Đạo Phật là đạo « trí tuệ ». Trí tuệ là sự nghiệp, vừa là
phương châm giáo dục vừa là mục tiêu giáo dục của đạo Phật. Trí tuệ tạo
nên kiến thức về phương pháp và phương pháp luận để giải quyết vấn đề
trong mọi lĩnh vực, là nền tảng dẫn đến thành tựu trong mọi sự nghiệp
của người tại gia. Nếu hiểu trí tuệ là kết quả của đời sống đạo đức
(giới) và chuyển hóa nội tâm (định) thì trí tuệ là sự nghiệp tâm linh và
nhập thế của tu sĩ Phật giáo.
Đạo Phật muốn tồn tại và phát triển phải có những tu sĩ truyền giáo và hệ thống giáo dục Phật giáo.
Bài viết này trình bày lịch sử và hiện trạng giáo dục Phật giáo Việt
Nam nhằm rút ra những điều cần thiết cho sự phát triển hệ thống giáo dục
Phật giáo những năm tới.
A. Gi áo dục Phật gi áo Vi ệt Nam từ đầu thế kỷ XX đến năm 1981
I. Những thập niên đầu thế kỷ XX
Hệ thống GDPG nước ta những năm đầu thế kỷ XX là hệ thống ngang gồm
các trường Hạ trường Gia giáo của các Tổ đình, Sơn môn, Pháp phái.
An cư kiết Hạ (trường Hạ) là truyền thống từ thời đức Phật còn tại
thế. Đó là sự tu học tập trung bắt buộc đối với tu sĩ Phật giáo vào ba
tháng mùa hạ. Chương trình tu học trong ba tháng này do vị trụ trì từng
chùa đặt ra, số lần đi Hạ là tuổi đạo của tu s ĩ. Cứ vào mỗi Hạ, vị trụ
trì chùa vân tập các đệ tử để giảng kinh, luật, luận bằng Hán văn, ghi
chép rất đơn giản, bàn ghế chẳng có gì, người học ngồi trên bàn, trên
giường, thậm chí ngồi trên nền miễn sao họ hiểu được và hành trì tu
chứng thăng tiến là tốt. Vào đầu thế kỷ XX, những trường đó gọi là đạo
tràng.
Các lớp tu học do các tu sĩ đức cao đạo trọng mở và trực tiếp giảng dạy tại chùa (tổ đình) do quý ngài trụ trì.
- Ở Bắc Kỳ: các Tổ đình : Vĩnh Nghiêm, Bình Vọng (Bằng Sở), Tế
Xuyên – Bảo Khám, Đồng Đắc, sơn môn Trung Hậu, Hồng Phúc, Bà Đá v. v…
- Trung Kỳ: Huế có đạo tràng - trường Hạ : Thiên Hưng, Báo Quốc, Thuyền Tôn, Bình Định có Long Khánh, Thập Tháp, v.v…
- Nam Kỳ: các chùa Giác Hoa (Bạc Liêu), Vĩnh Tràng (Mỹ Tho), Bửu Lâm (Cao Lãnh), Long
Khánh, Long Phước (Trà Vình), Giác Lâm và Phụng Sơn ở Sài Gòn v.v…
Tuy nhiên từ thời Lê - Nguyễn, Nho giáo lấn sân, Phật giáo thiếu sự
hộ pháp của triều đình, bản thân Phật giáo không có sự cải cách nên tăng
đồ thì hủ bại, Phật giáo suy vi mà nguyên nhân chính là do tăng đồ thất
học* .
Cần phải chấn hưng Phật giáo mà nhiệm vụ đầu tiên là xây dựng hệ
thống giáo dục Phật giáo mới để đào tạo các tu sĩ truyền giáo có phẩm
hạnh và học thức.
II. Thời kỳ chấn hưng Phật giáo
Có thể nói công cuộc chấn hưng Phật giáo từ năm 1930 - 1954 đã tạo
nên diện mạo mới cho hệ thống giáo dục Phật giáo, và chính hệ thống này
đã đào tạo nhiều tăng tài, nhiều bậc cư sĩ đức trọng tài cao góp phần
vào sự phát triển của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX. Diện mạo mới đó là
các trường Phật học tập trung, có thi tuyển, có chương trình đào tạo đối
với từng cấp (hệ thống dọc) của các Hội Phật học xuất hiện bên cạnh các
trường Gia giáo, trường Hạ
1. Ở miền Nam
Ngày 20/8/1931 Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học được cấp giấy phép
hoạt động. Mục tiêu hàng đầu của Hội là lập Thích học đường. Sau hai năm
Thích học đường của Hội ở chùa Long Sơn (Sài Gòn) vẫn không đi vào hoạt
động do Phó hội trưởng Trần Nguyên Chấn cản t rở nên HT Lê Khánh Hoà từ
bỏ chức Hội trưởng và Chủ nhiệm tạp chí Từ Bi Âm về chùa Long Hải cùng chư tăng, ngày 29/1/1933, tổ chức Phật học đường lưu động 3 tháng một khoá, lấy tên là Liên đoàn Phật học xã. Lớp
đầu tiên có 50 tăng sinh học tại chùa Long Hoà (Tiểu Cần, Trà Vinh),
hai Hoà thượng Khánh Anh và Pháp Hải giảng dạy, HT Khanh Hoà lo vận động
kinh phí. Khai giảng ngày 1/3 kết thúc ngày 1/6/1933. Sau 2 lớp mở tại
chùa Thiên Phước (Trà Ôn, Vĩnh Long) và Viên Giác (Bến Tre) lớp học
phải dừng vì không có kinh phí.
Ngày 13/8/1934, Hội Lưỡng Xuyên Phật học thành lập, ngày 15/9/1935 Hội khai giảng Phật học đường Lưỡng Xuyên (20
người) do các HT Huệ Quang Khánh Anh làm giảng sư, HT Khánh Hoà làm đốc
giáo. Cư sĩ Huỳnh Thái Cửu và Ngô Trung Tín mua tặng Phật học đường một
bộ Đại tạng kinh làm tài liệu học tập. Có một lớp Ni sinh do HT Minh
Tịnh điều khiển. Lớp Sơ đẳng này (có thi tuyển đầu vào) học 3 năm, theo
chương trình của An Nam PHĐ (Huế).
