Về cuộc đời và sự nghiệp lịch sử, giải thoát của vua
Trần Nhân Tông, đã có nhiều công trình biên khảo: Trần Nhân Tông, thiền
sư Việt Nam; Trần Nhân Tông, nhà văn hóa; Trần Nhân Tông, nhà thơ; Trần
Nhân Tông, nhà quân sự ; Trần Nhân Tông, nhà lãnh đạo lỗi lạc; Trần Nhân
Tông, nhà tư tưởng v.v…
Tiểu sử
- Dựa theo sử liệu của Nguyễn
Lang trong ” Phật Giáo Việt Nam Sử Luận”, tập I, nhà xuất bản Văn học –
Hà Nội,1994, và sử liệu trong “Thơ văn Lý Trần” , tập II, nhà xuất bản
Khoa Học Xã Hội – Hà Nội, 1989.
- Người tên thật là Trần Khâm,
sinh năm 1258; con cả của vua Trần Thánh Tông; năm 20 tuổi lên ngôi báu,
hiệu Nhân Tông; năm 36 tuổi làm Thái thượng hoàng, nhường ngôi cho Anh
Tông; năm 41 tuổi xuất gia; năm 51 tuổi, 1308, viên tịch ở am Ngọa Vân,
núi Yên Tử.
Thiếu thời, Người đòi nhường địa
vị Đông cung thái tử cho em để xuất gia. Người thông lãm nội và ngoại
điển, học Phật từ nhỏ, học Thiền định dưới sự chỉ dẫn của Tuệ Trung
Thượng Sĩ.
Người đã cùng tướng sĩ triều Trần
hai lần đánh bại đoàn quân xâm lược Nguyên Mông (năm 1285 và năm 1288),
đoàn quân bách chiến bách thắng đã từng đánh bại nhiều nước ở châu Âu
và Tống triều, Trung Quốc ; là vị vua yêu nước, anh hùng, rất “thân
dân”, đã thực hiện thành công đại đoàn kết dân tộc (triều đình và nhân
dân), mở Hội nghị dân chủ Bình Than và Diên Hồng, chủ trương “Tam giáo
đồng nguyên”, viết nên trang sử lẫy lừng của dân tộc, và cả thế giới
đương thời.
Người còn là nhà thơ, nhà văn hóa
Việt Nam, là một nhân cách lớn của dân tộc.
Xuất gia, là tổ thứ sáu của thiền
phái Yên Tử, và là sơ tổ dòng thiền Trúc Lâm, chủ trương thống nhất các
thiền phái Phật Giáo tại Việt Nam (Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông,
Thảo Đường) mang nét đặc thù Việt Nam, tích cực dấn thân vào xã hội xây
dựng hưng vượng xứ sở bằng từ bi, trí tuệ và đạo đức của Phật giáo.
Người thường giảng dạy kinh, luận
và đạo Thiền cho các Tăng sĩ, truyền bá Thập thiện giới cho quần chúng,
khuyên dân từ bỏ các dị đoan, hủ tục, đề cao đạo đức Phật giáo. Một lần
Người vân du qua Champa thiết lập bang giao hữu nghị với vua Chiêm là
Chế Mân, hứa gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Vua Chiêm đã dâng cho
Việt Nam hai châu Ô và Rý (Thuận và Hóa) làm sính lễ.
Trần Nhân Tông đã biểu hiện rõ
Người là một vị vua anh minh, một nhà lãnh đạo giỏi, một nhà tôn giáo
tài ba, và là một thiền sư lỗi lạc.
Sở đắc giải thoát và tư tưởng Phật học của Trần Nhân Tông
1.Sở đắc giải thoát
Rất khó có thể biết được sở đắc
giải thoát của một người qua sự khảo sát bên ngoài, nhất là người ấy lại
là Điều Ngự Giác Hoàng Nhân Tông. Càng khó hơn khi người biên khảo chưa
từng trải nghiệm giải thoát (tâm và tuệ giải thoát). Điều duy nhất
người biên khảo có thể đề cập là theo dấu các sự kiện biểu hiện thái độ
sống, cung cách hành xử, và thi ca, kệ tán của Người để hình dung ra
dòng vận hành tâm thức của Điều Ngự:
a) Là một thanh niên
thông rõ nội và ngoại điển, hiếu học, hiếu từ, nhân ái, từng trốn khỏi
hoàng cung xuất gia tầm đạo, xem ngôi báu như đôi dép cỏ, hẳn là đã có
một nhân tố giải thoát hiện diện trong tâm thức người từ thơ ấu: nhân tố
ấy đã giục Người vào nơi vắng vẻ, xa xôi của núi Yên Tử, đã giục tâm
thức người vươn dậy hướng về ánh sáng núi rừng, rời xa vùng ngã tướng,
ngã niệm, cấu uế, thị phi phiền não. Đây là sự choàng tỉnh của tâm thanh
tịnh thuộc Dục giới và Sắc giới – còn gọi là tịnh quang tâm của cõi Dục
và cõi Sắc – cái tâm thức mở cửa đi vào thiền định, vào “tâm giải
thoát”.
