宣化上人簡傳
Hòa Thượng Tuyên Hóa họ Bạch, tên thật
là An Từ, tự Độ Luân. Ngài quê ở huyện Song Thành, tỉnh Tùng Giang thuộc
Đông Bắc, Trung Hoa, tức là Mãn Châu. Phụ thân Ngài tên Phú Hải, chuyên
làm nghề nông. Mẹ họ Hồ, sinh được tất cả tám người con, năm trai ba
gái và Ngài là út. Hồ thái phu nhân thọ chay trường, niệm Phật chẳng hề
gián đoạn. Một đêm nọ phu nhân nằm mộng thấy Đức Phật A Di Đà hiện thân
phóng đại quang minh chiếu triệt thế giới, chấn động thiên địa. Giật
mình tỉnh giấc, phu nhân ngửi thấy mùi hương kỳ diệu khắp phòng, rồi sau
đó hạ sanh ra Ngài. Vừa ra đời, Ngài liên thanh khóc suốt ba ngày đêm
không dứt. Chính là vì đau xót cho nỗi khổ của thế giới Ta Bà nầy vậy.
Ngài cư ngụ tại một thôn quê nhỏ bé,
thưa thớt nhà cửa. Thế nên, đến năm mười một tuổi Ngài chưa hề thấy qua
người chết. Một hôm, Ngài thấy một em bé, miệng ngậm, mắt nhắm, nằm bó
trong đám rơm bên lề. Ngài gọi mà đứa bé chẳng đáp, rờ thì chẳng có hơi
thở. Ngài lấy làm khó hiểu vô cùng nên hỏi nhóm bạn. Có kẻ hiểu biết
liền nói: “Đứa bé đã chết rồi!” Song Ngài vô cùng ngạc nhiên, không hiểu
thế nào là chết. Về nhà, Ngài liền hỏi mẹ, bà dạy: “Phàm là người, ai
cũng phải chết. Có kẻ chết già, có kẻ chết vì bệnh, cũng có kẻ chết vì
tai nạn. Bất luận là giàu sang hay nghèo khó, bất luận là sĩ, nông,
công, thương, hay quan lại, ai ai rốt cuộc rồi cũng phải chết.” Ngài lại
hỏi: “Nếu thật như vậy, có cách gì thoát được chết không?” Bấy giờ
trong nhà có vị khách là người tu hành.
Vị này đỡ lời đáp rằng: “Chỉ có cách tu
Đạo, minh ngộ tự tâm, triệt kiến bổn tánh thì mới liễu đoạn sanh tử,
siêu thoát luân hồi, thành Chánh Giác, chứng Vô Sanh.”
Tuy lúc đó Ngài còn nhỏ tuổi, song đối với lời vị khách nói, Ngài tỉnh ngộ sâu xa, do đó Ngài quyết chí xuất gia tu Đạo.
Khi Ngài bàn chuyện xuất gia với mẹ, bà
dạy: “Xuất gia là chuyện rất tốt, nhưng cũng không phải là chuyện dễ
làm. Cần có thiện căn, có đại nguyện lực, và cần phải phát đại Bồ Đề tâm
thì mới có thể thành tựu Vô Thượng Đạo. Nay con đã phát tâm, ta hết sức
đồng ý, cũng thật là phù hợp với giấc mộng xưa kia vậy. Nhưng nay ta đã
già, ngày tháng chẳng còn bao lâu, các anh chị con đều đã tự lập. Con
nên ở lại để phụng dưỡng cha mẹ; khi ta mất rồi, con xuất gia tu hành,
lúc đó cũng chẳng muộn.” Ngài vâng lời cha mẹ, rồi sau đó hằng ngày
thường theo mẹ lạy Phật. Lạy Phật xong, Ngài lạy cha mẹ. Ngày qua ngày,
đông tàn xuân đến, Ngài cung kính phụng dưỡng song thân như đối với Phật
vậy. Chẳng bao lâu tiếng đồn về sự hiếu thảo của Ngài vang khắp bốn
phương. Khi đó mọi người đều gọi Ngài là Bạch Hiếu Tử (người con chí
hiếu họ Bạch).
Năm Ngài 19 tuổi thì mẹ Ngài qua đời;
bấy giờ Ngài từ giã họ hàng lên chùa bái Hòa Thượng Thường Trí làm Thầy
và quy y, chính thức xuất gia, thọ giới. Sau đó, Ngài về lại nơi mộ phần
thân mẫu để thủ hiếu trong ba năm. Suốt thời gian ấy, Ngài sống trong
một túp lều tranh nhỏ, ngày ngày tọa Thiền, đọc tụng kinh điển Đại Thừa
và niệm Phật A Di Đà. Rất nhiều lần Ngài ngồi Thiền rồi nhập Định, liên
tiếp trong nhiều tuần lễ chẳng rời thiền sàng.
Một đêm nọ, dân trong thôn gần đó hốt
hoảng thấy túp lều tranh của Ngài hừng hực lửa đỏ. Ánh lửa hồng phừng
thẳng lên giữa không trung và túp lều tranh thì sáng rực như ban ngày.
