Trước khi xuất gia, Đức Phật khi còn là Thái tử của Cung thành Ca Tỳ La Vệ, đã kết hôn với Công chúa Da Du Đà La của nước Câu Ly. Vào năm Thái tử và công chúa 19 tuổi thì hạ sanh La Hầu La. Nhìn con Ngài rất vui mừng, nhưng đây không phải là sự vui mừng thông thường như tình thương người cha khi thấy con mình mới sanh mà nỗi vui mừng ở đây là thấy nguyện vọng đi xuất gia của mình sẽ thành sự thật. Bởi vì Thái tử đã nhiều lần xin vua cha đi xuất gia, nhưng vua Tịnh Phạn đều từ chối với lý do là trừ phi ông ta có được một cháu đích tôn mà thôi.
Vào đêm mùng tám tháng hai trong khi mọi người ở hoàng cung đang an giấc thì Thái tử quyết chí ra đi. Ngài vội vàng đánh thức tên giữ ngựa Xa Nặc dậy để thắng cương con ngựa Kiền Trắc của Ngài. Trước khi ra đi, Ngài đi dọc theo hành lang nội cung đến trước phòng công chúa Da Du Đà La và người con trai còn đang ngủ say. Lúc ấy La Hầu La vừa mới sanh được 7 ngày. Vương Phi Da Du Đà La ôm La Hầu La trong tay và nằm ngủ. Trước giờ cáo biệt, Thái tử định bế đứa con còn đang say ngủ một chút, nhưng sợ kinh động công chúa Da Du Đà La thức dậy làm cản trở việc ra đi của mình cho nên khi nhìn con lần cuối, Ngài nói:”Hãy đợi khi ta thành Phật thì sẽ trở lại thăm con”. Đức Phật thương xót cho người vợ trẻ và đứa con trai còn nhỏ dại của mình, nhưng đối với sự đau khổ của nhân loại thì lòng thương xót của Ngài còn da diết hơn. Vì vậy Thái tử chỉ vén rèm nhìn hai người lần cuối rồi quay lưng leo lên lưng ngựa và vượt thành ra đi. Từ đó, La Hầu La đã mất bóng người cha thân yêu ở thế gian.
La Hầu La lớn lên mất tình thương của cha, nhưng bù lại Ngài rất được mẹ và ông nội thương yêu với cuộc sống của một vương tôn độc nhất vô nhị. Trong thâm cung vắng vẻ, La Hầu La là nguồn hy vọng của vương phi và hai mẹ con nương nhau cùng sống cho qua năm tháng đến khi Đức Phật trở về.
Có người lại nói Vương phi Da Du Đà La là phận nữ nhi khổ mệnh còn La Hầu La là đứa bé đáng thương, nhưng đây chỉ là nói theo tình thương của thế gian vì những nổi khổ tâm, lo lắng của họ chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn mà thôi. Trong thế gian nầy hễ sự hy sinh càng lớn thì kết quả thành công càng to. Thật vậy, về sau nhờ sự hóa độ của Đức Phật, công chúa Da Du Đà La xuất gia khai ngộ và La Hầu La cũng xuất gia chứng thành thánh quả. Bà ta quả xứng đáng là bậc đệ nhất nữ lưu vinh hạnh vậy.
Đức Phật vì lòng từ bi mà xả thân cầu đạo trong 11 năm trước khi Ngài thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau khi Đức Thế Tôn thành đạo được 3 năm thì Ngài từ nước Ma Kiệt Đà ở phương Nam về lại cung thành Ca Tỳ La Vệ để thăm cố hương. Nghe tin Đức Phật trở về, từ vua Tịnh Phạn đến thần dân trong nước đều ra ngoài thành nghinh đón, chỉ trừ vương phi Da Du Đà La và La Hầu La là không tham dự trong hàng người ấy.
Trải qua hơn 14 năm trời không gặp, trong lòng vương phi Da Du Đà La thao thức mong muốn được diện kiến Ngài, nhưng vì lễ phép hay đúng hơn là lòng tự tôn đã giúp bà thêm kiên nhẫn mà chờ đợi Đức Phật sẽ đến cung mà thăm bà. Vương phi thật xứng đáng là một người vợ hiền bởi vì trong thời gian Đức Phật đi xuất gia tầm đạo thì bà ta đã vì chồng mà chịu mọi nỗi khổ. Biết Đức Phật mặc y phục bạc màu thì bà ta ở trong cung cũng mặc giống như Ngài. Nghe tin Ngài tu khổ hạnh, ăn một ngày một bữa thì ba ta cũng tập làm theo.
Lúc đó cậu bé La Hầu La chạy đến nói với mẹ:
- Má ơi! Ba con đã về, Bà nội biểu con cho má hay.
Không đợi cho vương phi trả lời, La Hầu La hỏi tiếp:
- Má ơi! Người đến trong cung điện thì nhiều biết bao, làm sao biết được người nào là ba con?
Câu nói từ miệng cậu bé mà không hề biết hình dáng người cha mình ra sao càng làm cho vương phi thêm thương tâm khiến bà không cầm được nước mắt. Một tay kéo La Hầu La bên mình còn tay kia chỉ thẳng ra cửa trong khi mắt còn rơi lệ, bà nói:
- Con nhìn xem! Trong số các thầy sa môn kia thì người có vẻ trang nghiêm nhất chính là cha của con đó.