Năm 1935, Hội xuất bản Phật Học Giáo Khoa (do Trần Huỳnh tức Huệ Giải
soạn) bằng hai thứ tiếng Việt – Hán. Năm 1936 Hội gửi 3 tăng sinh và
năm 1939 gửi 6 tăng sinh ra học ở Sơn Môn Học Đường Huế.
Năm 1941 trường đóng cửa vì thiếu tiền, chỉ đủ sức duy trì ba lớp tại Sa Đéc, Kế Sách (Sóc Trăng) và Phú Nhuận (Sài Gòn).
Năm 1940, HT Hoằng Khai mở trường Hương tại chùa Thiên Phước ga Tân
Hương (Mỹ Tho), có hai lớp dành cho tăng (51 vị) và ni (49 vị), pháp sư
bên tăng là ngài Khánh Anh, pháp sư bên ni là bà Diệu Kim (hiệu là Hoàn
Phước, chị ruột ngài Thiện Hoa). Cũng trong năm này, tại chùa Giác
Linh, Sa Đéc mở lớp dạy ni chúng, hai giảng sư là Pháp sư Mật Hiển (Huế)
và pháp sư Thích nữ Diệu Tịnh.
Năm 1943 HT Khánh Hoà về chùa Vĩnh Bửu, Bến Tre, tổ chức được một lớp Phật Học Đường cho Ni chúng.
Ngày 11/5/1943, Phật học đường Lưỡng Xuyên mở lớp Cao đẳng nhất niên,
có 10 học tăng như thầy Đồng Huy, Quảng Liên, Huyền Quang, Huệ Hưng,
Trí Minh v.v... HT Huệ Quang thỉnh Thượng toạ Mật Thể, Như Ý, Nhựt Liên ở
Huế vào dạy tới năm 1945 thì trường ngưng hoạt động.
Năm 1945, các Thượng tọa: Thiện Hoa và Trí Tịnh dẫn một số học tăng
từ Huế vào Sài Gòn, một số trở về quê hoặc tham gia kháng chiến, còn một
số thì trú tạm tại chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho của HT An Lạc, rồi dẫn về
chùa Phật Quang, Trà Ôn (Vĩnh Long) của ngài Thiện Hoa. Bấy giờ nơi đây
là vùng Việt Minh kiểm soát, một số học tăng lại quy tụ về đây học, sống
và tham gia công tác xã hội. Giáo sư đông đảo gồm quý Pháp sư tốt
nghiệp Cao đẳng Phật học đường Huế cùng đến đây lo việc dạy bảo như quý
vị : Trí Tịnh, Quảng Minh, Huyền Dung, Đạt Tôn, Như Mỹ v.v... học chúng
đông tới 40 vị học lớp cao như thày Quảng Liên, Trí Minh, Phước Càn, Bửu
Huệ, Huệ Hưng v.v... cuối năm 1946 quí ngài Trí Tịnh, Huyền Dung, Quảng
Minh thấy vùng này khó khăn nhiều việc, nên 3 vị này trở lên Sài Gòn mở
Phật học đường Liên Hải đầu năm 1947, tại Bình Trị Đông, cách Chợ Lớn 5
km. Lớp học mượn chùa Vạn Phước ở xã đó. Từ đó quý Pháp sư mở thêm
trường Mai Sơn, sau dời xuống chùa Sùng Đức (ngài Huyền Dung). Ngài Hành
Trụ mở lớp Sơ đẳng Giác Nguyên bên Khánh Hội. Năm 1950 hợp nhất tại
chùa Sùng Đức, từ đó gọi là PHĐ Nam Việt, năm 1951 dời hết xuống chùa Ấn
Quang.
Nhìn chung: Mặc dù Nam Kỳ có nhiều Hội Phật học như NKNCPH, LXPH,
Kiêm Tế Phật học, v.v... nhưng thời kỳ 1930-1945 chỉ có Hội LXPH mở
trường đào tạo tăng tài, danh xưng Phật Học Đường bậc Tiểu học (sơ đẳng)
học 5 năm theo chương trình của Sơn Môn Học Đường Huế. Giảng sư, Đốc
giáo là các Hoà thượng : Khánh Hoà, Khánh Anh, Huệ Quang...có sự giúp đỡ
của thầy Mật Thể. Các cư sĩ Huỳnh Thái Cửu, Ngô Văn Tín, Trần Huỳnh,
Trần Văn Giác, Nguyễn Văn Khoẻ, quý Hoà thượng Khánh Hoà, Võ Khánh Anh,
Thích Huệ Quang là những người có nhiều đóng góp cho các trường của Hội.
Ngoài ra Hội còn gửi tăng sinh ra học ở Huế như quý ngài : Thiện Hoà,
Hiển Thuỵ, Thiện Hoa, Hành Trụ, Chí Thọ v.v... đó là những cốt cán sau
này của giáo dục Phật giáo miền Nam. Tuy nhiên do nguồn kinh phí chủ yếu
phụ thuộc vào kinh tế nơi chùa mở lớp nên không ổn định dẫn tới việc mở
trường thất thường.
2. Ở miền Trung
Năm 1929 HT Giác Tiên tổ chức trường Sơn Môn Học Đường tại chùa Trúc
Lâm do Ngài trụ trì, thỉnh HT Phước Huệ chùa Thập Tháp, Bình Định ra chủ
giảng, các đệ tử của ông như Mật Khế, Mật Thể, Mật Nguyện, Mật Hiển và
cư sĩ Lê Đình Thám theo học...
