1. Dương Liễu Quán Âm:
còn có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, bổn nguyện của Ngài là bạt
trừ cứu độ những bệnh khổ của chúng sanh, vì chúng sanh thân nhiều khổ
nạn nên Ngài cầm cành dương. Dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng
ôn hòa nhẫn nhục của Quán Thế Âm Bồ tát. Thân mặc y màu trắng ngà, hình
tượng của Ngài biểu hiện sự kỳ nguyện phước đức.
2. Long Đầu Quán Âm:
là Quán Thế Âm Bồ tát ngồi trên lưng rồng. Rồng là vua trong các loài
thú để biểu thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát; Long Vương đến mang
mây mưa sấm chớp chiếu diệu khắp trời đất, thấm nhuần muôn vật, tất cả
đều tán thán uy lực của Long vương. Ngài hiện thân ngồi kết già trên
mình rồng thuyết pháp cho chúng sanh.
3. Trì Kinh Quán Âm: còn
gọi là Thanh Văn Quán Âm. Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai
ngộ mà xuất gia. “người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền
hiện thân Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện
sự an tường.
4. Viên Quang Quán Âm:
đây là Quán Thế Âm Bồ tát lòng từ ái viên mãn, biểu trưng bằng ánh
quang minh quanh thân. “sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối,
hay tiêu tai khói lửa, khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ
qua đoạn kinh này, hiện tướng thuyết pháp.
5. Du Hý Quán Âm:
Quán Thế Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ
vào thời gian và nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại. Thân màu hồng,
Ngài ngoảnh mặt chăm chú nhìn chúng sanh.
6. Bạch Y Quán Âm:
còn gọi là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu. Toàn thân Ngài mặc y trắng, ngồi kết
già trên hoa sen trắng, đầu đội khăn, tay trái cầm hoa sen, tay phải
kết dữ nguyện ấn. Màu trắng biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi
người lễ bái Ngài để cầu tiêu tai, trường thọ.
7. Liên Ngọa Quán Âm: là
Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện tọa ngọa trên lá sen. Ngài hiện thân Tiểu
Vương trong phẩm Phổ Môn, để thí dụ cho thân Tiểu Vương tôn quý ngồi
trên lá sen. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão
hoa, hiện tướng từ bi nhu hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn
chúng sanh.
8. Lang Kiến Quán Âm:
còn gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối
trị sự cứng chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước
suối từ trên cao chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu
rộng. Quán Thế Âm Bồ tát ngồi nhìn dòng thác, nhưng tâm tư Ngài như tinh
thần của dòng nước.
9. Thí Dược Quán Âm:
ngoài việc trị bệnh khổ của chúng sanh về thân và tâm, Quán Thế Âm Bồ
tát còn ban bố cho chúng sanh lương dược. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi
rằng: “Quán Âm bậc Tịnh Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương
cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh
nhiều bệnh khổ.
10. Ngư Lam Quán Âm:
là Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá và nhánh lá. Do Ngài thấy con sông không
có cầu, người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một
mỹ nữ bán cá, nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ
cá thì sẽ cưới làm chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền
để xây cầu, kết quả chẳng có ai ném trúng. Những người không ném trúng
đều phải mang tiền đến, tiền chất thành đống che khuất không còn nhìn
thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy Ngài hóa thân đứng trên sông.
11. Đức Vương Quán Âm: trong
phẩm Phổ Môn chép rằng: “người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát,
Ngài liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ
cõi trời sắc giới, công đức rất lớn, nên còn gọi là Đức Vương. Hình
tượng thông thường trong nhân gian là đầu đội bảo quan, ngồi kết già,
tay phải cầm nhánh lá, tay trái để trên đầu gối.
12. Thủy Nguyệt Quán Âm:
tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát trong Thai Tạng Mạn trà la,
mật hiệu của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cang, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm
quán thủy tướng, nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già
trên hoa sen nổi trong đại hải, tay trái cầm hoa sen, tay phải kết thí
vô úy ấn, trong lòng bàn tay chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng
nên gọi là Thủy Nguyệt Quán Âm.
13. Nhất Diệp Quán Âm:
nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được
đến chỗ cạn. Có thể thấy hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát hiện trên nước.
Ngài ngồi trên hoa sen nổi trên mặt nước, ngắm nhìn nước tâm suy nghĩ
sâu sắc đến những nơi tối tăm không ánh sáng (địa ngục).
14. Thanh Cảnh Quán Âm:
có các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát
hiện trong biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại
chúng sanh, mới phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ
Ngài biến thành màu xanh. Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm
hoa sen, lòng bàn tay phải hướng lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
15. Uy Đức Quán Âm:
Quán Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh.
