Thí
dụ khi hạn hán mất mùa, họ nghĩ là vì ông thần đất đai giận nên phải 
hối lộ ông ta bằng cách cúng kiến mới có được trời mưa. Mới đầu thì tế 
lễ bằng con gà không có hiệu quả, rồi đến con bò, đến khi sự cuồng tín 
lên cao có thể dẫn đến giết một em bé hay một trinh nữ để tế thần như 
dân tộc Incas đã từng làm. Ngoài ra trong cuộc sống hàng ngày đi đứng 
làm cái gì quan trọng thì phải coi ngày giờ tốt như vậy để tránh cái sợ 
hãi của những điều xấu xảy ra bất thần chớ không hẳn là tránh được những
điều xấu. Nếu quả thật có như vậy thì thế giới này không có sự đau khổ 
vì mọi sự đều như ý con người muốn. Ông vua dù có mướn thầy địa lý giỏi 
nhất nước để xây cung điện nhưng nếu không thương dân, lấy thuế cắt cổ, 
lúc hết thời thì ngai vàng vẫn bị mất như thường. Nói về hành động cá 
nhân, nếu không nhận thức có luật nhân quả thì không có gì ngăn cản con 
người làm việc ác miễn sao trốn tránh được cặp mắt của luật pháp là 
được, cho nên xã hội rất bấp bênh. Nếu vua và dân hiểu được luật nhân 
quả thì đất nước dễ thanh bình và dân sẽ được hạnh phúc.
Khi
Đức Phật giác ngộ thì Ngài nhận ra luật nhân quả là nền tảng của thế 
giới tâm linh và vật chất. Mọi hiện tượng từ tâm lý đến vật chất đều có 
những sự liên quan vô hình rất chặt chẽ, đó là luật nhân quả. Luật nhân 
quả là sợi dây vô hình nối liền hai biến cố xuyên qua thời gian và không
gian. Cho nên khi hiểu luật nhân quả, ta có thể thay đổi biến cố đó 
theo chiều thuận cho ta, thay vì phải lo sợ hối lộ hoặc cầu khẩn một vị 
thần linh tưởng tượng nào đó phù hộ cho ta hoặc thỏa mãn điều ta mong 
ước. Sự mê tín cuối cùng sẽ đưa đến sự thất vọng và mặc cảm tội lỗi(ta 
có tội nặng quá vị thần không giúp được).
 

Luật
nhân quả rất đơn giản, nếu muốn có một kết quả tốt thì ta phải tạo nhân
lành. Thí dụ như khi ta nuôi dưỡng một ý nghĩ hận thù thì ta không thể 
vui cười hồn nhiên được. Khi ta gạt gẫm người khác thì tối về ngủ không 
yên giấc vì sợ bị phát hiện. Khi ta gieo hạt lúa thì không bao giờ được 
cây cổ thụ. Khi con người bắt đầu hiểu được như vậy thì họ lấy về được 
một phần sức mạnh của những vị thần linh. Họ bắt đầu làm chủ được tương 
lai của họ và lấy lại định mệnh của họ từ tay các vị thần. Hiểu và tin 
được luật nhân quả là một cuộc cách mạng tâm linh (spiritual revolution)
vì sự nhận thức đó sẽ phá tan gông cùm của sự mê tín và giúp con người 
làm chủ được cuộc sống của họ.
Luật Nhân quả và khái niệm không gian thời gian.