Năm 1932, Hội An Nam Phật học thành lập, một năm sau HT Giác Tiên sai thày Mật Khế ra chùa Vạn Phước mở lớp Tiểu học thu nhận 50 học tăng chưa thụ giới Sa di vào học và gọi là An Nam Phật học đường (ANPHĐ), bậc tiểu học, học theo chương trình 5 năm : 2 năm đầu có học toán và quốc văn, chưa thấy học luận. Nếu sau 5 năm học Tăng sinh nào thi đỗ mới được thụ giới Sa di và lên bậc Trung học học
tiếp. Năm 1936 trường chuyển về chùa Ông rồi về chùa Thánh Duyên (Tuý
Ba). Năm 1937 chuyển về chùa Báo Quốc do Thiền sư Thích Trí Độ làm Đốc
giáo.
Năm 1934, HT Giác Tiên cùng thầy Mật Khế Tổng Thư ký Sơn môn Huế mở lớp An Nam Phật học đường bân Trung học tại chùa Trúc Lâm, có 50 học tăng, sau chuyển về chùa Tây Thiên.
Năm 1935, HT Giác Tiên lại mở một lớp Sơn môn học đ ường (SMHĐ) bậc
Trung học tại chùa Tường Vân, Huế giao HT Tịnh Khiết trụ trì chùa trông
coi đồng thời mở một lớp SMHĐ bậc Đại học , HT Phước Huệ lại
thỉnh giảng hai lớp này. Đến năm 1944 các lớp của SMHĐ đều được chuyển
về chùa Linh Quang và ngài Trí Thủ được giao làm Giám viện đồng thời trụ trì chùa.
Tới 1939, tại chùa Báo Quốc đã có trường ANPHĐ với hai cấp tiểu học và trung học. Cùng năm này, Hội mở một lớp cao hơn, đó là Cao đẳng Phật học đường (CĐPHĐ Báo Quốc.
Năm 1944, bác sĩ Lê Đình Thám và Pháp sư Trí Độ lập Đại tùng lâm Kim
Sơn ở Lựu Bảo, Huế, trường ANPHĐ gồm cả ba cấp và đổi thành trường CĐPHĐ
chuyển lên đây.
Năm 1934, ngài Giác Tiên cùng giảng sư Mật Khế mở tiếp lớp An Nam
Phật học đường cấp Trung học, có 50 học tăng, sau trường chuyển về chùa
Tây Thiên. Đến năm 1939, tại chùa Báo Quốc đã có trường An Nam Phật học
đường với hai cấp Tiểu học và Trung học. Cũng năm này, quí ngài lại
thành lập một lớp cao hơn đó là Cao đẳng Phật học đường Báo Quốc. Năm
1944, bác sĩ Lê Đình Thám và Pháp sư Thích Trí Độ lập Đại tùng lâm Kim
Sơn ở Lựu Bảo. Trường An Nam Phật học đường gồm cả ba cấp và đổi thành
trường Cao đẳng Phật học đường đã được chuyển lên đây.
Năm 1932, hai Hòa thượng Giác Tiên và Tịnh Khiết cử Ni sư Diệu Không
và cụ bà Ưng Bàng mở Ni trường (có 40 người) tại chùa Từ Đàm, do Ni
trưởng Diệu Hương làm Lãnh chúng. Từ năm 1934 trở đi, Ni viện ngày càng
hưng thịnh, có lúc Ni chúng cả ba miền hơn 100 vị theo học, cuối năm này
trường chuyển về chùa Diệu Đức.
Năm 1940, Đoàn Thanh niên Phật học Đức dục ra đ ời, sau đó là manh
nha Gia đình Phật hóa phổ do cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám khởi xướng
(1943). Ngày 8/12 năm Mậu Tý (đầu năm 1949) Gia đình Phật tử chính thức
ra đời tại chùa Từ Đàm, Huế góp phần giáo dục „Đức dục” và “Trí dục”
cho thanh thiếu niên Phật tử với các cấp Sơ thiện, Trung thiện, Chánh thiện phù
hợp với các lứa tuổi. Phong trào Gia đình Phật tử phát triển ra Bắc
(15/10/1950), vào Nam tới năm 1973 số đoàn sinh GĐPT miền Nam lên đến 20
vạn người.
Tóm lại: Trong cả nước, Sơn môn Huế và Hội ANPH là nơi đầu tiên tổ
chức các lớp SMHĐ và ANPHĐ có bài bản (chương trình, nội dung, đủ ba bậc
học), có cơ sở vật chất khá tốt và duy trì được lâu dài bởi nguồn kinh
phí dồi dào. Có giảng sư và đốc giáo giỏi, đào tạo được nhiều tăng tài
làm căn bản cho phát triển Phật giáo sau này ở miền Nam. Hội còn tiếp
nhận các tăng ni sinh từ miền Nam và miền Bắc vào học. Có trường Ni học
và có cả chương trình học tập cho các cấp Gia đình Phật tử.
Những người có công lao lớn trong Giáo dục Phật giáo miền Trung là HT
Giác Ti ên, Tịnh Khiết, các thày Mật Khế, Mật Nguyện, Lê Đình Thám,
Thích Trí Tịnh, Quốc sư Phước Huệ, Pháp sư Thích Trí Độ.
3. Ở miền Bắc
Sau chuyến đi tham cứu các trường Phật học ở Huế của Thượng tọa Tố
Liên (1936), Hội Phật giáo Bắc Kỳ đã xây dựng xong chương trình các cấp
học, lần lượt mở lớp Tiểu học ở chùa Quán Sứ, Hà Nội (12/1940 chuyển lên
chùa Cao Phong, Phúc Yên), lớp tăng học ở chùa Côn Sơn, chùa Hương Hải,
tỉnh Hải Dương; mở lớp Trung học, Đại học tại chùa Phúc Khánh (chùa Sở)
ở Hà Nội. Lớp Ni học tại chùa Bồ Đề, tổng số học sinh trên 100 vị.
Ngoài ra còn có lớp tăng học tại Tùng lâm Văn Miếu Hưng Yên, lớp tăng
học tại chùa Bút Tháp, Bắc Ninh.