Trong phẩm Phổ Môn có đoạn: “người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân
đặng độ thoát, Ngài liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết
pháp”. Thiên Đại Tướng Quân có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán
Âm. Hình tượng của Ngài là tay trái cầm kim cang xử biểu hiện uy thế để
chiết phục tâm cang cường của chúng sanh, tay phải cầm hoa sen ngồi
trên bệ đá.
16. Diên Mạng Quán Âm:
là Quán Thế Âm Bồ tát bảo hộ thọ mạng chúng sanh. Phẩm Phổ Môn
chép: “nguyền rủa các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán
Âm, trở hại nơi bổn nhơn”. Có thể tiêu trừ chú thuật nguyền rủa và độc
dược thêm tuổi thọ, cho nên gọi là Diên Mạng Quán Âm. Ngài đội bảo quan,
mặc Thiên y, anh lạc trang nghiêm, 20 cánh tay để dìu dắt và cứu hộ
chúng sanh.
17. Chúng Bảo Quán Âm:
là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Nếu có chúng
sanh vì tìm cầu báu vật như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách,
trân châu... vào trong thâm sơn đại hải, giả sử gió lớn thổi trôi dạt
đến nước quỷ La Sát, nếu có một người xưng danh hiệu Ngài, thì đều được
giải thoát. Hình tượng của Quán Thế Âm Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
18. Nham Hộ Quán Âm:
là hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi trong hang đá. phẩm Phổ môn chép:
"Rắn độc cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo
tiếng tự bỏ đi". Thường trong hang động có nhiều chướng khí và trùng
độc, là chỗ có nhiều nguy hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm
hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu tan hết. Quán Thế Âm Bồ tát hiệp
chưởng tĩnh tọa trên hoa sen, trong hang hiểm tối tăm hiện ra ánh sáng.
19. Năng Tĩnh Quán Âm:
Quán Thế Âm Bồ tát cứu giúp thủ hộ những người gặp nạn được an ổn. Hoặc
trôi dạt biển lớn, các nạn quỷ cá rồng, do sức niệm Quán Âm, sóng mòi
chẳng chìm đặng. Quán Thế Âm Bồ tát là thần thủ hộ trên biển. Hình tượng
của Ngài biểu hiện tướng tĩnh lặng.
20. A Nậu Quán Âm:
Quán Thế Âm Bồ tát ngồi trên bệ đá quán sát mọi động tĩnh của đại hải.
Thệ nguyện của Ngài như bài kệ:“ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi
chỗ, thệ rộng sâu như biển, nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của
Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên y màu vàng, tay trái cầm mảnh y
trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn đại hải, hạnh nguyện
của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả định tĩnh
không còn tai ương.
21. Vô Úy Quán Âm:
Hình tượng của Ngài rất đặc thù có ba mắt bốn tay, ngồi trên lưng sư tử
trắng, đội bảo quan, hai tay bên phải, một tay cầm hoa sen trắng, một
tay cầm con chim cát tường trắng; hai tay bên trái, một tay cầm pháp khí
hình con phượng 3 đầu, một tay cầm con cá. Khắp thân có ánh sáng, mặc
thiên y đeo anh lạc, diên mạo rất đoan nghiêm.
22. Diệp Y Quán Âm:
Ngài hiện thân Thiên nữ, đội bảo quan, trên bảo quan có hóa thân Vô
Lượng Thọ Phật. Quanh thân có vòng lửa, ánh sáng trong suốt khắp thân.
Có bốn tay, hai tay bên phải, một tay cầm quả cát tường để trước ngực,
một tay kết thí nguyện ấn; hai tay bên trái, một tay cầm rìu, một tay
cầm sợi dây, ngồi trên hoa sen. Diệp Y Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân
cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn, trùng độc.
23. Lưu Ly Quán Âm:
Tương truyền vào thời Bắc Ngụy, Tôn Kính Đức trấn giữ biên cương, ông
tạo tượng Quán Thế Âm Bồ tát để tôn thờ. Sau bị Di Địch bắt xử cực hình.
Ông nằm mộng thấy thầy Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh
“Diên Mạng Thập Cú Quán Âm”, lúc tử hình ông ba lần chém nhưng không
chút thương tích, nên ông được tha chết. Vì phụng thờ lễ bái Quán Thế Âm
Bồ tát mà đầu ông còn hiện ba vết sẹo. Hình tượng Ngài cầm bình lưu ly
xanh, đứng trên cánh hoa sen du hóa trên mặt nước.