Khi đi từ thế giới tâm linh qua thế giới vật chất thì sự thể hiện của 
luật nhân quả thay đổi từ rõ đến mờ. Sự thể nghiệm ở thế giới tâm linh 
rất nhanh và rõ nhưng khi qua cái màn nặng nề của thế giới vật chất thì 
luật nhân quả bị loãng ra vì phải trải qua nhiều thời gian mới hiện ra 
rõ được. Cũng vì thế mà khi con mắt bị vậït chất làm mờ rồi rất khó mà 
nhận thức luật nhân quả. Thí dụ như kẻ trộm thành công một vài lần rất 
khó nhận thức rằng mình sớm muộn gì sẽ vào tù. Nếu kẻ trộm đó nhận thức 
rằng mình cần phải thay đổi lòng tham của mình (thế giới tâm lý) thì 
trong tức khắc có khả năng thay đổi được chiều hướng cuộc sống mình bằng
cách học nghề và làm ăn lương thiện. Ngược lại nếu anh ta cứ tiếp tục 
hành nghề bất lương, lòng tham càng lớn và ăn trộm càng táo bạo hơn, thì
một thời gian sau đó anh bị bắt vào tù và sẽ hối hận (thế giới vật 
chất). Như vậy khi nhận thức ở tâm linh thì chuyển nghiệp (karma) rất 
nhanh, đợi khi nó thể hiện ở cõi vật chất rồi thì cái thời gian thay đổi
rất chặm chạp, khó khăn, phức tạp và khổ sở. Với đời sống con người có 
giới hạn thời gian, sự nhận thức có được khi hoàn cảnh xấu xảy ra đôi 
lúc quá trễ. Con người có thể không còn đủ thời giờ để cải thiện. Ngoài 
ra khi họ tiến quá sâu trong hoàn cảnh xấu, trở lại điểm ban đầu rất là 
gian nan. Thí dụ như anh trộm khi ra tù muốn học lại thì tuổi cao, kiến 
thức đổi khác nhiều, bạn bè cùng lứa đã có sự nghiệp thành công hết. Anh
ta phải khuất phục sự chậm chạp của tuổi cao và lòng mặc cảm để đi học 
lại. Mặc dù như thế, anh ta sẽ khó mà ngang hàng với các bạn được vì mất
khoảng thời gian quá lâu trong tù.
Khi hiểu được luật nhân quả thì câu hỏi có định mệnh (destiny) hay 
không là tùy nơi con người. Định mệnh có thật khi ta để lực (force) nhân
quả lôi cuốn và thụ động để cái nhân ở tâm lý biến thành cái quả ở thế 
giới vật chất. Định mệnh không có khi ta chủ động biến chuyển những tư 
tưởng (nhân) xấu thành tốt và theo đó diễn biến (quả) tốt lành sẽ đến 
với ta. Đôi lúc cái nhận thức nhân quả ở thế giới vật chất rất khó khăn 
vì có người làm lành mà sao lại gặp ác, rồi họ đâm ra chán nản và cho 
rằng không có luật nhân quả. Sở dĩ như vậy vì con mắt phàm không thể 
nhìn thấu được quá khứ và không hiểu được những khúc mắc của nghiệp. 
Nhưng nếu có người nào đó giữ được tâm hồn tha thứ buông xả thì mặc dù 
biến cố xấu đến với họ đó, nhưng cái tác động trên tâm lý tạo sự đau khổ
giảm đi rất nhiều. Thì đó chẳng qua là một điều lành trong một biến cố 
dữ. Hiểu được luật nhân quả ở tâm thì ta nhận thức rõ hơn và ta sẽ thấy 
sự thay đổi nhanh hơn.
Nhân-duyên-quả 
Nghiệp (karma) là những biến cố vui buồn xảy ra trong đời người. 
Nghiệp, dòng sông nhân quả trong cuộc đời con người, rất là phức tạp. 
Nghiêäp không phải đơn giản như một cái máy, ta bấm nút (nhân) thì máy 
hoạt động (quả). Nghiệp có thể ví như một dòng sông và nhân quả là những
phân tử (molecule) nước lưu chuyển, tác động lẫn nhau trong dòng sông 
đó. Ngoài nhân-quả ra còn yếu tố duyên nửa. Duyên là những yếu tố ở 
không gian và thời gian giúp nhân trở thành quả hoặc ngược lại ngăn cảng
hoặc đình trệ sự nối liền của nhân quả, làm giảm sức mạnh của quả. Sự 
sống đa dạng và sáng tạo là nhờ duyên. Như vậy duyên đóng vai trò điều 
chỉnh (modulation) nhân-quả. Thí dụ dễ hiểu là khi ta gieo hạt lúa 
(nhân) trong đồng ruộng ẩm ướt phì nhiêu (duyên) vài tháng ta sẽ có 
những cọng lúa xanh mượt (quả). Nếu có người lữ hành băng qua sa mạc và 
làm rơi một hạt lúa thì ngàn năm sau hạt lúa đó vẫn là hạt lúa (nghịch 
duyên). Nếu hạt lúa đó được gió thổi rơi vào một nơi ẩm ướt trên sa mạc 
thì hạt lúa sẽ mọc thành cọng lúa nhưng rất yếu ớt vì thiếu phân bón. 
