Năm
1975 và tiếp theo những năm sau đó, hàng loạt người bỏ nước ra đi với những
phương tiện , hình thức và lý do khác nhau. Dù hòa nhập với xã hội mới, thế hệ
đầu tiên vẫn không tránh khỏi khó khăn về ngôn ngữ, tập quán; chính vì thế mà
trong lòng luôn hướng về quê hương, nơi còn những thân bằng quyền thuộc sống
trong nghèo khó. Trên đất khách tha phương, họ cật lực lao động để ổn định cuộc
sống và có dư để giúp ruột thịt quê nhà. Những năm sau đó họ đóng góp công tác
từ thiện cho đồng bào các vùng sâu vùng xa thiếu tiện nghi vật chất; chính vì
thế mà giếng đóng, cầu đường, học bổng, trường lớp vùng sâu vùng xa được
họ dang tay thực hiện. Ngoài số ít có căn bản học vị và năng lực chuyên
môn, đã thành đạt trên đất khách, đa phần còn lại là những người lớn tuổi, lao
động phổ thông, chính vì thế mà mức thu nhập ngoài tầm kiểm soát không phải
đóng thuế. Những người con theo họ từ Việt Nam hoặc ra đời tại Âu Mỹ, được tiếp
cận văn hóa và nếp sinh hoạt xứ người, tuổi trẻ ấy dễ tiếp thu và nhanh chóng
hòa nhập; tuy nhiên vẫn còn 50% bảo lưu truyền thống quê hương ông bà, vì thế
giữ được nếp sông cổ truyền. Thế hệ thứ ba được ra đời, hoàn toàn sinh ra, lớn
lên trên đất người, cha mẹ họ đã có 50% chịu ảnh hưởng tập quán sinh hoạt và
giáo dục văn hóa bản địa, vì thế, lớp trẻ kế thừa hoàn toàn 90% được báo động
là sẽ mất gốc Việt Nam, ít nói được tiếng Việt. Thế hệ trẻ ít có điều kiện sinh
hoạt chung với ông bà cha mẹ. Các thành viên trong gia đình ít đoàn tụ với nhau
trong mâm cơm hàng ngày, vì công việc đòi hỏi họ thường xuyên ít gặp nhau. Tuy
nhiên, thế hệ trẻ nầy dễ thành đạt do được thừa hưởng tính thông minh và sự cần
cù của một Việt tộc khi được giáo dục đào tạo theo một chương trình văn minh
tiến bộ của Âu Mỹ. Chính vì thế, không ít trẻ trở thành ngôi sao trên nhiều
lãnh vực như toán học, khoa học, y học…
Khi con cháu thành đạt làm đẹp mặt gia phong,
ông bà đó, cha mẹ đó tạ ơn Trời Phật bằng cách đi chùa để cầu nguyện. Ngoài ra,
những thế hệ thứ nhất và thứ hai, dù chưa có cháu con thành đạt, họ cũng có nhu
cầu về tìn ngưỡng sau những ngày làm việc, để bớt trống vắng và nhớ quê.
Họ gặp nhau cuối tuần dưới mái chùa để tìm thấy chút an ủi với đồng hương. Có
nhiều chùa do Phật tử đóng góp xây dựng rồi thỉnh thầy về trụ trì. Với diện
tích quá rộng lớn của nước Mỹ, dân số Việt kiều sống rãi rác khắp nơi, tu sĩ
không đủ đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, vì vậy có những cuộc bảo lãnh từ Việt Nam
qua hoặc các quốc gia khác vào. Cũng không hiếm những tu sĩ đi với diện thăm
viếng, diễn giảng rồi ở lại luôn. Những trường hợp nầy, chùa trở thành nơi
nương náu ban đầu để những tu sĩ trẻ tràn đầy ham muốn mọc cánh tung bay khi
được một số Phật tử quý mến, yểm trợ có một cơ ngơi riêng biệt. Từ đây phát
sanh lắm tệ nạn lạm dụng và chạy theo nguồn lợi của nếp sống thực dụng. Đó là
trường hợp cá lẻ, phần lớn các tu sĩ trẻ tiếp thu văn hóa mới, có tầm nhìn và
cách sống cởi mở hơn, vì thế tâm huyết hoằng pháp cho quần chúng người
Việt có định hướng mà không còn bị áp lực chính kiến như quý thầy trước kia vào
những năm trước. Tuy áp lực chính trị do một số phẩn uất, nhưng hầu hết các tu
sĩ Phật giáo trẻ hiện nay trên đất Mỹ có khuynh hướng tu tập nghiêm túc
hơn và chí nguyện hoằng truyền Phật Pháp tốt hơn.
Phật
giáo du nhập vào đất Mỹ thông qua giới trí thức và các Thiền sư vào thế kỷ XX.
Riêng người Việt đầu tiên có HT Thích Thiên Ân là người đem Phật giáo vào
giới trí thức Âu Mỹ. Ngài thành lập ngôi chùa Việt Nam
rất sớm vào năm 1970 tại California.