La Hầu La mở to đôi mắt và nhìn theo tay mẹ. Xa cách đã trên mười năm thì hôm nay vương phi Da Du Đà La mới thấy lại Đức Phật. Thời gian thắm thoát trôi qua như giấc mộng. Cho dù thời gian là liều thuốc nhiệm mầu đã làm cho tâm tư của bà trầm tư yên lặng để sống cho con thì nay chính thời điểm nầy đã khiến lòng bà bỗng nhiên xao xuyến chẳng khác nào như ai ném đá vào mặt nước hồ thu tạo thành những gợn sóng lao xao. Đức Phật hiểu rõ tâm tưởng của bà nên cùng Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên vào cung thăm viếng.
Cuộc gặp gỡ giữa một đấng Chánh Giác và một vị vương phi mỹ lệ không khỏi tạo sự tò mò của nhân thế. Đức Thế Tôn trang nghiêm, yên lặng và nhìn vương phi mắt đầy lệ đang quỳ dưới chân với lòng từ bi thương xót. La Hầu La thì quỳ bên mẹ mà tâm sự ngổn ngang cũng xúc động mà khóc. Đợi cho vương phi lấy lại bình tĩnh, Đức Phật mới chậm rãi nói với bà:
- Để cho nàng chịu nhiều đau khổ, tuy đó là sự thiếu sót của ta, nhưng ta đã vì tất cả chúng sinh mà ra đi. Hôm nay ta đã đạt được bổn nguyện của ta trong nhiều kiếp, nàng hãy hoan hỷ cùng với ta.
Đức Phật nói xong, lại nhìn sang La Hầu La rồi từ hòa vỗ về cậu bé:
- Thật mau quá! Con thật đã lớn rồi.
La Hầu La bây giờ chẳng biết phải gọi cha mình như thế nào. Nếu gọi là ba thì tự miệng cậu bé chẳng dám vì đây là một bậc thánh trang nghiêm. Còn gọi là Phật Đà thì không biết có trúng hay không? Nhìn thấy bao nhiêu vị Tỳ kheo, Sa môn đi theo Đức Phật thì trong tâm cậu bé thông minh nầy chợt nghĩ:
“Đức Phật chẳng là cha của một mình ta mà chính Ngài là bậc đại từ phụ của tất cả chúng sinh. Thật là một tư tưởng phi phàm vì với lứa tuổi ngây thơ ấy mà đã chịu nguyện đem cha riêng của mình mà hiến cho chúng sinh làm đấng cha lành”.
Người Sa Di Đầu Tiên
Đức Thế Tôn ở tạm trong hoàng cung vài ngày và trong thời gian nầy cung điện không có yến tiệc rượu chè, không còn đờn ca múa hát mà được thay bằng 1000 vị tỳ kheo theo Phật. Cung điện hoàng gia bây giờ tạm thời trở thành tăng phòng tịnh xá.
Đức Phật biết các tỳ kheo sở học còn yếu kém do đó nếu để họ ở lâu trong vương cung thì sẽ dễ sanh tâm so sánh với đời sống đạm bạc của tăng đoàn, nên chỉ vài ngày sau thì Ngài đưa đại chúng về trú tại rừng Ni Câu Đà ở cách thành Ca Tỳ La Vệ không xa.
Tuy ở Ni Câu Đà, nhưng Đức Thế Tôn cũng thường về hoàng cung trì khai khất thực hoặc thuyết pháp. Thấy cha, cậu bé La Hẩu La ngây thơ mà bạch với Phật rằng:
- Phật Đà! Con rất thích được ở chung với Ngài.
Câu nói ấy đã biểu lộ phụ tử tình thâm thiêng liêng cao quý và Đức Thế Tôn cũng trả lời:
- Rồi cũng có ngày ta cho con sống gần bên ta.
Vương phi Da Du Đà La hằng ngày thường khuyến khích La Hầu La nói năng thêm hoạt bát lanh lẹ, nên dạy con rằng:
- Con hãy theo phụ thân xin tài sản đi, cha con có những châu báu mà chúng ta chưa được thấy.
Do đó, cậu bé La Hầu La thường chạy theo Đức Phật nói:
- Phật Đà! Cho con gia tài đi.
Một hôm, đang lúc Đức Thế Tôn khất thực trở về lại rừng Ni Câu Đà. Đức Phật đi trước, La Hầu La lẻo đẻo chạy theo sau nói:
- Phật Đà! Cho con gia tài đi. Cho con gia tài đi.
Vương phi Da Du Đà La nhìn thấy đứa con duy nhất đi sau lưng Phật nên bà rất sợ một ngày nào đó La Hầu La trở thành sa môn thì cuộc đời của bà sẽ hoàn toàn trống rỗng và cô độc.
Và việc gì đến sẽ đến. Khi Đức Phật về đến rừng Ni Câu Đà, liền gọi Xá Lợi Phất đến nói:
- Xá Lợi Phất! Cậu bé La Hầu La cứ theo ta xin gia tài. Ta không muốn cho nó thứ tài sản và hạnh phúc mong manh của thế gian mà ta chỉ muốn cho nó bảo bối vô giá mà thôi. Này Xá Lợi Phất! Ông hãy cho nó xuất gia làm Sa di đầu tiên của tăng đoàn.