Như thế ta thấy rằng cùng một nhân, qua nhiều duyên khác nhau sẽ cho ta 
kết quả khác nhau. Thực tế nhân quả không đơn giản như trên mà hoạt động
như một mạng lưới nhện (web).
 

Một
nhân có thể là khởi đầu của một chuỗi phản ứng (chain of events). Những
yếu tố duyên tác động lên chuổi phản ứng đó để cho ra nhiều kết quả ở 
nhiều từng lớp khác nhau. Thí dụ: Có một người vì lòng tham (nhân) phá 
rừng bán gỗ làm lợi nhuận cho riêng mình. Trời mưa, không có rễ cây hút 
nước (duyên) nên tạo thành lụt (quả), loài chim mất môi sinh (duyên) dời
đi nơi khác (quả). Không có chim ăn (duyên) nên sâu bọ lan tràn đồng 
ruộng (quả). Không có cây hút thán khí (CO²) nên từ đó khí hậu bị ô 
nhiễm. Một nhân thiếu sáng suốt sẽ gây ra rất nhiều hậu quả tai hại về 
sau mà ta khó có thể lường trước được.
Giới luật là nhằm biến đổi cái duyên để cho cái nhân tham, sân và si 
không có cơ hội để biến thành quả dữ (tham-ăn trộm, sân-giết chóc, 
si-đau khổ). Xuất gia là tránh xa những duyên có thể dẫn đếøn quả dữ và 
gần gũi với những duyên khuyến khích quả lành được biểu hiện. Tuy nhiên 
thay đổi duyên ở thế giới vật chất không bền vững lắm. Thí dụ lòng tham 
tiền có thể biến thành tham chùa mình được đẹp nhứt, sân (giận) có thể 
biến thành bực bội khi đệ tử quên chấp tay xá mình, và si là chấp vào 
thời gian tụng kinh mà không hiểu ý kinh tạo ra sự tranh chấp hơn thua. 
Cho nên vào cảnh tịnh mà còn giữ mầm mống tham, sân, si thì cảnh tịnh đó
sẽ trở nện cảnh ưu phiền.
Thiền tông chú trọng đến cái duyên ở tâm là tư tưởng. Tham, sân, si mà 
không có tư tưởng để nuôi dưỡng chúng thì dần dần sẽ tự tiêu mòn. Cho 
nên giữ giới nơi tâm thì hiệu nghiệm hơn là giữ ở thân hay cảnh. Nếu tâm
ta nuôi dưởng sự bực dọc mà miệng thì tụng kinh thì khó có thể mà ta có
được hạnh phúc vì càng tụng kinh, càng mệt mỏi thì sự bực dọc càng 
nhiều hơn nữa. Một trong những phương pháp thiền là ta nhận thức sự bực 
bội và từ bi hỷ xả phóng sanh nó ra theo từng hơi thở nhẹ nhàng rồi dần 
dần sự bực bội đó sẽ tan biến. Đó là một cách “tụng kinh sống” hữu hiệu 
nhứt. Tung kinh sống là tụng ý (thay vì chữ) kinh trong từng hơi thở, 
trong lúc đi, đứng, nằm và ngồi. Nói một cách khác, thiền hay tụng kinh 
sống làkhi ta ý thức không tạo cái duyên nuôi dưỡng tham, sân, si trong 
tâm ta. Nếu ta không nuôi chúng thì tự động chúng sẽ rời bỏ ta. Rồi ta 
sẽ trở về sống với con người hạnh phúc của ta.
Nhân quả và Thiên Chúa giáo.