b) Năm 20 tuổi đăng
quang, đã liền đi vào hai cuộc chiến chống ngoại xâm Nguyên Mông đầy ác
liệt và gian khổ: đây là dịp để Người thể nghiệm sâu sắc cái vị đắng của
sinh tử, vô thường, mộng mị của nhân tình thế thái, từ đó hào tâm trỗi
dậy, tâm khoan dung trỗi dậy, và tâm từ bỏ danh sắc, lợi lộc trần thế
trỗi dậy giục Người quyết định hướng sống xả ly của tự thân và xây dựng
kỷ cương, đạo đức cho xã hội, như là sự kiện đại đế A-Dục (Asoka) thức
tỉnh giữa trận chiến đẫm máu Kalinga, xứ Ấn vào thế kỷ thứ III trước Tây
lịch kỷ nguyên, từ bỏ đao, kiếm dùng đạo đức Phật giáo để nhiếp dân.
c) Người được thân cận
học hỏi giáo lý trí tuệ từ bậc thạc đức vô nhị thượng nhân Tuệ Trung
Thượng Sĩ là nhân duyên lớn giúp Điều Ngự cắm rễ tâm thức vào sâu lòng
đất giải thoát: Thượng Sĩ như là một bệ phóng an toàn đẩy phi thuyền
Điều Ngự đi vào vùng trời giải thoát bao la, một thể cách giải thoát
thực hiện trong đời sống chính trị, xã hội rất thiết thực, rất nhân bản
và rất trí tuệ. Đây là nhân duyên dẫn đến sự ra đời của thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử đậm đà sắc thái Việt Nam: ” sống đời vui đạo cứ tùy duyên” –
cái tinh thần “tùy duyên nhi bất biến”, hay “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
d) Chùa Hoa Yên ở trên
vùng cao của núi Yên Tử. Chỉ cần ở đó Điều Ngự lên xuống núi đôi lần
trong một tuần lễ thì đủ duyên để chứng nghiệm cái rã rời , hư ảo của
thân tâm (ngũ uẩn) thành tựu công phu hành trì Tứ Niệm Xứ (thiền định
Phật giáo), buông xả tự nhiên hết thảy vọng niệm, cấu uế tâm, thanh thản
với núi rừng, và sản sinh ra các thi, kệ, tư tưởng cao vời.
Tất cả, ít nhất, bốn duyên nói
trên là nhân tố xác định – hay dấu hiệu xác chứng – tất yếu sở đắc giải
thoát rất sâu của Điều Ngự mà về sau Người đã ghi lại trong các thi, kệ
cảm tác của Người.
e) Sở đắc giải thoát
Các nhân duyên trên là ánh sáng
rọi vào thi, kệ của Người hầu có thể bắt gặp cấp độ tâm thức giải thoát
mà Người đã trải nghiệm, như là:
- Trong một buổi “đại tham” ở
chùa Sùng Nghiêm, Điều Ngự Giác Hoàng đã mở lời với bài kệ:
“Thân như hơi thở qua buồng phổi
Kiếp tựa mây luồn đỉnh núi xa
Chim Quyên kêu rã bao ngày tháng
Đâu phải mùa xuân dễ luống qua .”
(“Thân như hô hấp tỵ trung khí
Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú
Bất thị tâm thường không quá xuân”)
(VNPGSL, ibid., tr 374)
Bài kệ ghi rõ một kinh nghiệm
thiền quán về thân ngũ uẩn của con người: hành giả hành thiền cần thấy
rõ nơi thân, tâm mình cái mỏng manh, vô thường, tạm bợ, không thật;
những gì ở trên thân và ngoài thân là vô hộ, vô chủ, không thuộc về ta,
không phải là ta, không thuộc về ai, không phải là ai. Từ kinh nghiệm
đó, tâm thức tự động rời xa dục vọng, sân hận, vị kỷ, xan tham, đố kỵ
v.v… mà giáp mặt với hân hoan, hỷ lạc, khinh an, thanh thản. Được vậy
thì không uổng phí thời gian, tiếp tục nỗ lực, tinh cần thể nghiệm. Đây
là lời lẽ nhắc nhở và đánh thức Tăng chúng đi vào thực nghiệm lời đức
Phật dạy ở kinh Niết Bàn, phẩm Thánh hạnh, rằng:
“Chư hành vô thường
Thị sanh diệt pháp.
