Năm 1926, khi được 17 tuổi, Ngài thật thụ xuất gia thọ giáo
với Hòa Thượng Viên Thành tại chùa Tra Am Huế. Năm Ngài 20 tuổi (1929), được
Bổn Sư cho vào thọ giới Cụ Túc (Tỳ Kheo) tại Đại giới đàn chùa Từ Vân ở Đà
Nẵng. Tại Đại giới đàn này Ngài trúng tuyển Thủ Sa Di trong số 300 giới tử. Do
đó, Bổn Sư đã ban cho Ngài pháp hiệu là Thích Trí Thủ, ngụ ý khen tặng chữ THỦ
là đứng đầu. Cũng vừa năm đó, Bổn Sư của Ngài là Hòa Thượng Viên Thành viên
tịch. Ngài ở lại Tra Am hai năm để thọ tang. Năm 1932, Ngài vào học tại Phật
học đường Trúc Lâm do Hòa Thượng Giác Tiên thành lập và mời Hòa Thượng Phước
Huệ ở chùa Thập Tháp-Bình Định ra làm chủ giảng.
Trong thời gian theo học tại Phật học đường Trúc Lâm, gặp lúc
phong trào chấn hưng Phật Giáo khởi phát ở miền Trung, Ngài tích cực tham gia,
cùng với các pháp lữ khác góp phần rất lớn. Ngài đã từng làm giáo thọ, dạy ở
trường Phật Học Phổ Thiên, Đà Nẵng.
Cuối năm 1934, Ngài trở ra Huế, cùng các pháp lữ ngày trước
tổ chức trường Phật Học ở chùa Tây Thiên, cung thỉnh Tăng Cang Giác Nhiên ở
chùa Thuyền Tôn làm giám đốc, Hòa Thượng Phước Huệ ở chùa Thập Tháp-Bình Định
làm đốc giáo. Cùng thời gian này, Ngài còn làm giảng sư cho hội Phật học Thừa
Thiên và lớp Trung Đẳng Phật học cũng mở tại chùa Tây Thiên cùng kiêm nhiệm
việc giảng dạy tại trường Tiểu Học Phật học mở tại chùa Báo Quốc Huế.
Năm 29 tuổi (1938), sau khi tốt nghiệp trường Phật học Tây
Thiên, Ngài được sơn môn cử về trú trì Tổ Đình Ba La Mật. Ngày vẫn tiếp tục công
việc giảng dạy và hỗ trợ cho các trường Phật học. Năm 1939, Ni trường chùa Từ
Đàm được thành lập. Đây là cơ sở và khởi duyên Ni bộ đầu tiên được hình thành
trong cả nước. Sơn môn và Hội Phật học giao cho Ngài đặc trách việc đào tạo Ni
chúng.
Năm 1942, Ngài được Giáo Hội Tăng Già Thừa Thiên bổ nhiệm trú
trì chùa Báo Quốc. Thời gian này Ngài tích cực hoạt động cho việc phục hưng
Phật Giáo và cùng các Tăng lữ cấp tiến như Thượng Tọa Mật Thể, Thiện Minh,
Thiện Siêu đề xướng cải tiến cách tu học, phổ cập cho phù hợp với thời đại.
Năm 1944, các lớp Đại, Trung và Tiểu học của trường Sơn Môn
Phật Học được dời về chùa Linh Quang, Ngài được Sơn Môn Tăng Già giao phó nhiệm
vụ Giám viện kiêm trú trì chùa.
Cuối năm 1945, chiến tranh Việt-Pháp lại bùng nổ sau cuộc
Cách Mạng Tháng Tám giành độc lập cho nước nhà, Ngài đã cùng một số vị khác
thành lập hội Phật Giáo Cứu Quốc Trung bộ và Thừa Thiên, và cho người đi khắp
các tỉnh thành lập hội Phật Giáo Cứu Quốc tại tỉnh. Vào năm 1946, chiến sự xảy
ra ngay tại thành phố Huế, nên Sơn Môn Tăng Già Thừa Thiên quyết định dời
trường Sơn Môn Phật Học về chùa Báo Quốc, Ngài bàn giao nhiệm vụ trú trì chùa
Linh Quang lại cho Hòa Thượng Mật Nguyện.
Năm 1947, mặt trận Huế vỡ, cảnh tang thương, chết chóc diễn
ra khắp thành thị đến nông thôn. Những Tăng tín đồ nào đã thực sự đứng trong
hàng ngũ kháng chiến thì rút ra chiến khu. Những ai còn trong nội thành thì tập
hợp nhau tại các chùa để cầu nguyện cho đất nước sớm thanh bình. Sau đó, các
Phật sự được khôi phục dần dần. Cuối năm đó, Ngài được giao nhiệm vụ mở lại
Phật Học đường Trung Việt tại chùa Báo Quốc và tiếp tục làm Giám Viện. Chính
nơi đây đã đào tạo nhiều Tăng tài, lỗi lạc hữu dụng cho các hoạt động Phật sự
về sau. Từ giới đàn đầu tiên tại đây, sau cơn khói lửa, do Ngài làm đàn đầu, đã
phục hồi ý nghĩa “Thất chứng” mà các trường giới thường ít coi trọng.