Tháng 11 năm 1944 trường Phổ Quang (do cư sĩ Thiều Chửu xây dựng)
khai giảng, có 62 trò (30 trò trả tiền, 32 trò được bố thí). Đây là
trường vừa học (theo chương trình nhà nước) vừa làm (làm hàng tiểu thủ
công nghiệp) đầu tiên ở xứ Bắc - một mô hình giáo dục sáng tạo của Hội,
được nhiều người ủng hộ đã cuốn hút được nhiều học sinh gia cảnh khó
khăn nhưng có chí tiến thủ.
Năm 1949, ở vùng tự do, cư sĩ Thiều Chửu mở lớp Phật học Trần Nhân
Tông tại chùa Cao Phong, tỉnh Phúc Yên, có ngót 40 tăng ni sinh ở 4 tỉnh
về theo học. Tài liệu dạy do ông biên soạn gồm : Nhân Minh, Nghiên cứu
duy thức theo khoa học, Cải tà quy chính, Phật học cươmg yếu, Phật học
vấn đáp, thế nào là Phật, Phật pháp v.v... học chúng có những quý vị : Tâm Giác, Thanh Kiểm, Tâm Thông, Quảng Quang, các Ni sư Đàm Ánh, Đàm Thành v.v...
Những năm 1949 – 1954, Hội mở trường Bảo trợ giáo dục Nhi đồng ở chùa
Quán Sứ, sau chuyển về phố Ngô Sĩ Liên, Hội mở trường tiểu học Khuông
Việt (lớp tăng tại chùa Quán Sứ; lớp Ni tại trường Vân Hồ), trường Ni
giới Vạn Hạnh bên cạnh chùa Hàm Long, Hà Nội. Các trường nói trên dạy
chương trình thế học có 1 -2 tiết dạy giáo lý một tuần, đã góp phần giải
quyết nạn thất học do chiến tranh.
Nhìn chung, nhờ có sự giao lưu học hỏi Hội ANPH miền Trung và có sự
giúp sức của nhiều cư sĩ tân học lẫn cựu học có trình độ của Hội Phật
giáo Bắc Kỳ mà hệ thống trường Phật học ở miền Bắc sớm được thành lập
một cách có qui củ và bài bản. Ban đầu quy mô còn hạn chế, về sau có
những bước tiến rõ rệt. Những năm 1949 - 1954 đã có trường Khuông Việt
cho tăng sinh và ni sinh, dạy theo chương trình thế học. Những người có
công lao trong sự nghiệp giáo dục Phật giáo miền Bắc là các tổ : Bằng
Sở, Trung Hậu, Tế Cát, Tổ Cồn, các Thượng toạ : Tố Liên, Trí Hải, các Ni
sư Đàm Soạn, Đàm Đậu, các cư sĩ : Thiều Chửu, Lê Dư, Nguyễn Quang Oánh,
Nguyễn Đình Quế v.v...
4. Phật giáo Việt Nam với việc chư Tăng du học, nghiên cứu
Những năm 1937 - 1938, Phật giáo miền Bắc và miền Trung cử hai Thượng
toạ : Thích Trí Hải và Thích Mật Thể sang Trung Quốc du học. Quý vị đã
được diện kiến lãnh tụ phong trào CHPG Trung Quốc là Đại sư Thái Hư.
Cuối năm 1938, hai sư ông Thái Hoà (Đỗ Trân Bảo) và Thích Thanh Giản
được cử sang Phnôm Pênh tham cứu Phật giáo Tiểu thừa Campuchia.
Với tầm nhìn xa, ngay sau ngày thành lập Giáo hội Tăng già Việt Nam
(10/1952) Thượng tọa Tố Liên trên cương vị Phó chủ tịch Hội Phật giáo
Thế giới đã đề xuất với Hội và các nước hội viên chấp nhận các nhà sư
trẻ Phúc Tuệ (Quảng Độ), Quảng Liên , Quảng Minh, Tâm Giác, Chân Từ
(Thanh Kiểm), Trí Không, Minh Châu,... sang Ấn Độ, Nhật Bản và Sri Lanka
tu học Phật pháp.
Sau khi tốt nghiệp về nước, họ đã trở thành cầu nối Phật giáo Việt
Nam với Phật giáo quốc tế và là những trụ cột của Phật giáo miền Nam.
III. Thời kỳ 1954-1975
Năm 1954 Hiệp định Giơ ne vơ được ký kết, đất nước Việt Nam tạm chia hai miền Bắc, Nam ngăn cách bởi vĩ tuyến 17.
1. Ở miền Bắc
Từ năm 1954 đến 1958 vẫn duy trì trường Hạ của các Tổ đình, Sơn môn.
Tháng 3 năm 1958, Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam thành lập, Hội không
mở trường Phật học tập trung, chỉ tổ chức hai lớp tu học Phật pháp tại
chùa Quảng Bá, Hà Nội vào năm 1969 và năm 1970. Số lượng tăng ni theo
học không nhiều (gần 120 tăng ni sinh), tuổi tác, trình độ, chức sắc của
mỗi vị khác nhau. Có vị ngoài 60 tuổi thuộc hàng giáo phẩm, đã từng
nhiều năm nghiên cứu đạo Phật (như các Thượng tọa: Giám Sinh, Thích Ninh
Quang, Kim Cương Tử…) nhưng cũng có vị 18 -19 tuổi mới bước vào nghiên
cứu đạo Phật. Có các ni sinh như : Thích Đàm Ánh, Đàm Mai ở Hà Nội, Đàm
Tùy ở Ninh Bình…giảng viên là Bác sĩ Lê Đình Thám, các Hòa thượng:
Thích Trí Độ, Thích Thanh Chân, Trần Quảng Dung v.v…Hiệu trưởng là Hòa
thượng Thích Đức Nhuận, Hiệu phó là Hòa thượng Thích Tâm An.
