở hữu của đối tượng.
2- Sự thâm nhập cùng khắp được cấu thành.
3- Sự đối lập tỏa khắp được hình thành.
Một
dấu hiệu đúng như thế được hiện diện từ nhiều quan điểm khác nhau.
Trong dạng thức của tổng thể toàn bộ, những dấu hiệu đúng là có ba loại:
1- Những dấu hiệu là những tác động (từ sự hiện diện mà sự tồn tại của những nguyên nhân có thể được kết luận).
2-
Những dấu hiệu giống nhau hay đơn điệu của tự nhiên tính (như trong
trường hợp được chứng minh điều gì ấy là một cây bời vì sự hiện hữu là
một cây sồi).
3-
Những dấu hiệu không có khả năng quán sát (như trong trường hợp được
chứng minh sự vắng mặt của điều gì ấy qua sự sở hữu của nó không được
nhận thức mặc dù đấy đủ những điều kiện cho sự nhận thức của nó nếu nó
hiện diện).
Trong một cách khác, khi những dấu hiệu đúng được phân chia thành những
hình thức của sự xác nhận sự tồn được minh chứng, thì có hai loại: 1-
Những dấu hiệu tích cực của hiện tượng, và 2- Những dấu hiệu tiêu cực
của hiện tượng. Rồi thì, trong hình thức của những nhóm mà chứng cứ
trực tiếp chỉ đến họ, có những dấu hiệu đúng trên duyên cớ mục tiêu của
chính một người – chúng minh điều gì ấy đến chính mình qua những lý do –
và những dấu hiệu đúng trên duyên cớ của mục tiêu của người khác –
chứng minh điều gì ấy đến một người khác. Thế thì, những hình thức kiểu
mẫu của chứng cớ thì có năm điều:
1-
Những dấu hiệu chứng minh tập quán (hay sự thỏa thuận) – điều ấy nói
rằng, quý vị đã biết ý nghĩa rồi nhưng cần biết tên (danh tính).
2- Những dấu hiệu chứng minh những ý nghĩa.
3- Những dấu hiệu chứng minh đơn thuần về tập quán (hay sự thỏa thuận).
4- Những dấu hiệu chứng minh đơn thuần ý nghĩa.
5- Những dấu hiệu chứng minh cả ý nghĩa và tập quán (hay sự thỏa thuận).
Tất
cả những điều này được bao gồm trong những dấu hiệu mà đấy là những tác
động, những dấu hiệu của sự giống nhau tự nhiên, và những dấu hiệu
không thể quán sát, kiểu mẫu thứ nhất của sự phân chia bởi phương pháp
toàn bộ tổng thể. Liên hệ đến thời gian, trạng huống, và con người đặc
thù cho ai đấy người đang phát biểu một lý do, người phát biểu một dấu
hiệu tác động, một dấu hiệu tự nhiên, hay một dấu hiệ không thể quán
sát.
Mỗi
thứ này trong ba sự phân chia bởi phương pháp toàn bộ tổng thể cũng có
nhiều sự phân chia nhỏ nữa. Thí dụ, những dấu hiệu tác động có năm
loại: 1- những thứ minh chứng một nguyên nhân thực sự, 2- những nguyên
nhân trước, 3- một nguyên nhân tổng quát, 4- một nguyên nhân đặc thù,
và 5- một dấu hiệu tác động đúng, đấy là một ý nghĩa của sự liên hệ nhân
quả thuộc tính. Tương tự như thế, trong những dấu hiệu không thể quán
sát, có những dấu hiệu không thể quán sát của sự không xuất hiện và
những dấu hiệu đúng , những điều không thể quán sát của điều thích hợp
để xuất hiện nếu chúng hiện diện. Đây là những dự phân chia xa hơn
trong mưởi một loại, một số học giả ngay cả làm thành hai mươi lăm loại,
những thứ không thể quán sát như thế của một đối tượng liên hệ, sự
không thể quán sát của một nguyên nhân, hay quan sát về một đối tượng
tương phản.
Trong
sáu kiểu mẫu khảo sát, điều cuối cùng nghiên cứu của suy luận điều ,
như đã đề cập ở trên, được phân chia thành bốn loại. Dường như sự khảo
sát khoa học hầu như tiến hành trên ba cách của những điều này
1- Tranh luận về tính tự nhiên, trong điều mà đặc tính căn bản của một đối tượng được nghiên cứu.