Năm 1950, sau khi hội Việt Nam Phật Học thành lập (1) được ba
năm, Ngài được Đại Hội thường niên bầu làm Hội Trưởng thay cho cư sĩ Chơn An Lê
Văn Định. Từ ngày có phong trào chấn hưng Phật Giáo tại Trung Việt năm 1932,
đây là lần đầu tiên chức Hội Trưởng thuộc về Tăng Sĩ.
Thống nhất Phật Giáo là nguyện vọng tha thiết nhất trong cuộc
đời tu hành của Ngài. Do đó, khi được giao nhiệm vụ đứng đầu Hội Việt Nam Phật
Học, Ngài liền vận động thống nhất Phật Giáo cả nước. Năm 1951, một đại hội gồm
51 đại biểu đại diện cho 6 tập đoàn Phật Giáo, cả ba miền Nam, Trung, Bắc họp
tại chùa Từ Đàm ngày 06 tháng 5 dương lịch, đã quyết nghị thành lập Tổng Hội
Phật Giáo Việt Nam, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của hàng Tăng Sĩ và Cư Sĩ đã
từng ước ao thống nhất Phật Giáo Việt Nam.
Năm 1952, trong chức vụ Ủy Viên Hoằng Pháp của Giáo Hội Tăng
Già Trung Việt, Ngài đã đặt viên đá cho ngôi trường Trung, Tiểu học tư thục Bồ
Đề đầu tiên của hội tại thành nội Huế. Từ đó về sau các trường Bồ Đề từ bậc
Tiểu học đến bậc Trung học được lần lượt mở ở các tỉnh hội khắp Trung Việt, lan
vào cả Sài Gòn.
Năm 1956, Đại Hội kỳ II của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam họp
tại chùa Phước Hòa (Sài Gòn), Ngài được bầu làm Ủy Viên Giáo dục. Cũng trong
năm này, Phật Học Viện Nha Trang được thành lập chùa Hải Đức trên núi Trại
Thủy, Ngài được giao nhiệm vụ Giám Viện.
Để có thêm tài chính yểm trợ ẩm thực cho Tăng sinh, Ngài đã
cử một số học Tăng vàoSài Gòn học riêng khoa chế biến nước tương là một món ăn
chay rất cần thiết và phổ biến trong các chùa và dân gian mà nhu cầu hàng ngày
rất lớn. Khi một sốt Tăng này trở về, Ngài cho thành lập xưởng chế biến nước
tương đóng chai, lấy hiệu Lá Bồ Đề cung cấp cho thị trường khắp Trung phần và
Cao nguyên.
Phật học viện Nha Trang chỉ đào tạo Tăng sinh đến bậc Trung
Học, sau đó họ phải vào Sài Gòn theo học bậc Đại Học. Để giúp đở số Tăng sinh
này có nơi ăn ở đi học mà vẫn giữ được nếp sống thiền môn, năm 1960 Ban Quảng
Trị ủy cho Ngài vào Sài Gòn mua một sở đất (nay ở đường Lê Quang Định) tại xã
Hạnh Thông, quận Vò Gấp, xây dựng Tu Viện Quảng Hương Già Lam. Nơi đây cũng là
trú sở của Ngài sau năm 1963, cho tới ngày viên tịch.
Năm 1962, Ngài dẫn đầu phái đoàn Phật Giáo miền Nam tham dự
Đại Lễ thế giới Phật lịch 2500- ngày Đức Phật nhập Niết Bàn tại thủ đô
Vientaine Lào.
Năm 1963, sự kỳ thị tôn giáo xảy ra dưới chính quyền Ngô Đình
Diệm. Ngài trở về Huế cùng chư Tăng lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi hỏi tự do tín
ngưỡng và bình đẳng tôn giáo. Ngài bị bắt giam và đưa vào Sài Gòn. Khi trung
tâm đầu não của đấu tranh chuyển từ Huế vào Sài Gòn, Ngài lại tích cực tham
gia. Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đỗ, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất ra đời, Ngài được cử vào Ban Dự thảo hiến chương và sau đó được bầu
vào chức Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp, Kiêm Tổng Vụ Tài Chánh. Với trách
vụ này Ngài đã tổ chức được ba hội nghị hoằng pháp (tại Phật Học Viện Nha
Trang, chùa Xá Lợi, chùa Ấn Quang), thành lập đoàn giảng sư phân công tới các
địa phương thuyết giảng Phật Pháp, và thành lập thêm được Phật Học Viện Phổ Đà
ở Đà Nẵng.