Mặc dù Thiên Chúa giáo không đề cập nhân quả một cách trực tiếp nhưng 
tất cả những câu chuyện trong Thánh kinh đều khuyên răng con chiên hãy 
củng cố lòng tin Chúa, thương người, giúp đỡ xã hội thì sẽ được cuộc 
sống hạnh phúc trong vĩnh cửu. Nói một cách khác Chúa khuyên con chiên 
tạo nhân lành (lòng tin, thương người, tha thứ), tạo duyên lành (xây 
dựng một xã hội lấy nền tảng là sự yêu thương đùm bọc lẩn nhau, truyền 
đạo cho nhiều người được nhận thức) thì kết quả cuộc sống hạnh phúc sẽ 
dễ được thực hiện trên thế gian này và nếu tất cả mọi người làm được thì
sẽ được hạnh phúc trong vĩnh cửu.
Tuy nhiên có nhiều con chiên quá cuồng tín dùng sức mạnh áp đặt niềm 
tin lên kẻ khác và kết quả là hận thù và chiến tranh. Điều dễ hiểu là vì
cái nhân là tham (muốn cá nhân mình được nhiều phước khi dẫn người khác
vào đạo), sân (bực tức khi người ta không theo đạo mình) và si mê (ngạo
mạn coi đạo mình trên tất cả các đạo khác) thì kết quả sẽ là chiến 
tranh và đau khổ. Vấn đề này không hẳn xảy ra ở đạo Chúa mà còn gặp ở 
nhiều tôn giáo khác hoặc ngay cả ở đạo Phật (phái này chê bai phái 
khác). Đó là vì con người mê lầm không chữa trị cái tham, sân si nơi 
chính mình mà muốn thay đổi thế gian. Muốn cái quả khác cái nhân thì 
không bao giờ có được. Nếu có kẻ nào nói làm được hẳn là họ tự gạt chính
họ, sống trong ảo tưởng u mê. Tôn giáo cũng như thuốc, trị đúng bịnh 
thì thuốc hay, dù có thuốc quý mà dùng sai bịnh thì thuốc quý có thể 
thành độc dược. Vì thế không thể nói thuốc này hay hơn thuốc kia được. 
Đạo Phật có thí dụ ngón tay (phương tiện) chỉ mặt trăng, nếu ta ở nhiều 
nơi khác nhau thì ngón tay sẽ chỉ nhiều hướng khác nhau, nhưng khi nhìn 
thấy mặt trăng (cứu cánh) thì chỉ có một.
Tác động trên tâm lý của Thiên Chúa giáo là dùng tình thương người và 
sự tha thứ tạo cái duyên lành làm giảm bớt ảnh hưởng của hoàn cảnh xấu 
(quả). Nếu ta tin vào một Thượng Đế công bằng bác ái ở bất cứ mọi nơi và
mọi lúc, thì ta giao phó cho Ngài xử phạt những bất công trong cuộc đời
ta. Như thế ta không mất ngủ bực tức tìm cách trả thù hay tìm những lời
nói đâm thọc xỏ xiêng. Với lòng tin đó ta sẵn sàng tha thứ kẻ muốn ám 
hại ta, tâm ta được an ổn và ta gieo rắc sự an ổn đó cho những người 
chung quanh ta. Làm được như vậy, mặc dù ta không mở miệng truyền giáo 
nhưng sẽ có rất nhiều người theo vì họ mến ta. Như thế lời cầu nguyện 
hữu hiệu nhứt phát xuất từ tư tưởng tha thứ thương yêu chớ không phải từ
miệng nói tiếng thương yêu trống rỗng. Giáo đường chân thật của một 
linh mục hay mục sư là sự an ổn của con chiên khi họ cảm nhận được tình 
thương và sự tha thứ chân tình qua hành động của vị mục sư đó, chớ không
phải cái giáo đường bằng ngói, bằng gạch. Cái giáo đường vật chất không
bao giờ làm ấm được lòng người. Ta không thể nào gieo rắc sự an lành 
chung quanh ta nếâu ta không có cái nhân của sự an lành đó trong tâm ta.
Ta có thể dối chính ta chớ không thể dối với Thượng Đế và luật nhân quả
được.
Nhân quả và y khoa.