Sanh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc”
Hai câu cuối bài kệ trên là chỗ
về của người tu sĩ Phật giáo, là nội dung mà Bồ tát Tuyết Sơn (trong bản
kinh) sẵn sàng đổi thân mình cho quỷ La Sát ăn thịt để được nghe. Đó
cũng là sở đắc, sở chứng mà Điều Ngự Giác Hoàng muốn trao truyền cho các
Tăng sĩ Việt Nam, đánh thức họ đi ra khỏi vùng tâm thức của ngã niệm,
của các nghi vấn, thắc mắc nêu ra nhiều câu hỏi ách yếu về sự thật của
nhân sinh và thế giới: họ luôn luôn mong chờ các câu trả lời, các lời
giải đáp về thế nào là Phật ? Thế nào là Pháp ? Thế nào là Tăng ? Thế
nào là gia phong của chư Phật , chư Tổ ? v.v… Điều Ngự luôn nhấn mạnh
vào tám chữ “sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc”, nhắc nhở Tăng sĩ hãy
quay trở về tự tâm mình để dập tắt các ngã tưởng, vọng tưởng ấy : Khi các ngã tưởng, ngã niệm được
dập tắt thì các ngã tướng sinh diệt cũng bị dập tắt - đó là
sự dập tắt sinh diệt, trong câu “sinh diệt diệt dĩ – thì tham ái, chấp
thủ bị dập tắt theo: đây là thời điểm chứng nghiệm an lạc, giải thoát –
điều mà kinh gọi là “Tịch diệt vi lạc” – Điều Ngự cứ mãi dồn Tăng sĩ vào
một điểm duy nhất là : vấn đề trọng yếu là chứng nghiệm an lạc, giải
thoát, mà không phải nói về, nghĩ về an lạc, không phải là hỏi hay trả lời ! Đây cũng
là kinh nghiệm tuyệt vời của Tuệ Trung Thượng Sĩ khi Thượng Sĩ bảo: “Đạo
bất tại vấn, vấn bất tại đạo”.
Điểm trao truyền kinh nghiệm tâm
thức giải thoát nầy của Điều Ngự Giác Hoàng và của Tuệ Trung Vô nhị
Thượng Sĩ đích thị là linh hồn, là sức mạnh tinh thần (hay tâm linh) của
Phật giáo đời Trần, của Phật giáo Lý-Trần, đỉnh cao của tư tưởng Phật
giáo Việt Nam và tư tưởng Việt Nam vậy: lúc nào mà sức sống thiền định
nầy chuyển vào tư thế yên nghỉ của
tư tưởng và văn học thì Phật Giáo Việt Nam và Việt Nam đi vào suy
yếu; ngược lại, khi nào tư tưởng và văn học Lý Trần chuyển hiện
vào sự sống thì Phật Giáo Việt Nam và Việt Nam ắt hẳn đi vào hùng
cường, hưng vượng.
- Ý nghĩa “sinh diệt diệt dĩ” là ý
nghĩa “bất sinh bất diệt”, vốn là sự thật muôn thuở của vạn hữu: tất cả
hiện hữu đang tồn tại bất sinh bất diệt trong vận hành của Duyên khởi,
mãi mãi tồn tại như thế. Chỉ có các ngã tướng do các ngã niệm, ngã tưởng
ảo vọng của con người dựng nên là sinh diệt. Sự thật này thật sự đã
được Điều Ngự Giác Hoàng chứng đắc lúc sinh tiền, và an trú vào sự thật
đó cho đến thời điểm trút bỏ hơi thở sau cùng – giờ tý, ngày 21 tháng 10
âm lịch, năm 1308 – khi Người nói lên bài Kệ thị tịch giã từ Tăng chúng
rằng:
“Mọi pháp đều không sinh
Mọi pháp đều không diệt
Nếu hiểu rõ như thế
Thì thấy chư Phật thường hiện diện.