Nội dung học tập năm 1969: học kinh điển giáo lý là chính, đồng thời
học thêm văn hóa, nghiên cứu chính trị nhằm nâng cao nhận thức về giáo
lý, văn hóa, chính trị lên từng bước phục vụ cho việc phụng đạo cũng như
yêu nước có hiệu quả tốt. Năm 1970, chương trình có các môn: văn hóa,
một số chính sách về tự do tín ngưỡng c ủa Đảng và Chính phủ, giáo lý,
giáo luật và lịch sử đạo Phật Việt Nam. Mỗi buổi lên lớp cuối giờ đều có
trao đổi. Tất cả sách, một số kinh học viên học tập, nghiên cứu đều
được dịch ra tiếng Việt. Đây là một việc làm rất có ý nghĩa, không những
nó giúp cho các vị tăng ni tiếp thu giáo lý, giáo luật được nhanh mà
còn thể hiện tính chất độc lập của Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam.
2. Ở miền Nam
Giáo dục Phật giáo phát triển mạnh với 4 trường Cao đẳng và 25 Phật
học viện đã đào tạo hơn 2000 tăng ni sinh. Viện Đại học Vạn Hạnh Sài Gòn
là trung tâm giáo dục nổi tiếng và có ảnh hưởng lớn đối với Phật giáo
các tỉnh lân cận. Viện có 5 khoa: Phật học, Văn khoa, Khoa học xã hội,
Giáo dục ứng dụng, Trung tâm ngôn ngữ. Phân khoa Phật học có 360 sinh
viên trên 4443 sinh viên cả viện. Ngoài ra phải kể đến hệ thống trường
Bồ Đề do giới cư sĩ Phật tử xây dựng mà thành phần Ban Giám hiệu, Ban
Bảo trợ, Văn phòng và đội ngũ giáo viên phần lớn đều là cư sĩ Phật tử.
Trường dạy trẻ theo chương trình Nhà nước có 1 -2 tiết học giáo lý Phật
giáo trong một tuần, tới năm 1963 cả miền Nam đã có 163 trường Bồ Đề.
Năm 1955, GHTG Nam Việt lập Giảng sư đoàn lưu động gồm quý
tăng năm cuối lớp Trung đẳng Phật học đường Nam Việt có học lực tốt như
Thanh Từ, Huyền Vi, Từ Thông, Quảng Long được huấn luyện diễn giảng rồi
đi thực tập, sau khi tốt nghiệp, các vị này suốt năm đi giảng 3 tháng ở
các nơi rồi về tự nghiên cứu thêm kinh, luận và có các buổi học đặc biệt
do ngài Thiện Hoà, Thiện Hoa giảng, giúp quý vị này hoàn tất chương
trình CĐPHĐ Nam Vi ệt.
Ngoài ra còn có khoá huấn luyện (Hạ và Đông) do Giáo hội Tăng già Nam Việt mở tại chùa Ấn Quang tháng 2 và tháng 12 năm 1957...
Những dẫn chứng trên, cho thấy, kể từ khi công cuộc chấn hưng Phật
giáo Việt Nam được khởi xướng, công tác chỉnh đốn và phát triển hệ thống
giáo dục Phật giáo đã được chú trọng rất nhiều. Tuy nhiên, do hoàn cảnh
lịch sử, do có nhiều tổ chức Phật giáo…chưa có sự nhất quán nên phần
lớn chỉ mang tính chất tự phát. Chính vì thế chúng ta thấy có nhiều tổ
chức giáo dục Phật giáo khác nhau như: Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học,
Hội Lưỡng Xuyên Phật học, Hội An Nam Phật học, Hội Phật giáo Bắc Kỳ, Hội
Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Tăng già Việt Nam, Giáo hội Phật giáo
Thống nhất Việt Nam, Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam v.v…Và chỉ đến
khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời vào tháng 11 năm 1981, thì nền
giáo dục của Phật giáo Việt Nam mới đi vào hệ thống có qui củ từ Trung
ương đến địa phương.
II. Hiện trạng Giáo dục Phật giáo Việt Nam và kiến nghị
Sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật những thập niên cuối thế kỷ
XX và đầu thế kỷ XXI đã tạo ra những vấn đề lớn cho xã hội loài người:
chiến tranh, khủng bố, suy thoái đạo đức, ô nhiễm môi trường, sinh thái…
Cùng với sự phát triển của đất nước, Phật giáo Việt Nam cũng có những
bước phát tr iển khá toàn diện trên mọi lĩnh vực, trong đó Hệ thống
giáo dục Phật giáo phát triển vượt bậc: tới nay sau 25 năm đổi mới, Phật
giáo Việt Nam đã có 3 HVPG Bắc tông (ở Hà Nội, Huế, Tp Hồ Chí Minh) 1
HVPG Nam tông Khơ me ở Cần Thơ; 8 lớp Cao đẳng Phật học và 30 trường
trung cấp Phật học (phía Bắc 8 trường, từ Thừa Thiên – Huế trở vào có 22
trường) để đáp ứng nhu cầu đào tạo tăng ni sinh trẻ kế thừa, 100 lớp
Phật học cơ bản. Hàng năm có trên 5000 tăng ni theo học các cấp và có
trên 500 vị đang theo học chương trình sau đại học ở nước ngoài. Tuy
nhiên hệ thống giáo dục Phật giáo Việt Nam trên nhiều phương diện vẫn
còn tụt hậu so với tốc độ phát triển của xã hội Việt Nam khi nền kinh tế
đất nước vận hành theo cơ chế thị trường và mở cửa hội nhập quốc tế.
Muốn xây dựng một nền giáo dục hiện đại, Phật giáo Việt Nam cần tập
trung giải quyết các vấn đề sau:
1. Qui hoạch hệ thống trường Phật giáo, đảm bảo trường ra trường, lớp ra lớp với chương trình đào tạo thống nhất trong cả nước
Hệ thống giáo dục Phật giáo Việt Nam hiện nay được hình thành từ cao
xuống thấp: mở trường Cao cấp Phật học trước, sau đó mới mở các trường
Cơ bản tức trường Trung cấp Phật học (TCPH), rồi sau đó đến các lớp Cao
đẳng Phật học (CĐPH) và cuối cùng là một số lớp Sơ cấp Phật học nên mất cân đối.