2- Tranh luận về sự biểu hiện của chức năng, trong điều mà những
chức năng mà một đối tượng biểu hiện căn cứ trên sự hiện hữu một tính tự
nhiên nào đấy được nghiên cứu.
3- Tranh luận về sự phụ thuộc, trong điều mà những đối tượng lệ thuộc được nghiên cứu.
Những
điều này dường như là những kiều mẫu căn bản của tiến trình khoa học.
Vì thế, dường như rằng sáu loại khảo sát bao trùm tất cả những sự nghiên
cứu của cả khoa học và tâm linh. Chúng tôi tin rằng sự nghiên cứu và
phát triển khoa học nên cùng hành động với sự nghiên cứu và phát triển
thiền quán vì cả hai cùng quan tâm trên những đối tượng giống nhau. Một
bên hành động qua thí nghiệm bởi những khí cụ, và phía kia, qua những
kinh nghiệm nội tại và thiền quán. Sự phân biệt rõ ràng nên được làm
giữa điều gì không tìm thấy bởi khoa học và điều gì điều gì được tìm
thấy là không tồn tại bởi khoa học. Điều gì khoa học tìm thấy là không
tồn tại, Phật học tất yếu phải chấp nhận như không tồn tại, nhưng những
gì khoa học đơn thuần không tìm thấy là một vấn đề hoàn toàn khác
nhau. Thật rất rõ ràng rằng có rất nhiều, rất nhiều những sự kiện, sự
vật huyền bí. Giác quan của con người nắm bắt đến một trình độ nào đấy,
nhưng chúng ta không thể nói rằng không có điều gì ngoài tầm nhận thức
tức là ngoài những gì chúng ta nắm bắt với năm giác quan. Ngay cả
những gì mà ông bà chúng ta không nhận thức với năm giác quan của họ,
ngày nay chúng ta đang tìm với những giác quan của chúng ta. Vì thế,
ngay cả trong những hiện tượng vật lý với hình tướng và màu sắc, v.v…,
những thứ ấy mà chúng ta có thể nhận thức bằng năm giác quan, có nhiều
thứ mà bây giờ chúng ta không hiểu, sẽ được hiểu trong tương lai.
Với
mối quan hệ tới những lĩnh vực khác như tâm thức (tâm-ý- thức), mặc dù
chúng sinh, bao gồm cả con người, có kinh nghiệm về ý thức qua hằng bao
thế kỷ, chúng ta vẫn không biết tâm thức thật sự là gì – chức năng của
nó, tình hoàn toàn tự nhiên của nó. Những thứ như thế - không hình,
không tướng, và không màu sắc - là trong một phạm trù của hiện tượng mà
không thể được hiểu trong phương cách của những hiện tượng ngoại tại
được khảo sát.
Quan
điểm của Phật giáo về tâm thức rất phức tạp và chi tiết. Định nghĩa
của Phật giáo về tâm-ý- thức là điều trong sáng và hiểu biết. Để xúc
tiến một sự đa dạng về sự hiểu biết và nhận thức với sự liên hệ với tâm
thức (tâm-ý- thức), nó được phân chia thành nhiều khái niệm khác nhau.
Dường
như mặc dù vật lý học hiện đại chấp nhận một loại hạt căn bản vô thể
chất. Một thứ bắt đầu với hình thể vật lý mà có thể thấy bằng mắt và
phân tích nó, sự phân chia nó xa hơn và phân chia thêm nữa qua thí
nghiệm. Nó cuối cùng được nói là một thực thể tồn tại mà không thể phân
chia được nữa và được nói là vô thể chất. Khi nó có thể phân chia nhỏ
ra được nữa, nó được nói là có những bộ phận (hay những phần), và một
khi nó đến một giới hạn của tính chia chẻ, sự tồn tại ấy được gọi là vô
thể chất.