Có đi lại, sinh diệt gì đâu? (!)”
(“Nhất thiết pháp bất sinh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền
Hà khứ lai chi hữu?”
(VNPGSL,ibid,tr.395)
2.Tư tưởng Phật học, thái độ tự tại của Điều Ngự
Từ sở chứng, sở đắc về Định và
Tuệ nói trên, qua từng giai đoạn đời sống, Điều Ngự Giác Hoàng đã biểu
hiện mức độ uyên áo khác nhau qua thái độ sống và hành xử đầy khoan
dung, nhân ái, dũng cảm, trí tuệ mà an nhiên tựï tại:
- Lúc tại vị, Người là vị vua yêu
nước, anh hùng, “thân dân”, đầy trách nhiệm và thể hiện tốt đẹp đại
đoàn kết dân tộc.
- Lúc làm Thái thượng hoàng cũng
vậy.
- Lúc tu hành xuất thế thì tự
giác, giác tha, xây dựng một Giáo Hội PGVN có kỷ cương, có hồn, thống
nhất tư tưởng và tổ chức các hệ phái. Người quan tâm đến việc giới thiệu
một nếp sống đạo đức Phật Giáo cho nhân dân, và cả việc giữ yên bờ cõi,
thiết lập bang giao hữu nghị với Chiêm Thành. Đời sống thì tự nhiên, tự
tại, dung dị, đạm bạc. Người bảo:
“Niên thiếu chưa từng hiểu sắc, không
Xuân đến, hoa sắc vướng tơ lòng.
Nay thì thấy rõ bộ mặt thật của chúa Xuân
Người an nhiên ngắm đóa hồng nở, rụng”
(“Niên thiếu hà tằng liễu sắc, không
Nhất xuân, tâm sự bách hoa trung
Như kim khám phá Đông Hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng”)
(VNPGSL,ibid.,tr.391)
Đấy là thái độ sống an nhiên của
trí tuệ trước cảnh đời biến động, vô thường, hệt như thái độ của Nhiếp
Chính Ỷ Lan thể hiện cẩm nang mà Lý Thánh Tông để lại từ kinh nghiệm
sống giá trị rút ra từ Phật giáo:”Vạn biến như lôi, nhất tâm thiền
định”.
- Trong “Cư trần lạc
đạo phú”, Điều Ngự xác nhận:
“… Tranh công danh, lồng nhân ngã, thật ấy phàm ngu
Xây đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí…”
và
“Sống đời vui đạo cứ tùy duyên
Hễ đói thì ăn, mệt nghỉ liền.
Trong nhà có báu, đừng chạy kiếm
Vô tâm đối cảnh, hỏi chi thiền?”
(vô tâm đối cảnh = trước các sắc
trần… tâm không khởi lên lòng tham, lòng sân, lòng si, không ưu bi, sợ
hãi) -không dính mắc-
Đây cũng là hệ quả tất nhiên
của sự thực hành Định, Tuệ Phật Giáo – nói đủ là Giới, Định, Tuệ-
Tại đây, chúng ta có thể mạnh dạn
phát biểu rằng: tư tưởng, triết lý thời Lý, Trần (ở Việt Nam) là tư tưởng, triết lý sống, hay sống triết
lý, mà không phải là triết lý thuần túy huyền đàm. Chúng ta
hãy tiếp tục lắng nghe “triết lý sống-sống triết lý” ấy của Điều Ngự
khi Điều Ngự nói đến các vấn đề triết lý ách yếu xưa nay của Đông, Tây:
-”Có có không không
Giây khô cây ngã
Thầy tu áo vá
Nhức não, đau đầu”
(“Hữu cú, vô cú
Đằng khô, thụ đảo
Kỷ cá nạp tăng
Chàng đầu hạp não”)
-”Có có không không
Chẳng có chẳng không
Ghi dấu mạn thuyền
Sau nầy tìm kiếm (thanh kiếm)
Theo bức tranh vẽ
Đi tìm ngựa đẹp”
(“Hữu cú, vô cú
Phi hữu, phi vô
Khắc chu cầu kiếm
Sách ký án đồ”)
-”Có có không không
Từ xưa đến nay
Chấp vào ngón tay
Quên mất mặt trăng
Chết đuối trên cạn” (đất bằng)
(“Hữu cú vô cú
Tự cổ tự kim
Chấp chỉ vong nguyệt
Bình địa lục trầm”)
-”Có có không không
Như thế, như thế
Tám chữ mở xong
Không còn gì quan trọng”
(“Hữu cú vô cú
Như thị, như thị
Bát tự đả khai
Toàn vô ba tỵ”)
(ba tỵ: là cái mũi lớn: ý nói vấn đề nổi bật, quan trọng.