Đức Phật nói xong, gọi Mục Kiền Liên cạo tóc cho cậu bé, dạy lễ bái Xá Lợi Phất làm thầy và truyền giới Sa di cho La Hầu La. Đây chính là vị Sa di đầu tiên để khai nguyên cho chúng Sa di trong tăng đoàn của Đức Phật trên mấy ngàn năm nay.
La Hầu La là hoài bão và cũng là hy vọng duy nhất của Vương phi. Sau khi Đức Phật rời bỏ ngôi vị ra đi và thành Phật quả thì vương vị sau nầy của nước Ca Tỳ La Vệ nhất định sẽ về tay La Hầu La, nhưng chủ trương của Đức Phật là không để cho con ham mê vương vị tạm thời của thế gian. Đây chỉ là những hạnh phúc mong manh giả tạm để lôi cuốn con người vào vòng sanh tử. Càng si mê thì càng đọa lạc vào đường khổ cũng như tội lỗi thì đồng lỏa với bóng đêm. Đức Phật muốn đem con Ngài từ màn đêm tăm tối của dục lạc, của quyền uy ra trước ánh sáng mặt trời tươi mát và hiền diệu.
Việc La hầu La xuất gia là một điều đau buồn cho vương phi vì bà thương con còn hơn cả thân mình. Mười mấy năm nay cậu bé La Hầu La là niềm an ủi duy nhất của bà, nay La Hầu La thân yêu nhất cũng bỏ bà ra đi thì đối với bà thật là trời sầu đất thảm. Bà đã trách Đức Phật nhẫn tâm để cho bà chịu nhiều điều đau khổ, nhưng chân lý và nhân tình là hai lối đi trái ngược nhau. Kẻ giác ngộ thì họ hàng phục được tình cảm yếu đuối của thế nhân để tìm cho mình được chơn lý pháp tánh mà giải thoát tất cả mọi hệ lụy của thế gian.
La hầu La xuất gia làm Sa di rồi thì vương phi Da Du Đà La cũng đành chịu không biết làm sao hơn. Vua Tịnh Phạn thông cảm nỗi khổ tâm của bà bèn đến tìm Phật và yêu cầu một điều:
- Bạch Thế Tôn! Mong rằng Ngài quy định từ nay về sau, các người trẻ xuất gia phải được sự đồng ý và cho phép của cha mẹ.
Đức Phật hoan hỷ nhận lời.
Từ ngày La Hầu La xuất gia thì vương phi Da Du Đà La chẳng còn hứng thú gì trên cõi đời nầy. Đối với bà tất cả đều khô héo, bi thương và sầu thảm. Về sau bà kế mẫu Ma Ha Ba Xa Ba được xuất gia làm tỳ kheo ni thì vương phi Da Du Đà La cũng theo các vương phi khác đến Tỳ Xá Ly xuất gia. Ban đầu, bà không cảm thấy an lạc tí nào khi sống trong tăng đoàn vắng lặng, nhưng nhờ Đức Thế Tôn cảm hóa thì chẳng bao lâu bà được khai ngộ, khôi phục lại niềm vui và cùng sinh hoạt bình thường an ổn tự tại trong Phật pháp. Chứng được thánh quả A La Hán làm bà rất vui mừng và cảm kích Đức Thế Tôn. Đức Phật cũng hoan hỷ và đến lúc nầy thì Ngài mới hết trách nhiệm đối với bà.
Chú Sa di La Hầu La còn quá nhỏ nên không thể bắt buộc tu hành giống như người lớn được. Ít lâu sau, khi tăng đoàn có hệ thống Sa di thì Ngài Xá Lợi Phất cũng thâu nhận một chú nhỏ là Sa di Quân Đầu. Nhờ vậy mà hai chú nhỏ có dịp chơi chung với nhau. Trẻ con thì lúc nào cũng trẻ con cho nên nếu không có người lớn thì chúng bày những trò chơi để đùa nghịch.
Vì bị bắt buộc sống trong tăng đoàn nghiêm túc chớ đâu phải là bổn nguyện của mình, nên La Hầu La không thấy gì vui vẻ. Đối với cậu bé nầy thì tinh nghịch là điều thú vị nên cậu thích nói dối gạt người.
Khi La Hầu La đang ở rừng Ôn Tuyền ngoài thành Vương Xá, thì có rất nhiều quan đại thần, trưởng giả và cư sĩ muốn yết kiến Đức Thế Tôn, nhưng cậu thường tìm cách nói gạt để trêu ghẹo mọi người. Nếu Đức Phật đang ở tịnh xá Trúc Lâm thì La Hầu La lại nói Ngài đang ở núi Linh Thứu. Còn Đức Phật đang ở núi Linh Thứu thì cậu lại nói gạt rằng Phật ở tịnh xá Trúc Lâm. Hai nơi ấy cách xa nhau vài ba dặm làm cho thiên hạ cứ đi tới đi lui mệt nhừ mà rốt cuộc không gặp được Phật. Khi họ thất vọng quay về thì La Hầu La còn cười nhạo:
- Các ông không gặp được Phật sao?