Năm 1964, Ngài làm Viện Trưởng Viện Cao Đẳng Phật Học đạt tại
chùa Pháp Hội tiền thân của Viện Đại Học Phật Giáo Vạn Hạnh ngày 07-11-1981 Đại
Hội Thống Nhất Phật Giáo được tổ chức tại chùa Quán Sứ Hà Nội, thành lập Giáo
Hội toàn quốc với danh xưng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Ngài được bầu làm Chủ
Tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương nhiệm kỳ I.
Trách nhiệm Phật sự khó khăn cho nền Thống Nhất Phật Giáo
hoàn thành, đáng lẽ đã đến lúc Ngài lui về an trú tại chốn Già Lam thanh tịnh. Nhưng
Ngài đã không quản tuổi già sức yếu, vẫn một lòng phụng sự đạo pháp. Ngài đã
dẫn đầu đoàn đại biểu Phật Giáo Việt Nam tam dự Đại Hội lần thứ 5
(1979), lần thứ 6 (1982) của Tổ Chức Phật Giáo Châu Á vì Hòa Bình (ABCP) họp
tại Mông Cổ. Năm 1980, Ngài làm trưởng đoàn đại biểu Tôn Giáo Việt Nam dự hội
nghị các nhà Tôn Giáo Thế Giới vì hòa bình và giải trừ quân bị, chống chiến
tranh hạt nhân, tổ chức tại Nhật Bản. Năm 1981, Ngài làm trưởng đoàn đại biểu
Phật Giáo Việt Nam dự hội nghị các nhà hoạt động Tôn Giáo Thế Giới vì hòa bình
và sự sống, chống chiến tranh hạt nhân, tổ chức tại Liên Xô.
Năm 1983, Ngài tham dự hội nghị các vị đứng đầu Phật Giáo 5
nước Châu Á tổ chức tại thủ đô Veintaine Lào. Cũng năm này, Ngài được cử làm Ủy
Viên Đoàn Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam.
Vào những năm tháng cuối đời, sau khi đã đem bao tâm lực cống
hiến cho sự chấn hưng Phật Giáo, cho sự phát triển và thống nhất các hệ phái
dưới một mái nhà Phật Giáo, cho sự tu hành thăng tiến của lớp hậu sinh, sức
khỏe của Ngài có phần suy giảm nhiều.
Ngày 02 tháng 3 năm Giáp Tý, tức ngày 02 tháng 4 năm 1984,
sau một cơn suy tim đột ngột, Ngài đã thâu thần viên tịch tại Bệnh viện Thống
Nhất, thọ 76 tuổi đời, 56 tuổi đạo.
Ngoài những đóng góp Phật sự từ ngày xuất gia cho đến ngày
lãnh đạo các trọng trách trong Giáo Hội, Hòa Thượng Thích Trí Thủ còn để lại
cho hậu thế nhiều sáng tác, dịch phẩm có giá trị như:
- Kinh Phổ Hiền.
- Mẹ Hiền Quán Thế Âm.
- Kinh Vô Thường.
- Kinh A Di Đà (thể
thơ 4 chữ).
- Pháp Môn Tịnh Độ.
- Nghi Thức Phật Đản.
- Tứ Phần Luật.
- Nghi thức Truyền
Giới Tại Gia và Bồ Tát Thập Thiện.
- Luật Tỳ Kheo.
- Để trở thành người
Phật tử.
- Kinh Bất Tăng Bất
Giảm.
- Thường Bất Khinh Bồ
Tát.
- Phát Bồ Đề Tâm.
- Thử vạch quy chế đào
tạo Tăng tài.
- Nghi thức tụng niệm
hàng ngày của giới Phật tử.
- Điều căn bản cho
giới Phật tử mới quy y v.v (và một số tác phẩm văn thơ khác.)
Nói đến Hòa Thượng, là nói đến sự nghiệp thống nhất Phật Giáo
Việt Nam giữa các hệ phái, từng giai đoạn lịch sử từ trước 1954 cho đến sau
1975 và cho đến khi hoàn thành bản nguyện. Ngài là thuyền Bát Nhã đưa Phật Giáo
Việt Nam
bước qua lịch sử và làm nên lịch sử. Ngài đã đi qua, nhưng lịch sử vẫn còn lại
ngàn năm với công hạnh và hình bóng Ngài trong lòng bao thế hệ kế thừa.
Chú Thích:
1) Hội Việt Nam Phật Học vốn là hậu thân của Hội An Nam Phật
Học, thành lập năm 1948 đặt trụ sở tại số 1B đường Nguyễn Hoàng - Huế.
Source: Danh Tăng Việt Nam,
Tập I,
Thích Đồng Bổn chủ Biên – Thành Hội Phật Giáo,