Mặc dù Đài Loan, Triều Tiên đều có mặt tại Mỹ trước lâu, họ có trên ngàn ngôi
chùa, nhưng không mấy hiệu quả trong việc hoằng pháp, vì vậy chỉ còn hơn vài
trăm tự viện hiện nay, vì thế sinh hoạt không ảnh hưởng rộng đến xã hội. Đến
khi Thiền sư T. Nhất Hạnh thành lập Làng Mai, tầm sinh hoạt của Tăng Thân bắt
đầu lan tỏa khắp châu Mỹ, và nhất là đợt di dân tị nạn của người Việt, nhu cầu
tôn giáo và tín ngưỡng đòi hỏi hệ thống sinh hoạt thiền môn để giải quyết khát
khao tín ngưỡng của những kẻ xa quê, đồng thời ma chay cho người quá cố theo
tập tục cổ truyền cũng trở nên bức thiết. Chính điều nầy cần các sư tụng
niệm hơn là giảng dạy và tu tập.
Một
khi các tu sĩ trẻ thành lập cơ sở thờ tự riêng, phải đối diện với bao khó khăn
chứ không dễ dàng như quê nhà họ tưởng. Phần lớn họ mua nhà để thờ phượng như
một tư gia. Ít có chùa xử dụng chuông trống như ở Việt Nam, vì bị hạn chế bởi
luật pháp bảo vệ yêu cầu của cư dân bản địa, những chùa như Trúc Lâm ở Atlanta,
Georgia, xa cách nhà dân nên có thể xử dụng chuông trống. Tại thủ đô Hoa
Thịnh Đốn, chùa Hoa Nghiêm ở VIRGINIA,
đường Backlick. Fort
Belvoir phải mất 5 năm
xin phép xây dựng chính thức là một ngôi chùa. Do các Phật tử trí thức đứng ra
thành lập. Một chùa hội như thế mà còn phải đối mặt với pháp lý và công nợ thì
cá nhân một tu sĩ phải xoay xở để đóng thuế và bao nhiêu loại khoản phí khác,
quả là một khó khăn, như vậy thì giờ đâu để tu học hoặc thăng tiến kiến thức
học vị! Ngay cả nhà thờ là cơ sở tín ngưỡng cổ truyền bản địa, còn phải đóng
cửa và chuyển nhượng vì không có tín đồ, không có thu nhập để đóng thuế.
Các
tu sĩ đến Mỹ, một là trụ trì, hai là theo đuổi việc học, ba là diễn giảng, tu
tập và nghiên cứu. Trụ trì gặp phải nhiêu khê như đã nói, việc hỷ cúng từ quần
chúng có hạn vì mức sinh hoạt bản xứ quá cao, thu nhập phổ thông vừa đủ sau khi
trừ bao nhiêu khoản phí như thuế má, bảo hiểm, tiết kiệm… Vả lại, với số tiền
vài ngàn cúng cho chùa tại Mỹ, chả thấm vào đâu, cũng với số tiền đó đem về
Việt Nam giá trị sẽ lớn gấp bội, vì thế họ dồn về V.N để cúng và là từ thiện.
Các vị lớn tuổi mất sức lao động, tiền do con cháu chu cấp hạn chế. Tuổi còn đi
làm, có thể tìm thêm việc phụ thì phải đóng thuế thu nhập. Cuối tuần họ đến
chùa như một lối thoát ức chế tâm lý và nhu cầu tín ngưỡng. Các tu sĩ phải
thông thạo khoa nghi để có thu nhập và gần gủi cộng đồng. Các chùa hội lập ra,
mong có quần chúng tu tập đông, vừa giải quyết công nợ vay ngân hàng, vừa giúp
cho quần chúng có nơi tu học, vì thế đòi hỏi các giảng sư có trình độ tương
thích với bản xứ để thu hút tuổi trẻ, làm mới cách hoằng pháp mà tuổi trẻ hiện
nay không cần đến kinh điển, chỉ cần học hiểu được giáo lý. Những tu sĩ đáp ứng
được đòi hỏi như thế quả là rất hiếm. Các tu sĩ biết ngoại ngữ nói chuyện với
tuổi trẻ, sống với tuổi trẻ, phải là những tu sĩ trẻ, điều nầy, phần lớn tu sĩ
Việt Nam
hiện nay thiếu trình độ.
