Một địa điểm đặc biệt khác nằm gần
Vương Xá (Rājagaha, Rajgir) là khu di tích Đại học cổ Nalanda. Nalanda cách thủ
phủ
Patna
90km
về hướng Đông nam, cách Vương Xá khoảng 12km. Địa danh này ngày nay được xác
định nằm tại ngôi làng Bada Ganon.
Danh xưng Nalanda liên quan đến
nhiều huyền thoại. Theo Tiến sĩ Hiranand Shastri, từ Nalanda xuất phát từ hai
từ Sanskrit là “nalam” và “da”. “Nalam” có nghĩa là cuống hoa sen mà nó biểu
trưng cho trí tuệ, và “da” có nghĩa là người trao. Gộp hai từ lại có nghĩa là
“người trao trí tuệ”. Theo ngài Huyền Trang thì trước đây nơi này có một hồ
nước và có một con rồng (naga) tên là Nalanda sống, nên về sau ngôi tự viện được
xây dựng ở đây đã được đặt theo tên con rồng này. Và dần về sau, ngôi tự viện
này đã trở thành một trung tâm học thuật, tức Đại học Nalanda, một đại học được
xem là cổ nhất trên thế giới.
Theo các kinh Pāli thì Đức Phật đã
viếng thăm nơi này nhiều lần. Khi đi từ Vương Xá đến Hoa Thị Thành, Ngài thường
dừng chân tại vườn xoài của Pavarika và thuyết kinh tại đây. Trong kinh Upali,
Nalanda được đề cập đến như là một vùng đất phồn thịnh. Cuộc đối thoại giữa Đức
Phật và một vị Nigantha đã cho thấy điều đó: “Này gia chủ, ông nghĩ thế nào?
Có phải Nalanda này là phú cường và phồn thịnh, dân chúng đông đúc, nhân dân
trù mật?” Và vị này đã trả lời: “Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Nalanda này là
phú cường và phồn thịnh, dân chúng đông đúc, nhân dân trù mật”. Và trong
kinh Kevatta (Vedaddha), Trường bộ kinh, khi Đức Phật trú tại vườn
Pavarikampa ở Nalanda, một cư sĩ khi đến viếng thăm Ngài cũng đã đề cập Nalanla
là một nơi phồn thịnh, dân chúng đông đúc và kính tin Đức Phật. Và trong một
chuyện tiền thân, Nalanda cũng là nơi mà trong một tiền kiếp, khi còn là một vị
Bồ-tát, Đức Phật là vị quốc vương đóng đô ở đây. Hai vị đại đệ tử của Đức Phật
là Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên vốn xuất thân từ vùng này. Tôn giả Xá Lợi Phất
về sau cũng tịch diệt tại nơi đây. Kỳ-na giáo cũng cho rằng, ngài Mahavira,
người khai sáng nên tôn giáo này, cũng từng viếng Nalanda nhiều lần. Do vậy
Nalanda cũng là một địa chỉ hành hương của người Kỳ-na.
Vua Ashoka khi quy y theo Phật giáo
cũng đã viếng thăm nơi này và cho xây dựng một ngôi chùa tại đây. Một vị sư Tây
Tạng tên là Raranath đã đề cập điều này trong một cuốn sách của mình viết về
lịch sử Phật giáo Ấn Độ. Và ông cũng cho rằng ngài Long Thọ (Nagarjuna) cũng
từng học tại Nalanda. Hai vị đệ tử của ngài Long Thọ là Chandrakirti và
Shantideva cũng là những sinh viên của đại học này. Các nhà Phật học lỗi lạc
khác như nhà logic vĩ đại của Phật giáo là Dignaga (tác giả của
Pramanasamuccaya), Aryadeva, Asanga và Vasubandhu đều được cho là có gắn kết
với đại học này. Khi Nghĩa Tịnh đến nơi này, ngài nói rằng có ba ngàn Tăng sĩ ở
tại tu viện Nalanda và họ được hơn hai trăm ngôi làng ủng hộ. Trong suốt thời
đại Gupta, văn học Đại thừa được nghiên cứu sâu rộng ở Nalanda, đặc biệt là tác
phẩm Madhyamika của ngài Long Thọ. Nhưng từ giữa thế kỷ thứ tám, dưới triều đại
Pala, thì Mật tông cũng bắt đầu được quan tâm ở đây. Và có những Tăng sĩ Tây
Tạng nổi tiếng đã từng sống ở nơi đây như Abhayakaragupta và Naropa.