Tuy nhân quả xuất xứ từ Phật giáo nhưng không hạn chế ở phạm vi tôn 
giáo. Hiểu được nhân quả giúp ta rất nhiều trong việc phòng ngừa bịnh 
tật. Trong Đông Y có câu người y sĩ giỏi trị bịnh lúc mà bịnh chưa phát 
triển. Y khoa hiện đại cũng đồng ý với vấn đề ngưà bịnh hơn là chữa 
bịnh. Cách tốt nhứt cho con người về vấn đề sức khỏe và xã hội về vấn đề
tài chánh là thay đổi cuộc sống để ngừa bịnh. Muốn ngừa bịnh (quả) ta 
phải hiểu cho ra lẽ những yếu tố gây ra bịnh (nhân), tìm cách làm suy 
giảm những nguyên nhân gây ra bịnh, tìm cách không tạo duyên xấu để cho 
hậu quả bịnh dễ xảy ra và củng cố những duyên lành để ngăn ngừa bịnh.
 

Bây
giờ ta hiểu nguyên nhân của nhiều chứng bịnh là do vi trùng (bacteria) 
và vi khuẩn (virus) có kích thước nhỏ hơn vi trùng gây ra. Để làm suy 
giảm những nguyên nhân tạo ra bịnh, những nhà thuốc sáng chế ra các loại
thuốc trụ sinh. Sự ỷ y có thuốc trụ sinh để trị bịnh mà không cần phòng
ngừa hoặc dùng thuốc trụ sinh một cách không phân biệt đưa đến sự ra 
đời của những siêu vi trùng (“super bugs”) có sức kháng trụ sinh. Về 
phần bịnh nhân phải ráng ăn ở vệ sinh để không tạo cái duyên cho những 
loại vi trùng xâm chiếm cơ thể họ. Vaccine (chích ngừa) là cách phòng 
ngừa bịnh bằng cách dùng bộ kháng nhiễm (immune system) để chống lại 
bịnh. Vaccine là một cách thay đổi duyên làm cơ thể không thuận cho sự 
phát triển của bịnh. Một cách ngừa bịnh khác nữa làta ăn ở vệ sinh, tìm 
cách tránh những nơi dễ gây ra bịnh tật là góp phần vào sự củng cố những
duyên không thích hợp cho bịnh phát triển. Thực tế, ta không thể nào 
diệt trừ được tất cả những nhân tạo bịnh mà cách dễ dàng nhất là biến 
đổi cái duyên không thuận cho bịnh-quả phát triển. Con đường trị bịnh 
bằng cách diệt trừ nhân một cách hoàn toàn rất nguy hiểm vì có thể đưa 
đến sự mất cân bằng môi sinh và có thể tạo nhiều mối hiểm nguy khác. Thí
dụ như khi ta đi du lịch ở những nước khác dễ bịnh tiêu chảy vì ở điều 
kiện ta sống không có loại vi trùng đó (nhân bị diệt) nên cơ thể ta 
không có chất miễn nhiễm, dễ sanh ra bịnh. Đứng trên phương diện năng 
lượng (sức lực, thời gian, tài chánh), dùng duyên để phòng ngừa quả là 
áp dụng năng lượng một cách hữu hiệu nhứt.
Nhân quả và tâm lý học.
Stress, sự căng thẳng tinh thần, là vấn đề lớn của thời đại. Stress có 
thể coi như cái cửa mở cho nhiều bịnh tật vào thân thể ta. Những triệu 
chứng khởi đầu của stress là lo âu, bực bội và mất ngủ . Ngoài ra nhức 
đầu, buồn nôn, mất ăn, cao máu với nhịp tim đập nhanh cũng có thể là một
triệu chứng của stress nửûa. Thuở xưa, Đức Phật có cho một thí dụ rất 
thích hợp với stress ngày nay. Thí dụ rằng có một người bị mũi tên bắn 
bi thương. Người đó lo âu muốn biết mũi tên này từ đâu tới, ai bắn, lý 
do nào bắn, rồi lo sợ cho tính mạng, không biết vết thương như thế 
nào...người đó cứ mải lo mà quên tìm cách tháo gỡ mũi tên ra. Tính chất 
của lo âu là nó không bao giờ chịu dừng ở hiện tại mà lại có chiều hướng
lẩn quẩn ở quá khứ hoặc tương lai. Chính vì vậy mà sự lo âu ngày càng 
tăng vì khi tư tưởng lẩn quẩn ở quá khứ và tương lai thì ta sẽ không 
giải quyết được vấn đề và tình trạng vô định đó tạo nên cái duyên làm 
cho lo âu càng lớn dần.