Cậu bé La Hầu La rất nghịch ngợm nhưng không nhận chịu lỗi của mình. Đây cũng là chuyện thông thường của thế gian mà thôi vì sanh ra là con nhà giàu có, quyền thế trong tay thì dĩ nhiên là sanh lòng ỷ lại vào tiền của và thế lực của cha mẹ mình để làm chuyện bất chính. Tuy là xuất gia, nhưng cậu bé nghĩ mình là con Phật và cháu vua Tịnh Phạn thì tăng chúng ai ai cũng phải sủng ái mình nên cậu bé phát sinh tập khí kiệu mạn.
La Hầu La gạt mọi người một lần, hai lần, nhưng sau vài lần thì mọi người đều biết và tiếng đồn La Hầu La nói dối, chọc ghẹo người đến tai Đức Phật. Đức Thế Tôn không vui nên một hôm Ngài đích thân đến rừng Ôn Tuyền để răn dạy La Hầu La về tánh trung trực cũng như lời nói và hành vi bất chánh bất thiện.
Lời Răn Của Phật
Hôm ấy, Đức Thế Tôn đến chỗ ở của La Hầu La với dáng hết sức oai nghiêm. La Hầu La không ngờ vội chỉnh y ra nghinh đón Phật. Đợi cho Thế Tôn an tọa, cậu đem nước đến cho Phật rửa chân. Đức Phật không nói một lời nên khi vừa rửa chân xong, bèn chỉ nước dơ trong chậu hỏi La Hầu La:
- Này La Hầu La! Thứ nước dơ bẩn nầy có đem uống được không?
La Hầu La kinh hãi trả lời:
- Bạch Thế Tôn! Nước rửa chân rất dơ không thể uống được.
Phật dạy:
- Ông cũng giống như thứ nước đó. Nước vốn trong sạch, rửa chân xong bèn trở nên dơ bẩn. Cũng giống như ông vốn là vương tôn, lìa bỏ mọi thứ vinh hoa phú quý tạm bợ của thế gian để xuất gia làm sa môn. Tuy chưa thọ giới tỳ kheo, nhưng ông đã thọ mười giới Sa di. Ông không tinh tấn tu tập, không để thân tâm thanh tịnh, không giữ miệng cẩn thận lời nói mà dối gạt chọc ghẹo người. Sự nhơ bẩn tam độc đầy dẫy trong tâm ông, giống như nước trong sạch đã bị dơ bẩn rồi.
La Hầu La chưa bao giờ thấy Đức Thế Tôn nghiêm nghị như vậy, nên cúi đầu chẳng dám nhìn Phật. Đức Phật bảo đem nước đổ đi thì lúc đó cậu bé mới dám nhúc nhích. Đợi La Hầu La đổ hết nước xong, Phật lại hỏi:
- La Hầu La! Ông lấy cái chậu nầy đựng cơm được không?
La Hầu La bạch với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chậu đựng nước rửa chân không thể đem đựng cơm vì chậu đã dơ và đầy chất bẩn nên không thể đựng nước uống được.
Phật lại dạy tiếp:
- Ông cũng giống như cái chậu đó. Tuy làm sa môn thanh tịnh mà không tu giới, định, huệ nên thân khẩu ý không thanh tịnh mà chứa đầy chất dơ bẩn không chân thật. Thức ăn đạo lý làm sao nhét vào trong tâm ông.
Phật nói xong lấy chân đá nhẹ cái chậu lăn mấy vòng, La Hầu La thấy thế hoảng sợ. Phật lại nói:
- La Hầu La! Ông sợ cái chậu nầy bị đá bể không?
La Hầu La vừa run vừa sợ thưa:
- Bạch Thế Tôn! Dạ không. Chậu rửa chân là đồ vật xấu có bể cũng chẳng sao.
Phật dạy rằng:
- La Hầu La ! Ông không tiếc cái chậu nầy cũng giống như mọi người không thương mến ông. Ông xuất gia làm sa môn, không giữ oai nghi mà nói dối đùa ghẹo thì ai mà thương cho được. Không ai quý tiếc gì ông, cho đến lúc ông chết mà ông không hối cải, lại càng chìm trong mê mờ.
La hầu La bây giờ sợ toát mồ hôi và xấu hổ muốn độn thổ nên phát nguyện từ nay về sau sẽ cố gắng sửa đổi tâm tánh.
Đức Phật răn dạy xong, lại nói một thí dụ cho La Hầu La nghe:
- Đời quá khứ, có một quốc gia nọ nuôi hai con voi lớn dũng mãnh thiện chiến. Mỗi khi nhà vua cử binh ra trận, lại trang bị áo giáp cho chúng. Ngà voi mang giáo nhọn, bên tai giắt kiếm bén, bốn chân đều có dao sáng ngời và sau đuôi lại cột thêm gậy sắt. Tuy mang nhiều vũ khí như thế, nhưng mỗi khi giao chiến chúng đều cuốn vòi dấu kín, vì đó là chỗ yếu điểm nếu để trúng tên thì chết ngay. Chỉ vì muốn giữ gìn mạng sống mà loài voi kia phải giữ kỹ chiếc vòi. La Hầu La ! Ông cũng phải như voi kia giữ kỹ cái vòi. Phải cẩn thận giữ gìn lời nói của mình cho nên mỗi khi mở miệng nói đùa như voi bị thương thì huệ mạng của ông sẽ mất. Mà không được mọi người thương mến, không được người trí ưa thích thì đến khi lâm chung sẽ rơi vào ba đường khổ.