Nalanda là một khu đại học rất quy
mô của Phật giáo suốt từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ XII. Khu đại học này từng được
ghi nhận là có mười ngàn sinh viên và hai ngàn giáo sư, bao gồm nhiều ngành học
khác nhau, và cũng là một trong những trường đại học mang tầm quốc tế đầu tiên.
Nalanda đã phát triển rực rỡ trong thời kỳ đầu thành lập nhờ vào sự ủng hộ
nhiệt tâm của các đại đế triều đại Gupta, đặc biệt là Kumaragupta,
Harshavardhana (606-47), cũng như những vị vua khác của triều đại Pala.
Nalanda chính thức bị hủy diệt vào
năm 1193, khi những người Hồi giáo Thổ Nhỉ Kỳ dưới sự chỉ huy của Bakhtiyar
Khilji đánh phá nơi này. Họ đã đốt phá trường học, chùa viện và giết các Tăng
sĩ ở đây. Sự kiện này cũng được xem là điểm mốc đánh dấu sự suy tàn của Phật
giáo tại Ấn Độ, mặc dù Phật giáo đã thực sự suy yếu trước đó một vài thế kỷ,
điều này có thể thấy được trong ký sự của ngài Huyền Trang. Khu đại học này
được cho là bị thiêu rụi hoàn toàn và nó đã cháy hàng tháng trời, cũng như tất
cả những Tăng sĩ ở đây phần lớn bị sát hại. Nhưng theo truyền thống Tây Tạng
thì khi bị hủy hoại, nhiều kinh sách ở Nalanda đã được đưa vào Tây Tạng, và
cũng có số vài Tăng sĩ đã sống sót sau sự kiện tang thương này. Vào năm 1235,
một nhà chiêm bái Tây Tạng tên là Chag Lotsawa khi đến đây đã nhìn thấy một vị
đạo sư chín mươi tuổi tên là Rahula Shribhadra cùng với một lớp học bảy mươi
học sinh tại Nalanda. Vị đạo sư này đã thoát khỏi nạn tàn sát của người Hồi nhờ
vào sự giúp đỡ của một vị Ba-la-môn địa phương!
Nalanda bắt đầu được biết trở lại vào thế kỷ XIX. Năm
1872, Bradley đã bắt đầu khai quật một vài nơi ở đây và cho công bố chuyên khảo
của mình. Từ năm 1915 (trong suốt 1915-1937, và sau đó từ 1974-1982), Nalanda
chính thức được khai quật tổng thể dưới sự chỉ đạo của Hội Khảo cổ học Ấn Độ
(Archaeological Survey of India), với sự tài trợ của Hội Royal Asiatic Society
của Anh. Nhiều nền chùa tháp được tìm thấy, nhiều di tích liên quan được phát
hiện. Toàn khu vực Nalanda ngày nay rộng vào khoảng 14 hectas. Tuy đã được khai
quật nhiều, nhưng dựa theo ký sự của ngài Huyền Trang thì những gì được biết
đến chỉ là một phần nhỏ so với tổng thể của Nalanda xưa.
Những địa điểm chiêm bái
Nalanda ngày nay là một trong những
địa điểm thu hút nhiều người tham quan, cả Phật tử và không phải Phật tử. Một
ngôi trường gắn liền với nhiều sự kiện, đã đào tạo nên những nhà Phật học lỗi
lạc, cũng như số phận sau cùng của nó, đã khiến cho nhiều người quan tâm đến.