Vì vậy, trên cơ sở tính toán thực lực (số lượng tăng ni, chùa, tự viện,
trường hiện có…) và dự báo phát triển 10-20 năm tới, GHPG cần tiến hành
qui hoạch hệ thống trường Phật giáo để lập lại sự cân bằng trong phát
triển mà trọng tâm là bậc trung cấp và bậc đại học.
Bậc Đại học và trên đại học: cả nước chỉ
nên có một trường Đại học Phật giáo với nhiều phân khoa khác nhau như
Phật học, Lịch sử Phật giáo, Văn khoa, Ngôn ngữ, Kiến trúc, Tin học, Tâm
lý, xã hội học, y học dân tộc, Tài chính, Quản trị kinh doanh, Du
lịch…mang tầm khu vực. Thời gian học 4 năm, đối tượng tuyển sinh không
chỉ có tu sĩ mà cả cư sĩ. Bậc đào tạo bao gồm cử nhân, cao học đến tiến
sĩ.
Bậc cao đẳng: khi đã xây dựng được trường
Đại học Phật giáo xứng tầm, thì các HVPG nên chuyển thành Viện CĐPH
chuyên khoa ở cấp Trung ương và khu vực. Chương trình học phân thành các
phân ban: kinh, luật, luận, thời gian học là 3 năm, năm đầu tiên học
chương trình đại cương, hai năm sau học chương trình chuyên ban.
Các trường CĐPH học tại các tỉnh, thành phố hay liên kết khu vực cũng học 3 năm với chương trình như trên.
Bậc Trung cấp: số lượng trường TCPH như
hiện nay là nhiều. Đã có một số trường đề nghị mô hình Phật học viện nội
trú cho từng khu vực, liên thông tuyển sinh trong cả nước để tăng ni có
"quyền lựa chọn" những trường có chất lượng theo học và số lượng tuyển
sinh hàng năm sẽ ít hơn để đào tạo có chất lượng. Đây là một mô hình tốt
góp phần giảm số lượng trường được Ban Giáo dục Tăng ni Trung ương
(GDTNTW) đề xuất từ Đại hội nhiệm kỳ 1992-1997, nhưng bấy giờ đa số đại
biểu các tỉnh, thành không hoan hỷ, đến nay vẫn chưa thực hiện được, bởi
về mặt tâm lý, tỉnh thành nào cũng muốn đơn vị mình có một ngôi trường
TCPH cho tăng ni sinh trẻ theo học để khi trưởng thành dễ trụ lại phục
vụ Phật sự địa phương mình. Việc này cần có sự điều chỉnh của Trung ương
GHPG Việt Nam, địa phương cần ủng hộ chủ trương của Trung ương.
Đối với trường TCPH, bên cạnh việc trang bị những giáo lý căn bản để
giúp học viên có nền tảng kiến thức trước khi tiến lên bậc học cao hơn
cần đưa thêm một số chương trình ngoại điển và chuyên đề xã hội để bổ
túc lưu lượng kiến thức.
Đảm bảo trường ra trường, lớp ra lớp
Từ bậc TCPH trở lên cần đầu tư xây dựng trường sở có đủ các hạng mục
công trình như giảng đường, phòng học, thư viện, ký túc xá, khu thể
thao, y tế học đường, và các trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học
như mạng vi tính kết nối Internet, phương tiện nghe nhìn, sách báo cần
thiết… đảm bảo 100% học viên theo học nộ i trú, vừa hạn chế việc di
chuyển tham gia giao thông làm giảm vẻ trang nghiêm của tu sĩ, vừa tạo
điều kiện thuận lợi cho việc tu – học tập trung và nâng cao chất lượng
đào tạo.
Có chương trình đào tạo thống nhất ở cả ba cấp
Mục tiêu của trường TCPH, Cao đẳng hay HVPG là đào tạo ra các tăng ni
(trừ một số ít làm công tác nghiên cứu hoặc giảng ở Viện, trường Đại
học) trở về các chùa, tự viện…trước hết phải tự nuôi sống được mình và
tiến hành hoằng dương Phật pháp, thực hiện các Phật sự. Bởi vậy, chương
trình đào tạo phải hướng theo mục tiêu này.
Về Nội điển: nên làm nhẹ bớt những môn học kinh điển, cố xưa
không còn (hoặc ít) ích lợi cho hiện tại. Cần dành nhiều thời gian hơn
cho hai môn Duy thức học và Trung quán luận. Trên cơ
sở những giá trị thực tiễn mà hai môn học đem lại, chúng ta sẽ thiết lập
những môn học liên quan. Tất cả sẽ tạo nên một tổng thể chương trình,
nội dung giảng dạy ở các trường Phật học hiện nay: Kết hợp lĩnh vực
nghiên cứu sâu thế giới nội tâm với sự nhận thức một cách biện chứng thế
gi ới khách quan.
Về ngoại điển, cần tăng thêm phần ngoại ngữ, các môn khoa
học, tâm lý học, xã hội học, các vấn đề thời sự, khuyến khích học nghề
trong ngũ minh …gửi đi du học. Mục đích là hiện đại hóa kiến thức của
các tăng ni, và làm cho sự hiểu biết của họ mỗi ngày một gần hơn với
cuộc sống.