Tám chữ :
“Sanh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc”
(phẩm Thánh Hạnh, Kinh Niết Bàn)
(VNPGSL,ibid., tr;382-385)
Các nhà tư tưởng xưa nay đều
đi vào các tri kiến chủ trương thường hằng, đoạn diệt, vừa thường hằng
vừa đoạn diệt, hoặc phi thường phi đoạn.v.v…
Các tri kiến ấy đều rơi vào ngã
tưởng, ngã niệm cả khi nói đến chân như, tuyệt đối. Đó là hiện tượng ngỡ
ngón tay chỉ mặt trăng
là mặt trăng, hệt như tưởng rằng nói về thực tại, sự diễn đạt thực tại
là thực tại. Vấn đề là đi vào thực tại để thể nghiệm thực tại mà không
phải là nói về hay
nghĩ về. Nói khác
đi, thực tại thì khác với triết lý, hoặc thực tại là triết lý siêu
đẳng. Con đường sống của Điều Ngự Giác Hoàng quả là con đường triết lý
siêu đẳng: con đường trở về chính mình để thể nghiệm ở tâm thức mình sự
thật và hạnh phúc. Điều Ngự viết:
-”Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền”
(Cư trần lạc đao phú)
-”Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di-đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về cực lạc”
(Cư trần lạc đạo phú)
Đó là sự trở về với “dừng tham
ái”,”lắng thị phi” và để tâm an nhàn, tịnh lạc:
“Mình ngồi thành thị;
Nết dùng sơn lâm.
Muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính;
Nửa ngày rỗi, tự tại thân tâm.
Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu, ngọc qúy.
Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt, oanh ngâm”
(Cư trần lạc đạo phú)
Đó là sự trở về an trú vào giác
tỉnh Tánh Không (Chân không: Sunyatà), chứng ngộ thực tướng để không còn
vướng bận, vướng mắc vào các quan điểm bộ phái Tiểu, Đại, Nam, Bắc, và
không còn ngại tránh các thanh sắc trần thế, để “sống đời vui đạo”, tùy
duyên mà xử sự:
-”Hỏi phép chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc.
Biết chân như, tin bát nhã, chớ còn tìm Phật, Tổ Tây, Đông,
Chứng thực tướng, ngộ vô vi, nào nhọc hỏi kinh thiền Nam Bắc”.
(Cư trần lạc đạo phú)
Với sự trở về ấy thì mọi sự khác
biệt về giai cấp, chủng tộc, màu da, quan điểm hay phái tính đều có đất
thực tại nhân bản để gặp gỡ. Đấy là cái nhìn và thái độ sống rất trí tuệ
Phật giáo nhằm giúp tự thân tự tại đi ra khỏi các vướng mắc, và giúp xã
hội thực hiện được đại đoàn kết dân tộc, giáo hội thống nhất được các
bộ phái làm sống dậy mạnh mẽ tiềm năng của dân tộc. Nếu muốn nói thái độ sống đó của Điều Ngự
là rất hiền triết, rất triết lý, rất tư tưởng, thì cần hiểu đó là triết
lý rất riêng của Việt Nam gọi là Siêu vượt triết lý (Transcendental
Philosophy) hay triết lý Nhân bản thực tại luận (Humanist Realism) vừa
giải quyết Vấn đề giải thoát của nhân sinh, vừa giải quyết các vấn đề
của quốc gia, xã hội.
Thế là, vào thế kỷ XIII (có thể
nói từ thế kỷ XI) Việt Nam đã hình thành một hệ nhân sinh quan và vũ trụ
quan rất riêng, mang đậm dấu ấn của trí tuệ và đạo đức Phật giáo của
đức Phật Gotama. Từ đầu thế kỷ XXI nầy, trước các khủng hoảng của các tư
tưởng hệ, bao gồm tư tưởng khoa học, khủng khoảng môi sinh và đạo đức
xã hội, triết lý nhân bản thực tại luận của Điều Ngự Giác Hoàng càng nổi
bật nét đặc thù rất đáng được thời đại tham cứu. Điều Ngự và Trúc Lâm
Yên Tử như đang tỏa sáng hơn bao giờ!