Đức Thế Tôn dùng hết tình hết ý, khẩn thiết, nghiêm trang mà răn dạy vì thế mỗi lời mỗi câu đều in sâu vào tâm La Hầu La. Cậu bé phát nguyện từ nay sẽ sửa đổi.
Cũng như hạt lúa khi xay thành gạo, nếu còn dính bụi cám mà không vo chà sạch sẽ thì hạt gạo sẽ không trở thành gạo trắng. La Hầu La tuy có bản tính tốt ngoan ngoãn, nhưng phải có pháp thủy của Đức Phật tẩy rửa thì mới trở nên thanh tịnh vô nhiễm được. Từ đó La Hầu La trở thành một người hoàn toàn thiện mỹ.
Khi Đức Thế Tôn ở tại vườn Cù Sa La thì La Hầu La cùng với Sa di Quân Đầu theo sư phụ Xá Lợi Phất đến nghe Phật thuyết pháp. Công việc hàng ngày của La Hầu La là phải dậy sớm quét dọn trong ngoài cho sạch sẽ rồi mới tu tập theo lời Phật dạy. Với một khu vườn rộng lớn thì đòi hỏi rất nhiều thời giờ để quét dọn cho sạch sẽ vì thế khi vừa làm xong công việc thì La Hầu La lập tức đi nghe Phật thuyết pháp. Không ngờ lúc ấy phòng của La Hầu La bị thầy tỳ kheo quản lý giao lại cho vị tỳ kheo khác ở và những y, bát, tọa cụ của La Hầu La đều bị bỏ ở ngoài.
Đức Phật đã quy định một người một phòng thì nếu phòng của mình bị người khác chiếm thì biết làm sao? Hơn nữa La Hầu La chỉ là Sa di mà Đức Phật đã dạy là Sa di phải kính trọng tỳ kheo nên La Hầu La không dám đến hỏi vị tỳ kheo kia tại sao lại ở trong phòng mình. Thật là tấn thối lưỡng nan nên La hầu La cứ đúng ngơ ngơ ở ngoài cửa rất lâu cho đến lúc mây đen kéo đến đầy trời báo hiệu sắp có mưa to. Mưa càng lúc càng to, La Hầu La không biết núp vào chỗ nào đành chui đại vào nhà xí. Tuy có hôi hám thật, nhưng chỉ còn cách ngồi ở trong đó mà thôi và đây chính là lúc La Hầu La cảm thấy nỗi quạnh quẻ và tình cảnh của kẻ không nhà. Đối diện với nghịch cảnh cay nghiệt thì đây chính là lúc La Hầu La nỗ lực để nhớ những lời Phật dạy. La Hầu La thầm nghĩ lời Đức Thế Tôn dạy rằng bất cứ trong tình cảnh khốn khổ nào hoặc bất cứ gặp những chuyện phiền phức gì thì người tu hành không nên khởi tâm oán hận. Quả thật công phu tu tập của La Hầu La tiến bộ rất nhiều.
Bên ngoài thì mưa tuôn xối xả càng lúc càng to làm cho nước tràn xuống mấy chỗ trũng khiến cho một con rắn đen ở trong hang bên cạnh bị ngập nước nên bò ra. Con rắn độc miền nhiệt đới rất nguy hiểm bò từ từ về phía nhà xí mà La Hầu La không hề hay biết. Lúc nầy sinh mạng của chú Sa di chẳng khác nào như chỉ mành treo chuông.
Đức Phật đang ở trong thất bỗng nhiên nhớ đến La Hầu La tức thì Ngài dùng thiên nhãn thấy được sự nguy hiểm sắp đến với La Hầu La bèn đi thẳng ra nhà xí và đằng hắng một tiếng. Tức thì bên trong nhà xí cũng có tiếng đằng hắng, Phật bèn hỏi:
- Ai ở trong đó?
- Dạ! La Hầu La.
Phật bảo:
- Ra mau. Ta bảo ông đi ra.
La hầu La không ngờ Đức Thế Tôn đã kêu mình nên vội bước ra và quỳ bên chân Phật mà nước mắt chảy ròng ròng. Dầu sao, La Hầu La còn nhỏ thì tình cảm không tránh khỏi yếu ớt.
Phật bèn hỏi vì sao La Hầu La lại ngồi trong nhà xí. La Hầu La thuật lại hết mọi việc và được Phật cho phép được vào trong phòng của Ngài. La Hầu La vui mừng khôn xiết chẳng khác nào mới thoát địa ngục mà bước lên thiên đường.
Trẻ con tuổi nhỏ mà khi nhập tăng đoàn phải cắt ái từ thân nên Phật cho phép các chú Sa di được ngủ chung phòng với tỳ kheo hai đêm. Thầy của La Hầu La là Xá Lợi Phất thường bận giúp Phật hoằng hóa bên ngoài nên ít có dịp ngó ngàng đến La Hầu La. Nhưng sau sự kiện nầy thì Xá Lợi Phất thường gọi La Hầu La đến ở chung phòng với tôn giả. Nhờ vậy, tôn giả có nhiều cơ hội để giáo huấn cho La Hầu La tiến triển trên con đường Phật pháp.
