Ngư dân cao đạo
Ông
Tô Văn Thiện, Viện nghiên cứu Phật giáo Việt Nam cho biết: Theo sách
Trùng san Thần Quang Tự Phật tổ bản hành thiền uyển ngữ lục tập yếu,
Thiền sư Không Lộ đời thứ 9 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Sư họ Dương, không
biết tên thật là gì quê ở làng Hải Thanh. Gia đình thiền sư vốn làm
nghề chài lưới, đến đời sư nặng khối tình nhân thế, ông bỏ đi theo đạo
phật. Từ một ngư phủ ông theo Thiền sư Lôi Hà Trạch xuất gia cùng làm
bạn với các thiền sư Giác Hải và Từ Đạo Hạnh.
Cũng
theo truyền thuyết còn lưu lại trong dân gian, con đường tu của Thiền
sư cũng gian nan lắm. Phong cách sư thoát tục, ăn mặc thế nào xong
thôi, không vướng mắc vật chất thường tình. Sư tập trung cho việc thiền
định. Trải bao năm tu hành, ăn cây mặc cỏ quên cả thân mình Thiền sư
đã đắc đạo.
Dân
gian thành kính, tôn sùng những vị đại sư thời ấy. Với họ có một pháp
thuật huyền bí, hoá giải được mọi tai ương. Sau khi các đại sư này cùng
phò giúp Lý Công Uẩn lên ngôi vua với những bài kệ (sấm ký) thì thân
thế của thiền sư càng thêm thần kỳ.
Tương
truyền, sau khi đắc đạo sư có thể bay lên không trung, hoặc đi trên
mặt nước giống như Sư tổ Đạt Ma. Thiền sư đi vào rừng sâu, núi cao cọp
thấy cũng phải cúi đầu, rông gặp cũng phải nép phục. Những pháp thuật
của Thiền sư không thể đo định được.
Chẳng
thế mà, như một người nhìn thấy trước tương lai, Thiền sư cùng với các
Thiền sư khác đã nhìn nhận về sự ra đời của vương triều nhà Lý. ông
cũng là biểu tượng cho sự giác ngộ.
Trong một lần gặp Đại đức Thích Thanh Trung, Thiền sư cất giọng đọc một
bài kệ của Thiền sư để khẳng định sự toả sáng giác ngộ (sự chứng ngộ -
theo ngôn từ nhà Phật).
Bằng
giọng sang sảng Đại đức cất giọng đọc: "Trạch đắc long xà địa khả cư /
Dã tình chung nhật lạc vô dư /Hữu thời trực thường cô phong đỉnh /
Trường khiều nhất thanh hàn thái hư".
Sau
này nhà văn Ngô Tất Tố đã dịch bài kệ này như sau: "Lựa nơi rồng rắn
đất ưu người /Cả buổi tình quê những mảnh vui / Có lúc thẳng lên đầu
núi thẳm /Một hơi sáo miệng, lạnh bầu trời". Tôi là người ngoại đạo nên
không thể hiểu tư tưởng của Thiền sư. Đại đức cắt nghĩa bài kệ là con
đường tu của vị Thiền sư, đạt đến đỉnh núi của sự giác ngộ.
Ngàn
năm sau, đọc bài kệ cảm khái của Thiền sư Không Lộ tăng giới vẫn còn
cảm khái. Vượt thẳng lên đỉnh núi cao cô quạnh Thiền sư là biểu tượng sự
chứng ngộ, chân lý giải thoát, đỉnh cao của giác ngộ. Chứng ngộ thiền
là sự chứng ngộ nội tâm mình, người tu thiền phải tự tin ở chính mình,
tự đốt đuốc soi lối tìm đường mà đi và kiên định con đường mình đã chọn
để tìm ra chân lý, đạt đến giác ngộ. Từ chứng ngộ được Phật tính mà
người tu thiền phải vượt qua để đạt đến ngã không, nhân không, vật
không. Khi đã đến đỉnh cao của sự chứng ngộ thì cái bản thể nhỏ bé của
mình đã hoà đồng vào vạn vật, trở thành một tế bào của vũ trụ...
"Từ
trên đỉnh cô phong giữa cõi thái hư âm u, lạnh lẽo ấy Thiền sư đã cất
tiếng kêu ngân dài trong trạng thái sảng khoái, tâm chứng ngộ Phật pháp
giữa hư không mênh mông, tịch mịch ấy đã vang vọng, sưởi nồng biết bao
sinh linh của mọi vật và con người hiệu hữu tạm thời ở cõi vô thường
này", ông Tô Văn Thiện khẳng định.