Phật
giáo đề cập đến vô thể chất, hay sự phản bác của nó, không là gì mà
thật sự là căn cứ trên sự thể nghiệm. Phật giáo luận bàn về chủ đề này
không phải thông qua trên kinh nghiệm chia chẻ phân tích vấn đề thành
những phần khác nhau. Nó là để thay thế một sự luận bàn lý thuyết
suông của sự có có thể của không gian hay chiều kích vô thể chất mà
chúng ta thiết lập. Trong sự quan tâm đến tâm thức nó chẳng phải là
không gian vô thể chất mà đã được bàn tới (bởi vì tâm thức không phải
là vật chất và vì thế không thuộc về không gian) mà thuộc về vô thể chất
thời gian. Vì thế, trong sự bàn luận về vô thể chất, “những phần” hiện
hữu liên hệ trong kinh luận Phật giáo không phải được trắc nghiệm dựa
theo kinh nghiệm phân tích chia chẻ chi li riêng biệt. Thay vì thế,
những thành tố vật chất được phân chia thành những phần không gian và
tâm thức được phân chia thành những phần thời gian, trong một phương
thức có tính chất lý thuyết và trừu tượng hoàn toàn.
HỎI: Xin cho thí dụ về những hiện tượng mà khoa học không thể tìm thấy.
ĐÁP:
Tâm thức (tâm-ý-thức) chính nó. Mỗi thời khắc chúng ta có nhiều trình
độ tâm-ý-thức khác nhau – thô thiển và vi tế. Đừng nghĩ đến trình độ
vi tế của tâm thức, thật rất khó khăn để nhận ra ngay cả ở trình độ thô
thiển.
HỎI:
Nếu tâm thức hơn là bộ não hay một hiện tượng vật chất tại sao tư duy
có thể vị thay đổi hay kiểm soát hay khống chế qua việc dùng y dược hay
quan sự kích thích bộ não?
ĐÁP:
Có nhiều loại khác nhau của nhận thức hay tâm thức. Những thứ nào đấy
liên hệ rất nhiều đến cấp độ vật lý. Thí dụ, cái thấy của con mắt chúng
ta hiện tại (nhãn thức) phụ thuộc trên con mắt vật chất (nhãn căn); vì
thế, nếu điều gì ấy xảy ra trên con mắt vật chất (nhãn căn), cái thấy
(nhãn thức) không thể hoạt động một cách bình thường, và nếu con mắt bị
lấy đi, cái thấy (nhãn thức) không thể tồn tại, trừ khi một cơ quan cảm
giác được cấy ghép.
Trong
bất cứ trường hợp nào, những tâm thức nào đấy rất liên hệ rất nhiều đến
những giác quan và tế bào não hiện diện; những tâm thức này có thể được
khống chế qua giải phẫu trên não bộ hay qua những phương pháp điện
tử. Tuy nhiên, những trường hợp vi tế hơn của tâm thức thì độc lập hơn
với thân thể vật lý; vì thế những nhận thức này thì khó bị ảnh hưởng
qua những phương pháp vật lý.
HỎI:
Ngài có nghĩ rằng chúng tôi ở phương Tây phải học hỏi để mang những
phương pháp khảo sát của tâm linh và khoa học hợp tác với nhau nhầm mục
đích để ngăn ngừa tổn hại đến con người không?
ĐÁP:
Nếu chúng ta chỉ tập trung sự phát triển trên khoa học mà chính mình
không quan tâm đến sự phát triển tâm linh – nếu chúng ta mất đi sự cảm
nhận ý nghĩa giá trị của loài người – nó sẽ là hiểm họa. Cuối cùng,
khuynh hướng của chính tiến trình khoa học là làm lợi ích cho con
người. Nếu sự phát triển khoa học đi sai lạc và đem đến nhiều khổ đau
và thảm họa hơn cho con người, điều này thật bất hạnh. Chúng tôi tin
rằng sự phát triển tinh thần và vật chất phải đi song song với nhau.
Trong
thế kỷ này, khi sự thông minh của con người đã được làm quá phong phú
bởi những kiến thức mới bắt nguồn từ những khám phá khoa học quan trọng,
một cách may mắn từ một khuynh hướng mới đang hiện lên. Con người
trong những nguyên tắc khoa học đang tiếp nhận một sự hấp dẫn mới mẻ
trong những nhận thức tâm linh và đạo đức và được chuẩn bị để nhận định
lại những thái độ của họ liên hệ đến sự phát triển tâm linh nhầm mục
tiêu đạt đến một quan điểm hoàn toàn hơn về đời sống và thế giới. Đặc
biệt, có mọt sự hấp dẫn lớn mạnh trong cộng đồng khoa học đối với tư duy
triết lý Phật giáo. Chúng tôi lạc quan rằng qua vài thập niên tới sẽ
có một sự thay đổi lớn trong quan niệm thế giới cả từ nhận thức vật chất
và tâm linh.