Luyện Đức Nhẫn Nhục
Khi Đức Phật giảng kinh hay thuyết pháp, Xá Lợi Phất đều dẫn La Hầu La đi nghe và khi Xá Lợi Phất tịnh tọa thì La Hầu La cũng tịnh tọa một bên. Xá Lợi Phất thường hay thuyết pháp giáo hóa chúng sinh và thường dạy cho La Hầu La những kinh nghiệm vì pháp và vì mọi người. Xá Lợi Phật quả thật là vị ân sư tôn quý của La Hầu La.
Một hôm, La Hầu La đi theo Xá Lợi Phất khất thực tại thành Vương Xá thì trên đường gặp một tên lưu manh lấy cát ném vào bát Xá Lợi Phất và lấy gậy đánh lên đầu La Hầu La.
La Hầu La bị thương, máu nhỏ giọt xuống y, tên lưu manh thấy vậy chẳng những không biết lỗi mà còn chửi:
- Mấy lão trọc, chỉ biết đi xin ăn mà miệng cứ xưng là từ bi nhẫn nhục. Nay ta đánh lỗ đầu mày thì xem mày làm gì được ta.
La Hầu La lúc ấy được 18 tuổi đã lộ ra vẻ tức giận căm gan, nhưng Xá Lợi Phất an ủi:
- La Hầu La! Nếu thật là đệ tử Phật, cần phải có tinh thần nhẫn nhục thì trong tâm không chứa niềm sân hận mà phải đem lòng từ bi thương xót chúng sinh. Đức Phật thường dạy chúng ta, lúc vinh dự đừng sanh lòng cao hứng, còn khi bị làm nhục cũng đừng oán hận. Này La Hầu La! Nên điều phục tâm tức giận và cố giữ chắc sự nhẫn nại bởi vì trên thế gian không có gì sánh bằng người có sức nhẫn nại.
La Hầu La nghe Xá Lợi Phất khai thị xong thì lẳng lặng đến bên ao nước lấy tay khoát nước rửa sạch vết thương rồi xé một chút vải băng lại. Xá Lợi Phất theo dõi tình hình trong lòng vừa thương vừa yên dạ.
La Hầu La nhẫn nại, an nhiên theo Xá Lợi Phất đi khất thực xong, trên đường về mới nói với thầy:
- Con nghĩ đến vết thương trên đầu thì lúc ấy khó mà bỏ qua. Nhưng trên đời nầy sao lắm kẻ hung ác, đến đâu cũng gặp toàn những việc đáng chán. Con không giận đời, chỉ nghĩ đến cái cõi đời nầy nhiều người không biết điều. Đức Phật dạy chúng ta nên có lòng đại từ bi với họ, để mặc hạng người cuồng bạo nhục mạ chúng ta. Sa môn tỳ kheo giữ hạnh nhẫn, chứa đức cao mà người cuồng ngu trở lại khinh chê, lại đi kính trọng mấy kẻ hung dữ độc ác. Đức Phật dạy chân lý từ bi thì họ nói là hôi như xác chết. Chân lý huyền diệu như trời mưa cam lồ mà loài chó hoang lại chỉ ưa đồ dơ bẩn và ưa ở những nơi hôi hám. Những chân lý Phật dạy, những lời nói từ bi của Ngài mà đem nói với những hạng người hung dữ không có một chút căn lành ấy thật chẳng có hiệu quả gì.
Đây là lần đầu tiên La Hầu La đem việc tu hành và ý nghĩ của mình bày tỏ với sư phụ. Xá Lợi Phất nghe xong rất hoan hỷ rồi đem những lời của La Hầu La về bạch lại với Phật. Phật cũng rất an lòng, khen La Hầu La ngày nay rất ngoan. Đối với người hung ác thì nên có thái độ như thế và Phật lại dạy thêm:
- Người không biết nhẫn sẽ không tiếp thọ được Phật pháp, giận đời oán người là điều trái với pháp thì thường luân hồi trong đường ác. Hạnh nhẫn nhục mới là hạnh an ổn và mới có thể tiêu trừ tai nạn. Người trí huệ thấy được nhân quả sâu xa để khắc phục tâm sân hận mà tu pháp nhẫn nại. Tinh thần của Phật pháp và chân nghĩa của Phật pháp thì không giống như lối nhìn của người đời. Những gì thế gian cho là cao quý thì Phật pháp cho là hạ tiện, còn Phật pháp cho là tốt, là phải thì người đời không chịu làm theo. Thói thường thì trung không ưa nịnh, tà chẳng thích chánh, ác không thích đi chung với thiện. Người tham dục thì ghét người vô dục. Trong tình cảnh ấy, người tu hành chỉ còn một cách là tu nhẫn nại. Nhẫn nại là duyên trợ đạo tốt nhất, có thể khiến người tu mau chóng thành thánh quả. Nhẫn như chiếc thuyền bè trên sông biển có thể vượt qua mọi sóng gió. Nhẫn là liều thuốc nhiệm mầu cứu mạng con người trong cơn nguy khốn, tu thành chánh giác, vượt qua ba cõi và được người trời kính ngưỡng. Đó là những sự quý báu của đức nhẫn nại.