Ngàn năm thân xác vẫn còn nguyên
Sử
sách còn ghi lại, ngày 3 tháng 6 năm Hộ Trường Khánh thứ 10 (1119) đời
Lý Nhân Tông, Thiền sư Không Lộ viên tịch. Theo các sư tăng thời nay,
khi ấy môn đồ của Thiền sư đã làm lễ hoả táng, thu xá lợi Phật, xây
tháp thờ ở trước chùa Nghiêm Quang là nơi sư trụ trì. Tuy nhiên, cũng
có một truyền thuyết dân gian còn được lưu lại nơi chùa Keo (Vũ Thư -
Thái Bình) kể rằng trước khi viên tịch, Ngài hóa thành khúc gỗ trầm
hương, lấy áo đắp lên và khúc gỗ biến thành tượng. Thánh tượng ngày nay
còn lưu giữ trong hậu cung quanh năm khóa kín cửa.
Cứ
12 năm một lần, làng Keo lại cử ra một người hội chủ và bốn viên chấp
sự để làm lễ trang hoàng tượng Thánh. Những người này phải ăn chay, mặc
quần áo mới, họ rước thánh tượng từ cấm cung ra rồi dùng nước dừa pha
tinh bưởi để tắm và tô son lại cho tượng Thánh. Công việc này phải làm
theo một nghi thức được quy định rất nghiêm ngặt, những người chấp sự
phải tuyệt đối giữ kín những gì đã thấy trong khi trang hoàng tượng
Thánh.
Chùa
Keo một công trình kiến trúc bằng gỗ độc đáo đã trường tồn cùng thời
gian và ngày nay là biểu tượng của quê lúa Thái Bình. Hàng năm người dân
nơi đây vẫn tổ chức lễ hội để nhớ tới Thiền sư. Trong ngày hội, người
ta tổ chức lễ rước kiệu, hương án, long đình, thuyền rồng và tiểu đỉnh.
Trên con sông Trà Lĩnh ngang trước chùa chảy ra sông Hồng, người đi
hội đổ về xem cuộc thi bơi trải, thi kèn trống, thi bơi thuyền và biểu
diễn các điệu múa cổ. Trong chùa thì có cuộc thi diễn xướng về đề tài
lục cúng: hương, đăng, hoa, trà, quả, thực, thật sinh động.
|
Chùa Keo là một cổ tự có gần 1000 năm tuổi. Theo sách Không Lộ Thiền sư
ký ngữ lục, năm 1061, Không Lộ dựng chùa Nghiêm Quang tại làng Giao
Thủy (tên nôm là làng Keo) bên hữu ngạn sông Hồng. Sau khi Thiền sư
Không Lộ qua đời, chùa Nghiêm Quang được đổi tên là Thần Quang Tự. Theo
thời gian, nước sông Hồng xói mòn dần nền chùa và đến năm 1611, một
trận lũ lớn đã cuốn trôi cả làng mạc lẫn ngôi chùa. Dân làng Keo phải
bỏ quê cha đất tổ ra đi: Một nửa chuyển về đông Nam hữu ngạn sông Hồng,
về sau dựng nên chùa Keo - Hành Thiện (nay thuộc tỉnh Nam Định); một
nửa vượt sông đến định cư ở phía đông Bắc tả ngạn sông Hồng, về sau
dựng nên chùa Keo - Thái Bình này.
Đứng
soi mình xuống hồ nước phẳng lặng giữa một không gian thoáng đãng,
chùa Keo không chỉ lưu giữ nhiều di vật quý giá mà còn chứa đựng những
điều huyền bí gắn liền với cuộc đời Thiền sư Không Lộ.
Nơi
đây, vẫn còn những đồ thờ quý giá tương truyền là đồ dùng của Thiền sư
như một bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh
như dát vàng mà người ta kể lại rằng chính do Không Lộ nhặt được thuở
còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu
hành.
Ngàn
năm đã trôi qua, dấu tích của Thiền sư Không Lộ vẫn còn lưu lại tại
ngôi chùa khi xưa sư trụ trì. Nhiều vị cao tăng ngày nay khẳng định,
Thiền sư đã để lại cho hậu thế một tấm lòng bao dung vị tha, dùng ngôn
ngữ của bậc giác ngộ để chuyển hoá tâm thức chúng sinh.
Theo: Đời sống và Pháp luật