Nhiều người chạy đến mộ, hô hoán: “Nhà Hiếu Tử bị cháy rồi!” Cả trăm
người trong làng hè nhau xách gáo,
đem xô tới để chữa cháy. Song, khi tới
nơi họ chỉ thấy túp lều tranh bình lặng, lửa chẳng cháy và Ngài thì vẫn
an nhiên, tĩnh mặc trong Thiền Định!
Có lần Ngài đang tọa Thiền thì chợt có
vị khách đến viếng. Vị khách ấy, ngạc nhiên thay, chính là Lục Tổ Huệ
Năng! Đức Tổ Sư dạy Ngài rằng trong tương lai Ngài sẽ tới Mỹ quốc để độ
sinh, rằng ở Tây phương Ngài sẽ gặp nhiều kẻ hữu duyên có thể hoằng
dương Phật Pháp và Ngài sẽ độ vô lượng vô biên chúng sanh. Mãi đến lúc
Đức Tổ Sư từ biệt quay đi rồi, Ngài mới choàng tỉnh, nhớ lại rằng Ngài
Huệ Năng vốn là người đời Đường khoảng 1.200 năm về trước.
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Ngài vân du khắp
nơi. Cuối cùng, trải qua hơn ba ngàn dặm, Ngài tới chùa Nam Hoa, bái
kiến vị Đại Thiện Tri Thức của thời bấy giờ là Lão Hòa Thượng Hư Vân.
Lão Hòa Thượng lúc ấy đã 109 tuổi. Vừa nhìn thấy Ngài, Lão Hòa Thượng
liền nhận ra ngay sự chứng ngộ của Ngài. Khi đó, Lão Hòa Thượng nói:
“Như thị, như thị!” và Ngài cũng đáp lại: “Như thị, như thị!” Bấy giờ,
Lão Hòa Thượng Hư Vân ấn chứng sở đắc của Ngài và Ngài chính thức trở
thành vị Tổ thứ chín của dòng pháp Quy Ngưỡng.
Sau đó, Lão Hòa Thượng dạy Ngài ở lại chùa đảm nhận chức Viện Trưởng Viện Giới Luật của Chùa Nam Hoa.
Năm 1950, Ngài từ giã chùa, lên đường
sang Hương Cảng. Ở đây, Ngài sống tại một sơn động biệt lập, chẳng lai
vãng gì đến bụi trần, tục lụy. Chẳng bao lâu, có vô số Tăng-lữ Sơ Lược
về Hòa Thượng Tuyên Hóa từ Trung Hoa, Đại Lục qua Hương Cảng tỵ nạn và
họ cần sự giúp đỡ của Ngài. Cuối cùng, ứng với nhân duyên, Ngài rời sơn
động, lập ra giảng đường và hai ngôi chùa, cùng trợ giúp xây dựng nhiều
đạo tràng khác.
Trong suốt mười hai năm ở Hương Cảng,
Ngài là tấm gương sáng, tinh tấn tu hành khổ hạnh, quên mình vì Phật
Pháp. Ngài đã ảnh hưởng vô số thiện nam tín nữ, khiến họ phát tâm Bồ Đề,
quy y Tam Bảo, ủng hộ Phật Pháp.
Năm 1962, Ngài đến San Francisco, Mỹ
Quốc. Tại đây, nơi một nhà kho nhỏ, Ngài kiên trì tu hành trong im lặng,
chờ đợi cho cơ duyên hoằng dương Đạo Pháp chín muồi. Lúc ấy, Ngài tự
gọi mình là “Mộ Trung Tăng” (nhà Sư trong phần mộ), hay là Hoạt Tử Nhân
(người đã chết nhưng còn sống). Những Phật tử hiểu biết sự tu hành chân
chính của Ngài đều rất cảm động và cung kính ủng hộ, cúng dường Ngài.
Năm 1968, Ngài biết cơ duyên đã đến,
Ngài nói: “Một đóa hoa sẽ nở ra năm cánh.” Mùa hè năm đó, Ngài chủ trì
Pháp Hội giảng Kinh Lăng Nghiêm trong 96 ngày. Khi Pháp Hội kết thúc,
quả nhiên có năm người Mỹ đầu tiên xin xuất gia với Ngài.
Từ đó, Ngài tiếp tục chủ trì nhiều Pháp
Hội cùng giảng giải các bộ kinh như: Tâm Kinh, Kinh Địa Tạng, Kinh Pháp
Hoa, Kinh Pháp Bảo Đàn v..v... Năm 1971, Ngài giảng bộ kinh tối cao của
Đại Thừa, đó là Kinh Hoa Nghiêm.
Song song với việc giảng Kinh, thuyết
Pháp, Ngài còn làm vô số công đức độ sinh khác. Năm 1976, Ngài thành lập
Vạn Phật Thánh Thành là nền tảng căn cứ địa để hoằng dương Phật Pháp ở
Mỹ Quốc. Tại Vạn Phật Thánh Thành, Ngài xây dựng chế độ Tùng-lâm, đào
tạo Tăng, Ni, học chúng, tạo nhân duyên thù thắng cho sự chân chính tu
hành.
Nguồn: http://www.dharmasite.net