Ở đây cũng cần nhắc lại việc từ khóa VI (2005 -2009) trở đi, HVPG Tp
Hồ Chí Minh đã chuyển đổi chương trình đào tạo theo niên chế sang hệ
thống tín chỉ của các nước tiên tiến trên thế giới nhằm nâng cao trình
độ nghiên cứu Phật học, đào tạo theo hướng chuyên môn hóa khả năng hội
nhập với các trường trong khu vực và thế giới. Sự đổi mới này đã tạo cơ
hội cho sinh viên tiếp cận với phương pháp học hiện đại mà các nước phát
triển đã áp dụng từ lâu nhưng cũng bộc lộ nhược điểm về quá trình tu
tập của một cử nhân Phật học (chỉ có 4 năm học ở HVPG) là quá ngắn. Với
thời gian như vậy khó mà đào tạo được một sứ giả của Như Lai đủ tầm để
truyền giáo sau này. Có nên tiếp tục thí điểm để rút ra một chương trình
đào tạo tốt nhất phù hợp với PGVN thời hiện đại hay không, câu hỏi đó
Ban Giáo dục Tăng ni Trung ương và các HVPG cần có câu trả lời.
Có Giáo trình giảng dạy thống nhất cả ba cấp
Giáo trình là chương trình học của các cấp học đã được Ban GDTNTW dự
trình và được GHPG thông qua, công bố thực hiện cho các cấp học từ sơ
cấp, trung cấp, cao đẳng đến học viện, bao gồm các môn học, tiết học…
Vẫn biết việc biên soạn một bộ sách Giáo khoa Phật học là không được
vội vàng, tùy tiện mà phải hết sức cẩn trọng, nghiêm túc, bởi đó là mộ t
công trình được đúc kết hoàn chỉnh các giáo án chuẩn mực do các vị giáo
viên ở mỗi cấp biên soạn công phu và phải được một hội đồng khoa học có
uy tín, có đầy đủ thẩm quyền chuyên môn cùng xem xét thông qua. Nhưng
GHPG Việt Nam cũng không nên quá cầu toàn, để lâu quá làm ảnh hưởng đến
việc dạy và học của các trường.
2. Đào tạo nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực ở đây bao gồm cả giáo viên và học sinh.
Về đội ngũ giáo viên
Thầy giáo là nhân tố quyết định chất lượng đào tạo cũng như sự phát
triển của nhà trường. Giữa thày và trò phải có khoảng cách, thầy phải có
trình độ hơn hẳn trò, đó là những Tiến sĩ, Phó giáo sư…, ít nhất là cao
học để dạy cho sinh viên. Còn việc thiếu thầy thì phải kết hợp nhiều
biện pháp như qui hoạch số lượng trường, ở bậc đại học và cao đẳng,
trường phải đủ số giáo viên cơ hữu có trình độ, các giáo viên này phải
nhiều hơn so với số giáo viên thỉnh giảng từ các nơi.
Đội ngũ giáo viên cần được chuẩn hóa. Yêu cầu đối với đội ngũ giáo
viên là phải có kiến thức chuyên môn và khả năng sư phạm cùng với khả
năng hướng dẫn về mặt tu tập. Bài học không chỉ truyền đạt kiến thức
trên sách vở mà là kinh nghiệm tu tập của bản thân giáo viên (thân
giáo).
Xã hội hiện tại biến chuyển không ngừng, con người vì mưu sinh luôn
phải sống hối hả vội vàng nghĩa là phải sống nhanh. Nhiều vấn đề nảy
sinh trong cuộc sống như phân hóa giàu nghèo, thất nghiệp, tình yêu hôn
nhân và gia đình, những căn bệnh thời đại như street, HIV/AISD, tim mạch
v.v…sự biến đổi khí hậu, vấn đề ô nhiễm môi trường, quyền tự do cá
nhân, khủng bố v.v… người thầy giảng những lời Phật dạy như thế nào để
truyền đạt cho tăng ni sinh nhận thức được những vấn đề của xã hội để
tìm giải pháp phù hợp với những nhu cầu cấp bách.
Gần đây, trong Phật giáo vẫn còn quan niệm, người làm chức năng giáo
dục Phật giáo phải là những tu sĩ. Và một số nhà nghiên cứu cho rằng,
đây là quan niệm hẹp hòi và sẽ hạn chế hiệu quả của quá trình giảng dạy.
Quan điểm trên hoàn toàn hợp lý. Bởi vì, những người tại gia hay xuất
gia, một khi đã tin tưởng, thực hành và trải nghiệm thật rõ ràng những
giá trị chân lý, triết lý đạo đức của Phật giáo, đều mặc nhiên trở thành
những nhà giáo dục Phật giáo, lấy thân giáo làm nền tảng. Rộng
ra, những nhà giáo dục Phật giáo cũng không nên quá đặt nặng vấn đề học
hàm, học vị, hình thức thể hiện, một khi đã chọn thân giáo là
yêu cầu hàng đầu đối với người làm chức năng giáo dục. Đó là suy nghĩ
sai lầm và có hại cho sự nghiệp giáo dục Phật giáo nói riêng và tôn giáo
nói chung.
Hiện nay PGVN đã có hơn 100 tiến sĩ, thạc sĩ đào tạo trong nước và
ngoài nước, phần lớn tham gia giảng dạy tại các HVPG và các lớp Cao
đẳng. GHPG cần tổ chức nghiên cứu, hội thảo đánh giá điểm mạnh, điểm yếu
cụ thể của đội ngũ này để có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn, phương pháp sư phạm cho họ, đồng thời cần xác định rõ số
lượng Tiến sĩ, Thạc sĩ bao nhiêu là đủ, chứ không thể thiến sĩ hoá, cao
học hoá các tu sĩ giảng dạy tại các HVPG và các lớp CĐPG. Giáo hội cũng
nên có kế hoạch đào tạo những nhà giáo dục chuyên sâu và có chế độ chính
sách để họ an tâm giảng dạy, tránh kiêm nhiệm nhiều việc. Có vậy, trong
thời gian tới PGVN mới có đủ đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên sâu
đảm nhiệm được việc hướng dẫn đào tạo cao học và tiến sĩ.