Một khoa tâm lý trị liệu (psychotherapy) trị stress là Cognitive 
behavioral psychotherapy, tạm dịch là tâm lý trị liệu qua nhận thức. Ta 
nhận thức ta có những tư tưởng sai lầm dẫn đến sự lo âu đau khổ (1), 
quán xét kỹ càng rằng những tư tưởng đó không có liên hệ ở thực tế (2), 
sau cùng thay thế vào đó những tư tưởng thích hợp với thực tại hơn (3). 
Khi nhận thức thích hợp với thực tại thì ta sẽ tìm được biêän pháp giải 
quyết vấn đề một cách hữu hiệu và từ đó nhẹ gánh lo âu. Thí dụ anh A có 
triệu chứng hay lo (general anxiety disorder). Khi bị chủ sở phê bình, 
anh về ngủ không được, liên tưởng đến ngày mai mình sẽ mất việc, không 
có tiền trả tiền nhà, vợ anh sẽ bực bội bỏ anh (1)... Qua khâu tâm lý 
trị liệu, anh kiểm duyệt lại thực tế thì không thấy có dấu hiệu nào chủ 
sở sẽ đuổi anh, chủ anh chỉ muốn anh sửa khuyết điểm nhỏ mà thôi, vợ 
chồng lúc nào cũng hòa thuận(2)... Khi nhận thức như vậy, anh cảm thấy 
yên tâm và hiểu rằng mình có phản ứng quá đáng (3). Khi nhìn ở khía cạnh
nhân duyên quả, thì khi anh nhận thức rằng cái nhân sai lầm không quan 
trọng lắm, không để những tư tưởng lo âu thổi phồng sự thật ( nghịch 
duyên), và anh tìm cách học hỏi trao giồi nghề nghiệp thì kết quả sẽ tốt
đẹp. Như thế hiểu được nhân quả thì cuộc sống ta sẽ nhẹ gánh lo âu.
Tóm lại
Nhân quả không phải là một khái niệm tôn giáo (dogma) mà là một quy 
luật thiên nhiên (natural law) ảnh hưởng thế giới nội tâm và thế giới 
vật chất. Nhân quả còn là một lực (force) gắn liền hai biến cố với nhau 
qua không gian và thời gian.
Ta khó có thể thay đổi nhân ở quá khứ, nhưng điều dễ làm là thay đổi 
duyên ở hiện tại để quả dữ khó có thể biểu hiện được. Ở thế giới vật 
chất, duyên lành là bạn tốt, nơi chốn yên tịnh (chùa, nhà thờ, hoc 
đường...). Ở thế giới tâm lý, duyên lành là ý muốn học hỏi, trao giồi 
trí tuệ, cố giữ lòng nhân từ, bác ái và tha thứ. Gần duyên lành thì quả 
xấu khó thể hiện hoặc thể hiện một cách yếu ớt hơn.
Nếu ta còn giữ tâm tham, sân, si làm nhân và nuôi dưỡng những tư tưởng 
tham,sân, si (ác duyên) thì không bao giờ biến đổi được cuộc sống hay xã
hội một cách tốt lành được (quả). Cảnh lúc nào cũng hiện theo tâm. 
Người mang tâm xấu lên thiên đàng sớm muộn gì cũng biến cảnh thiên đàng 
thành địa ngục.
Hiểu được nhân quả thì ta nắm giữ được chìa khóa mở cửa tự do trong đời
ta và giúp ta làm chủ lấy cuộc đời. Không hiểu nhân quả thì ta sẽ sống 
trong mê tín dị đoan hay trong sự lo âu của cuộc sống vô định, bắp bênh.
Hiểu được nhân quả giúp ta định hướng dễ dàng và có một hướng đi và một quan niệm sống vững chắc trước mọi hoàn cảnh khó khăn.
Thái Minh Trung