HỎI:
Phật giáo có quá nhiều kiến thức và hiểu biết về tâm thức nhưng ở
phương Tây chúng tôi có quá ít. Ngài có nghĩ rằng tâm thức sẽ là lãnh
vực kế tiếp cho những khoa học gia phương Tây khám phá không?
ĐÁP:
Chúng tôi tin rằng khoa học phương Tây sẽ phát triển một quan điểm tổng
hợp hơn về nhiều ngành khác nhau của nó… tâm lý học, sinh vật học, và
vật lý học. Nó sẽ tìm thấy một sự nối kết, một sự liên hệ giữa những
lĩnh vực này của kinh nghiệm. Trong quá khứ sự phát triển của khoa học
và tâm linh hay tinh thần coi như riêng biệt với nhau, như hai con đường
khác nhau dẫn đến những hướng đối lập nhau. Nhưng bây giờ, vào cuối
thế kỷ hai mươi, quan điểm này đang bắt đầu thay đổi.
Newport Beach, CA, 08 tháng mười 1989
“Những
trình bày của những khoa học gia tri thức…, thì khác biệt bởi sự chú ý
cực kỳ gần gũi được đề cập đến bởi Đức Dalai Lama và bởi sự hiểu biết
sắc sảo trực giác của Ngài về khoa học. Thời gian trôi qua và một lần
nữa Ngài biết trước dòng chảy của sự hợp lý hay thí nghiệm.”
- Giáo sư Newcomb Greenleaf
Đối
với những ai đã từng quan sát Đức Dalai Lama qua những năm tháng, sự
tham dự mạnh mẻ của Ngài trong những hội nghị với những nhà thần kinh
học đã diễn ra mà chẳng có gì phải ngạc nhiên. Người đoạt giả Nobel hòa
bình năm 1989 đã minh chứng từ lâu một sự hấp dẫn trong những việc khoa
học – một cách đặc biệt trong điểm gặp giữa khoa học và Phật giáo.
Mới
đây Ngài đã tham dự một hội nghị về Tâm thức và Đời sống ở Newport
Beach, California, với những nhà tâm lý học đến từ trường Y Dược Harvard
và những nhà thần kinh học nổi tiếng kể cả Lewes L. Judd, Giám đốc Học
viện Quốc gia về Sức khỏe Tinh thần. Những chủ đề sắp xếp từ sự quên và
ký ức đến giấc mộng trong sáng minh mẫn. Mặc dù những sự trình bày
được thực hiện bởi những người phương Tây, những khoa học gia đã làm rõ
rằng họ tập họp tại hội nghị như một cơ hội để học hỏi từ Tây Tạng.
“Đây là một hệ thống cổ xưa với một sự thấu hiểu cực kỳ tinh tế về tâm
thức mà có thể có những điều để nói với chúng tôi,” bình luận của Lary
R. Squire của trường Đại học California, San Diago.
Hai
năm trước đây một hội nghị lần đầu tiên của Tâm thức và Đời sống được
diễn ra tại Dharamsala, nơi đặt chính phủ Tây Tạng lưu vong ở
Hymalaya. Có một nhóm những nhà khoa học dành một tuần tập trung cao
độ với lãnh tụ Tây Tạng, thảo luận những vấn đề về khoa học nhận thức –
từ sự thông minh không tự nhiên đến phân tử hóa sinh học.
Rằng
Ngài đã được giải Nobel hòa bình như một tặng phẩm đến khả năng của vị
Dalai Lama phục vụ như một cây cầu giữa những nhóm khác nhau. Trong
những sự bàn thảo của Ngài tại hội nghị với những nhà thần kinh học, vị
lãnh tụ vĩ đại này của thế giới đã biểu lộ rằng Ngài hành động không chỉ
như một cây cầu giữa những quan điểm khác nhau, nhưng cũng như một nhà
tổng hợp tất cả những thứ ấy.
REASON, SCIENCE AND SPIRITUAL VALUES
Trích từ quyển “The Dalai Lama A Policy of Kindness”