Và những di tích được khai quật hầu như liên quan đến Phật giáo. Rất nhiều
những di tích khai quật được là những kiến trúc Phật giáo như chùa, tháp, trụ
đá… Có đến 6 ngôi tháp và 11 tinh xá được tìm thấy ở đây.
Dù chỉ còn là những nền gạch, nhưng
đến đây ta vẫn thấy được sự quy mô của Đại học Nalanda xưa. Nổi bật nhất trong
số những gì khai quật được là tháp thờ Tôn giả Xá Lợi Phất. Ngôi tháp này được
đánh dấu là ngôi tháp số ba. Đối diện với tháp này là hai nền tự viện (vị trí
1A và 1B), cổng của nó nằm về hướng Bắc, và xung quanh là các phòng dành cho
Tăng chúng ở. Xa hơn chút nữa là chín ngôi tinh xá khác, cách bố trí đều giống
nhau, chỉ trừ hướng đi là về hướng Đông…
Ngoài việc viếng thăm khu di tích Nalanda, có những địa
điểm quan trọng cần tham quan khác ở vùng này là Bảo tàng Khảo cổ Nalanda
(Nalanda Archaeological museum), Nhà tưởng niệm Huyền Trang (Huien Tsang/ Xuan
Zang Memorial Hall)… Bảo tàng Nalanda được thành lập vào năm 1917, lưu giữ
nhiều tượng Phật, Bồ-tát và tượng các thần Ấn giáo và Kỳ-na giáo, cũng như lưu
giữ nhiều đồ gốm sứ, đĩa đồng, đồng tiền, những chữ viết trên gạch và đá, bích
họa… Những di vật được lưu trữ và trưng bày ở bảo tàng này được cho là mang dấu
ấn nghệ thuật Pala - môn nghệ thuật được giảng dạy tại Đại học cổ Nalanda trước
đây. Bảo tàng Nalanda tọa lạc phía trước khu di tích Nalanda.
Nhà tưởng niệm Huyền Trang được xây
dựng để tưởng niệm và vinh danh những đóng góp to lớn của ngài Huyền Trang đối
với Phật giáo cũng như đối với lịch sử Ấn Độ và Trung Quốc. Công trình này được
khởi công từ 1957, lúc Jawaharlal Nehru còn làm thủ tướng của Ấn, những mãi đến
năm 2007, tức là sau 50 năm mới được khánh thành và mở cửa cho du khách tham
quan. Nhà tưởng niệm Huyền Trang cách Viện Bảo tàng Nalanda khoảng 2km.
Cách đến Nalanda
Sân bay gần Nalanda nhất là ở Patna, thủ phủ của bang Bihar, cách địa
danh này khoảng 93km. Như vậy nếu muốn đến Nalanda bằng đường hàng không, trước
hết ta phải đi máy bay đến Patna, sau đó thuê hoặc đón xe đến Nalanda. Cách
Nalanda khoảng 15km có một ga xe lửa. Nhưng thuận tiện hơn cả là nên đến ga
Gaya, cách Nalanda khoảng 68km, và sau đó thuê hoặc đón xe đi Nalanda. Có những
chuyến xe buýt qua lại giữa hai địa điểm này, và ta cũng có thể đi bằng taxi,
nếu muốn. Nhưng thông thường đối với những người chiêm bái là Phật tử (đến từ
các nước), hành trình chiêm bái Nalanda thường được thực hiện sau khi đã chiêm
bái Bodhgaya. Như vậy cách thích hợp nhất là xuất phát bằng xe từ Bodhgaya để
đi Nalanda. Về thời điểm chiêm bái, thích hợp nhất là từ đầu tháng 10 đến tháng
3 Tây lịch.