Do nhân duyên La Hầu La bị kẻ côn đồ vô cớ hành hung lỗ đầu mà trong lúc tuổi trẻ bồng bột lại có thể nhẫn nhịn như một ông thánh khiến sư phụ rất an tâm. Đức Phật cũng mừng thầm mà thuyết đoạn pháp trên. Xá Lợi Phất nghe xong vô cùng cảm động. La Hầu La cũng rơi lệ và lại càng cảm kích thêm.
Chứng Thánh Quả
La Hầu La đối với chuyện bị chiếm phòng mà tự nguyện nhường cho và trên đường đi bị kẻ khác đánh trọng thương mà có thể nhẫn được thì đoạn đường đi đến khai ngộ thật chẳng còn xa.
La Hầu La thông minh khéo léo và tinh tấn tu hành. Lúc còn nhỏ làm Sa di thì chỉ thích chọc ghẹo thiên hạ gây điều phiền não thế mà xuân hạ thu đông qua mau, nay La Hầu La vừa đúng 20 tuổi với dáng uy nghiêm của một vị sa môn. Sự trưởng thành về đạo đức và phát triển về trí tuệ đã làm cho Phật hài lòng và chính Đức Thế Tôn cho phép La hầu La được thọ giới tỳ kheo.
Tuy tuổi còn trẻ, nhưng La Hầu La đạo mạo như một người lão thành. Đối với những cuộc nhóm hợp đông đảo trong sinh hoạt của tăng đoàn thì La hầu La ít khi tham dự mà chỉ dùng thì giờ để dụng công tu tập mà thôi.
Cho dù La Hầu La dụng công chuyên cần tu tập mà vẫn chưa khai ngộ. Nguyên nhân chính là vì La Hầu La chưa quên được cái vinh dự lớn của mình, cái nầy nhà Phật gọi là tự ngã. Vì xuất thân là cháu vua Tịnh Phạn và lại là con của Phật nên ai ai cũng đều ái mộ và khen ngợi ông ta. Tai được nghe luôn những lời khen tặng thì vị tu hành trẻ tuổi nầy rất dễ động tâm. Thật vậy những ngôn từ hoa mỹ chẳng khác nào như ác quỷ ma vương đã khiến cho La Hầu La dụng công tinh tấn đến đâu cũng không đạt được quả vị.
Thậm chí có nhiều vị tỳ kheo đã hỏi Phật về chuyện khai ngộ của La hầu La:
- Bạch Thế Tôn! Tỳ kheo La Hầu La nghiêm trì giới luật, tinh tấn tu hành, không phạm một lỗi nhỏ. Vì muốn khai ngộ, La Hầu La đã tận tình buông sạch vậy mà tại sao tỳ kheo vẫn chưa trừ hết phiền não và giải thoát hoàn toàn?
Đức Thế Tôn trả lời một cách chắc chắn rằng:
- Giữ giới tịnh tâm, giữ thân đoan chánh thì nhất định có thể dứt sạch ô nhiễm và nhất định sẽ được chứng quả.
Đối với việc La Hầu La chưa khai ngộ thì Đức Phật không mấy bận lòng bởi vì Ngài đã hoàn toàn tin tưởng vào đức độ của con mình và biết chắc ngày đó sẽ đến.
Mấy phen dường như khai ngộ mà vẫn chưa khai ngộ, La hầu La bèn đem chỗ tâm đắc của mình mà bạch với Phật. Phật dạy La Hầu La từ đây về sau nên thường cùng bạn bè đàm luận về đạo lý ngũ uẩn hòa hợp và tự mình nên tư duy về ngã mạn, vô ngã, vô pháp cùng các pháp khổ, pháp vui.
Một ngày nọ, vào sáng sớm, Đức Phật cùng với La Hầu La cùng đi ra khỏi tịnh xá Kỳ Viên để vào thành Xá Vệ khất thực. Trên đường đi, Phật quay lại bảo La Hầu La:
- La Hầu La! Ông hãy quan sát sắc vô thường, thọ tưởng hành thức cũng vô thường. Ông xem thân tâm của mọi người và tất cả sự vật trên thế gian đều nên khởi quán vô thường và không nên chấp trước.
La Hầu La nghe vài câu đơn giản như thế tự nhiên tâm địa sáng tỏ. Tức thì tôn giả cáo biệt Phật, ngưng việc khất thực và trở về tịnh xá để ngồi kiết già mà tận tâm suy nghĩ về ý nghĩa thâm thúy của những lời Phật vừa mới dạy. Tôn giả lại dùng từ bi quán trừ tâm sân hận, dùng bất tịnh quán trừ tâm tham dục, dùng sổ túc quán trừ tâm tán loạn, dùng trí huệ đối với ngu si. Tôn giả vào sâu trong thiền định và cơ duyên đã chín mùi, tôn giả khai ngộ ngay hôm ấy.
Đức Phật khất thực trở về đến chỗ La Hầu La đang tọa thiền, lại chỉ dạy thêm:
- Nên dùng sức đồng thể đại bi, lòng từ vô duyên để đối xử với người và sự việc. Tâm lượng rổng rang có thể dung nạp tất cả chúng sanh, mới có thể diệt ác, đếm hơi thở quán tâm thì có thể đạt được giải thoát.
La Hầu La từ tòa đứng dậy, đảnh lễ Phật thưa:
- Bạch Thế Tôn! Phiền não con đã hết, con đã chứng ngộ xong.