24. Đa La Quán Âm: dùng
vật báu vô giá trang nghiêm thân để trừ khổ não cho chúng sanh, tất cả
chúng sanh vui ưa vào pháp giới chư Phật. Ngài hiện thân người con gái,
tướng mạo từ bi, mặc y trắng, hai tay hiệp chưởng cầm hoa sen xanh;
quanh thân có hào quang thanh tịnh, đầu búi tóc. Trước ngực đeo anh lạc
ngồi trên bệ đá ngắm nhìn chúng sanh.
25. Cáp Lỵ Quán Âm:
Vua Đường Văn Tông thích ăn thịt con hàu, một ngày nọ vua bắt được một
con sò lớn, vua dùng dao mổ hoài mà không mở được vỏ sò, ông mới đốt
hương cầu nguyện, con sò hóa thành Quán Âm Đại Sĩ. Nhà Vua triệu vị
thiền sư đến nói: người đáng dùng thân đặng được độ, thì hiện thân này
mà nói pháp. Hiện thân Đại Sĩ là việc hy hữu không tin hay sao. Nhà vua
rất vui liền ban chiếu chùa chiền trong khắp thiên hạ tạo tượng Đại Sĩ
để tôn thờ. Đây là sự tích của Cáp Lỵ Quán Âm.
26. Lục Thời Quán Âm:
là vị Bồ tát ngày đêm từ bi thủ hộ chúng sanh. Thời xưa miền Bắc Ấn Độ
một ngày đêm chia làm sáu thời, một năm cũng chia làm sáu thời là: “nắng
ít, nắng nhiều, mưa, mát, lạnh ít, lạnh nhiều”; Do đó mà nói thành
“Quán Thế Âm thường trông chúng sanh”.
27. Phổ Bi Quán Âm:
Quán Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên
đại thiên thế giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ
thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi
và uy đức của Ngài rất lớn phổ chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi
là Phổ Bi Quán Âm.
28. Mã Lang Phụ Quán Âm:
Đời Đường có một mỹ nữ mà những người con trai đều tranh nhau cưới,
nàng nói trong một đêm nếu đọc thuộc được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng,
đêm ấy có hai mươi người thuộc, lại một đêm tụng trọn bộ kinh Kim Cang
cũng sẽ lấy làm chồng, đêm ấy còn lại mười người, sau ba ngày có thể
tụng thuộc Kinh Pháp Hoa thì sẽ kết ước. Trong số đó chỉ có người thanh
niên họ Mã được chọn. Ngày kết hôn người con gái bỗng dưng chết biến
thành ánh sáng bay lên không trung biến mất. Hình tượng Ngài cầm quyển
Kinh Pháp Hoa và cây gậy có hình đầu lâu.
29. Hiệp Chưởng Quán Âm:
là hình tượng Quán thế Âm Bồ tát chắp tay cung kính lễ biểu thị tu
thiện tích đức. Nếu có chúng sanh nhiều lòng dâm dục, thường cung kính
niệm Quán Thế Âm Bồ tát thì liền được ly dục, nếu người nhiều sân nhuế,
thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát thì liền được ly sân, nếu người
nhiều ngu si thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ tát, thì liền được ly
si.Tâm không vô niệm thì liền hiển hiện cảnh giới tam muội. Ngài mặc y
trắng chấp tay ngồi trên bệ đá.
30. Nhất Như Quán Âm:
Quán Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm
sét. Phẩm Phổ Môn chép: “mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống,
do sức niệm Quán Âm, liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất
nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến
mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí lực chính là pháp quán nhất như.
31. Bất Nhị Quán Âm:
là biểu tượng bổn và tích bất nhị của Quán Thế Âm. Phẩm Phổ Môn chép:
“người đáng dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp
Kim Thần mà vì đó nói pháp. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là
ứng hóa thân của Phật, vì bổn và tích đều chẳng phải hai nên gọi là Bất
Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài ngồi trên bệ đá hai tay chấp trì kim cang
xử.
32. Trì Liên Quán Âm:
Là Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa để
biểu trưng cho bổn thệ, vì cầm hoa sen đã nở hay chưa nở nên còn gọi là
liên hoa thủ. Vì hoa sen có nhiều nhơn duyên đặc thù nên cũng lấy hoa
sen làm đài. Hình tượng Quán Âm đứng trên lá sen, hai tay cầm hoa sen,
đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn trang nghiêm.
33. Sái Thủy Quán Âm:
là Quán Thế Âm Bồ tát đứng trên tường vân tay cầm chén nước rưới xuống.
Lòng bi răn như sấm, ý từ diệu dường mây, như mưa pháp cam lộ, dứt trừ
lửa phiền não. Sái thủy là rưới một loại nước thơm, là pháp tu tụng niệm
gia trì làm cho thanh tịnh. Đây là bổn thệ của Quán Thế Âm để khai ngộ
Phật tánh của tất cả chúng sanh.