Có
những tu sĩ từ Việt Nam qua do sự thỉnh cầu, cũng chỉ là những tu sĩ quen cách
diễn đạt trên bục giảng hơn là cách hòa nhập thân thiện bình đẳng của tuổi trẻ
âu Mỹ. Những tu sĩ tốt nghiệp thế học, có thể đảm đương hoằng pháp theo phong
cách mới, quả là hiếm hoi, chưa đủ 10 đầu ngón tay. Hiện nay cũng chỉ vài ba tu
sĩ tuy không còn trẻ, cũng đủ khả năng thu hút một số lớp trung niên và
người cao tuổi qua cách diễn đạt khôi hài, đúng hơn là trò giải trí chứ không
thể xem là giáo dục chuyên sâu vào giáo lý hoặc hướng dẫn tu tập, một nhu cầu
chính đáng của quần chúng tha hương hiện nay. Thỉnh thoảng một vài chùa có khóa
tu, tạm đủ và đúng để tín đồ xem đó là pháp môn khả hữu mà sau khi ra về, họ
còn có thể thực hiện trong cuộc sống thường nhật. Quần chúng mục đích giải
thoát tâm linh chứ không phải trở thành cảm tình viên của tôn giáo hay chỉ là
người thuần phục cung dưỡng. Như vậy, số tu sĩ đáp ứng nghi thức ma chay đã
chưa thể phát triển Phật giáo trên đất nước tiến bộ như âu Mỹ, số tu sĩ đủ năng
lực chuyển hóa quần chúng và giới trẻ đang thiếu trầm trọng, những tu sĩ chuyên
tu và thực hành có hiệu quả để quần chúng nương tựa cũng đang là vấn đề chưa
đáp ứng đủ hiện nay. Số vị chuyên tu, ít nằm trong lớp tu sĩ trẻ, phần nhiều là
bậc lão thành đã kinh qua trường đời, chinh vì thế mà tâm họ thuần thành và
chân chính, họ không tham cầu danh lợi, địa vị, họ không muốn sở hữu chùa
chiền, họ ẩn mình để chuẩn bị hành trang cho cuộc sống kiếp sau; thời gian còn
lại trên cỏi đời đối với họ rất quý mà thời trai trẻ họ đã phí phạm vô lý.
Những bậc chuyên tu như thế, về mặt sinh hoạt, quả thật họ không giúp được gì
cho cộng đồng người Việt, nhưng rất khả dụng cho từ trường tâm linh. Chính
những nguyên nhân nầy, chùa mọc rất nhiều làm cho kinh tế và tài chánh của quần
chúng phân tán mỏng, tỷ lệ nghịch với hiệu quả hoằng pháp, để rồi cộng đồng
Phật tử không còn biết nương và tin vào ai trong khi mỗi tu sĩ cát cứ một lãnh
địa khi mà ảnh hưởng chính trị bị áp đặt, và không thiếu những lãnh địa đó
không ăn nên làm ra, họ lại bán như bán căn nhà bình thường, họ bỏ luôn tôn
tượng, pháp khí cho kẻ mua nhà muốn vứt đâu thì vứt. Chưa nói đến áp lực chính
trị phải hô hào ủng hộ chống đối để có đất sống. Cộng đồng Phật giáo Việt Nam trên
đất Mỹ hiện nay như chợ trời bày đủ loại mặt hàng, quần chúng bất lực nhắm mắt
chọn lựa giữa hàng chục tổ chức đoàn thể giáo hội...mặc dù có trên 600 ngôi
chùa Việt khắp nước Mỹ.
Tóm
lại, tuổi trẻ Việt Nam
tại Âu Mỹ, tuy thành đạt trong xã hội, nhưng truyền thống tín ngưỡng tâm linh
vẫn là điều ràng buộc theo huyết thống; sinh hoạt các chùa chưa đủ sức thuyết
phục, các tu sĩ chưa thu hút được chúng qua giáo lý cao siêu. Phải mất nhiều
năm nữa, lớp tu sĩ trẻ hấp thụ văn hóa và ngôn ngữ, tập quán bản địa mới giúp
phát triển Phật giáo Việt Nam trên đất âu Mỹ, và đáp ứng thỏa mãn nhu cầu tâm
linh của giới trẻ Việt Nam đang được cha mẹ ông bà cố duy trì truyền thống tộc
Việt. Quý thầy Việt Nam trên đất Mỹ phải đối diện quá nhiều khó khăn, vừa áp
lực chính trị, vừa áp lực kinh tế, vừa áp lực học vấn, vừa đáp ứng nhu cầu tín
ngưỡng tâm linh và khoa nghi tôn giáo cho quần chúng trong khi phải đáp ứng
những điều kiện khắc khe của luật pháp Hoa Kỳ về hội đoàn có lợi nhuận mà
không xem tôn giáo là một mãng tách biệt như ở Việt Nam; Thế nhưng, quý thầy và
quần chúng Phật tử vẫn luôn dành sự quan tâm cho đồng bào trong nước để
chia xẻ một phần vật chất có được sau những năm tháng vất vả trên xứ người.
Nhìn những vật dụng của quý thầy ở Mỹ, trong đó có cell phone, mới thấy giản dị
so với các tu sĩ trong nước rất nhiều. Có những tu sĩ phải tìm việc làm để tự
sống. Có đến mới thấy, hiểu, cảm thông cái khó của họ; những người còn sống
trên quê hương, cứ nghĩ ai ở Mỹ cũng sung sướng giáu sang! Vật dụng chư Tăng
còn như thế thì Phật tử tín đồ cũng không khá hơn là bao.
MINH MẪN
19/6/2011
Hình trên: Chùa Huệ Quang , TP. Santa
Ana trong ngày lễ Vu Lan
Hình thứ nhì là hình Chùa Việt Nam TP. Los
Angeles do Thầy Thích Thiên Ân khai sáng