Đức Phật rất hoan hỷ còn hơn sự hoan hỷ của La Hầu La, Ngài khen ngợi:
- Trong các đệ tử ta, tỳ kheo La Hầu La là Mật hạnh đệ nhất.
Mật hạnh có nghĩa là trong ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh La Hầu La đều biết và đều có thể làm hết.
Nghĩ đến thuở ban đầu, La Hầu La theo Phật để xin gia tài thì ngày nay, tôn giả đã chứng ngộ tức là đã được Phật trao cho pháp tài vô tận. Ngày xưa lúc còn là Sa di nhỏ tuổi mới vào tăng đoàn đã làm bận lòng Đức Phật bao nhiêu thì ngày nay tôn giả đã xa lìa mọi dục lạc trên thế gian và đạt được niềm vui chơn chánh của pháp mầu. Đây quả thật là một thí dụ quý báu cho tất cả chúng sinh trong khi tu đạo. Cái tự ngã chính thật là kẻ thù số một của chính mình vì nếu muốn được đạo quả viên thành thì phải tự quên mình mà chỉ nghĩ đến tất cả chúng sinh mà thôi. Thật vậy hạnh phúc lớn nhất trên thế gian nầy là làm cho người được hạnh phúc và đây chính là thực hành đúng đắn nhất về lòng từ bi của chúng ta.
Nhập Diệt
Thời Đức Phật còn tại thế thì có những nhân vật oanh liệt như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, Ca Chiên Diên, Phú Lâu Na…còn La Hầu La thì không thấy tôn giả có những câu chuyện hoằng dương đạo pháp phi thường gì cả. Thật ra một người nghiêm túc trong mật hạnh trì giới thì chỉ muốn im lặng tu tập và im lặng không tranh đua với thế gian. Có quan niệm cho rằng vì tôn giả có liên hệ huyết thống với Đức Thế Tôn nên Ngài đặc biệt hạn chế sự giáo hóa của tôn giả. Nhưng nếu nhìn kỹ lại thì con người của La Hầu La có tư cách nhu thuận, bẩm chất kiên cường, nhưng trong sinh hoạt của một vị tỳ kheo thì tôn giả không phải là một người sôi nổi.
Trong kinh sử của Phật giáo không thấy ghi lại những sự tích thuyết pháp hay nghị luận với ngoại đạo của tôn giả. Quả như lời Đức Phật đã nói thì tôn giả là một người nghiêm túc trong tế hạnh, trong giới luật và xứng đáng là vị đệ nhất mật hạnh.
La Hầu La nhập diệt khi nào cũng như năm tháng đản sanh của tôn giả thì không được kinh sách ghi rõ ràng. Thật ra Ấn Độ là một nước không mấy chú trọng về lịch sử, còn Trung Hoa thì các nhà phiên dịch thường hay phóng đại cũng như tưởng tượng huyền hoặc. Vì thế sự tích về cuộc đời Đức Thế Tôn và các vị thánh đệ tử được ghi chép trong kinh điển thì ít hay nhiều cũng có phần thêm bớt.
Căn cứ theo ký sử có thể khảo cứu qua kinh điển thì tỳ kheo ni Da Du Đà La, tức là mẫu thân của tôn giả La Hầu La, nhập diệt vào năm 78 tuổi và La Hầu La nhập diệt được kể là sớm hơn.
Vào một buổi chiều, tỳ kheo ni Da Du Đà La đã suy tư đến rất nhiều việc. Bà nghĩ đến các vị như Ma Ha Ba Xa Ba, Liên Hoa Sắc và ngay cả La Hầu La đều đã nhập diệt. Bà và Đức Phật cùng một tuổi và Đức Thế Tôn thì sẽ nhập diệt hai năm nữa tức là khi Đức Phật được 80 tuổi. Nghĩ đến chuyện nhập diệt cùng một lúc với Đức Phật là một điều bất kính mặc dù hiện tại bà ta đối với Đức Phật chỉ có Pháp tình mà không có tình riêng gì khác. Sau cùng bà quyết định nhập diệt sớm là tốt nhất.
Tỳ kheo ni Da Du Đà La được Đức Phật chuẩn ý thì hướng về Đức Thế Tôn đảnh lễ cảm tạ rồi hiện thần thông bay lên hư không mà đi. Chính trong đêm hôm đó bà ở trong phòng chủ động mà nhập diệt.
Căn cứ vào ký sử nhập diệt của tỳ kheo ni Da Du Đà La thì La Hầu La đã nhập diệt trước cả bà và Đức Phật. Nếu dựa vào đó thì tôn giả La Hầu La không thọ quá 60 tuổi. Hay nói một cách đại khái là tôn giả chỉ sống trên năm mươi năm là cùng. Đương nhiên, đối với một vị thánh thì xem cái chết dù sớm hay muộn là chuyện thường tình. Đến lúc phải bỏ cái sắc thân hư huyển giả tạo nầy và thoát ra khỏi cảnh sanh tử luân hồi thì không có gì là buồn mà ngược lại đó là một hạnh phúc.
La Hầu La vào năm 20 tuổi đã khai ngộ chứng quả A La Hán vì thế cái mục đích tối hậu của đời người tôn giả đã đạt được thì khi nhập diệt nhất định là Ngài sẽ an nhiên tự tại mà ra đi về cõi thánh.