Đổi mới phương pháp giáo dục
Trước đây, thời đức Phật, phương thức giáo dục là truyền khẩu. Ở các
trường Hạ, trường Gia giáo là tự thầy dạy trò - giáo dục truyền thụ hình
thành trong từng chùa, biệt lập, đơn lẻ. Phương pháp giáo dục truyền
thống xưa nay của các trường Phật học (kể cả bên ngoài) đều theo hướng
một chiều là đọc chép. Nghĩa là chỉ người dạy làm việc, còn người học
chỉ biết ghi chép những gì giáo viên giảng, dần dần người học trở nên bị
động và không phát huy hết khả năng. Do đó cần tạo ra một phương pháp
học mà học sinh là chủ thể của tư duy sáng tạo dưới sự hướng dẫn của
người thày. Có vậy hiệu quả của việc học sẽ được nâng cao hơn khi khả
năng học và hành được thực thi cùng một lúc.
Về học sinh
Có nhà sư nói: “Học càng cao càng ngã mạn”, nhận xét đó không phải
không có lý do khi một số tăng ni sinh coi việc học để có bằng cấp là
phương tiện mưu sinh. Mặt khác do bản lĩnh tu tập chưa vững, ý thức học
tập chưa cao nên học sinh dễ bị ngoại cảnh tác động, chi phối, đây là
một vấn đề đáng quan tâm trong đời sống hiện nay.
Bởi vậy, ngoài việc làm tốt công tác truyển sinh vào các trường từ
bậc CĐPH trở lên các học sinh luôn luôn phải xác định tốt mục tiêu học
tập “Học để làm gì? Nhất là trong bối cảnh xã hội thay đổi, tri thức –
khoa học xã hội tiến bộ, đời sống kinh tế, nhận thức con người nâng cao,
để từ đó có động cơ học tập đúng đắn, có phương pháp học tập tiên tiến,
kết hợp tốt giữa tu – học, học phải đi đôi với hành. Học sinh phải dấn
thân vào các Phật sự ngay khi đang học.
3. Xã hội hóa giáo dục Phật giáo và hội nhập quốc tế
Mục đích của Phật giáo không phải chỉ đem lại cho người Phật tử cảm
giác yên ổn nơi hiện thế mà xa hơn là đem lại sự an lạc miên viễn. Sự an
lạc của tâm hồn chan hòa với một xã hội phồn vinh, thực hiện phương
châm tốt đời, đẹp đạo. Sự an lạc đó chỉ có thể đạt được bằng chính sự tu
tập của người Phật tử thường bắt đầu bằng sự học hỏi. Hệ thống giáo dục
Phật giáo hiện đại phải hiện thực mục đích này bằng con đường xã hội
hóa, tức là đưa đạo Phật vào đời, thực hiện thông điệp cứu khổ của đức
Phật đến với từng cá nhân, từng nhóm người, từng tập thể, tiến đến việc
phổ biến cho quảng đại quần chúng.
Ở trên là giáo dục ở các trường, Học viện của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam, dưới đây nói về giáo dục đối với các đối tượng khác ở nước ta.
Đối tượng của giáo dục Phật giáo hiện đại
Trước hết là quảng đại quần chúng - những người nông dân hiện đang
chiếm 70 % dân số Việt Nam. Họ đang đứng trước biết bao vấn đề trong
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước dẫn tới đô thị hóa
nông thôn.
Thứ hai là thế hệ trẻ, vì ngót 50% dân số Việt Nam dưới 18 tuổi. Đạo
Phật chỉ có tương lai khi thu hút được thanh thiếu niên, khi cảm thông
được những vấn đề tuổi trẻ quan tâm, mà phương thức thích hợp là những
Câu lạc bộ thanh niên Phật tử, những Gia đình Phật tử, có hình thức sinh
hoạt đa dạng phù hợp với tuổi trẻ.
Thứ ba là hướng về phụ nữ, vì trên 50% dân số nước ta là phụ nữ ở họ
phần nào coi trọng đời sống tâm linh hơn so với nam giới. Họ ngày một
đóng vai trò quan trong trong cuộc sống gia đình và trong xã hội, có
những bức xúc về bình đẳng giới trong cuộc sống cũng như trong Phật
giáo.
Thứ tư là các doanh nhân, họ là những người góp phần không nhỏ cho sự
phát triển của đất nước, nhưng thường bị street bởi “thương trường là
chiến trường”.
Cuối cùng là các cư sĩ. Họ có thể ở nông thôn, có thể là phụ nữ. Nam
và nữ cư sĩ là hai trong tứ chúng của đức Phật, họ giữ vai trò quan
trọng trong sự phát triển và trường tồn của đạo.
Hình thức giáo dục hiện nay có thể là những lớp tu dài hạn (1 -2
tháng), ngắn hạn (5-7 ngày), cực ngắn (1 buổi hoặc 1 ngày) các Câu lạc
bộ Phật tử, các buổi thuyết trình…và quan trọng nhất là mái chùa, mà khi
xưa, trong một thời gian rất lâu, ngôi chùa là trung tâm giáo dục của
mỗi địa phương (nơi dạy chữ, là lớp bình dân học vụ v.v…). Ngôi chùa
phải là nơi hướ ng dẫn Phật tử hướng đến việc học hỏi và tu học nhiều
hơn chứ không chỉ dừng lại ở việc lễ bái tín ngưỡng. Có như thế người
Phật tử mới có được lợi ích an lạc thiết thực và nhờ đó Phật pháp mới
được trường tồn.
Cần khẳng định rằng, Phật giáo mạnh là nhờ có các chùa mạnh, chùa
mạnh nhờ tăng ni trụ trì mạnh. Bởi vậy, viêc cần làm lúc này là GHPG sớm
điều chỉnh nhân sự sao cho 14.000 chùa và tự viện trong cả nước có đủ
tu sĩ trụ trì (chủ yếu ở miền Bắc và miền Trung) đồng thời có kế hoạch
chi viện cho các chùa có đủ sách báo, phương tiện phục vụ cho công tác
giáo dục – hoằng dương Phật pháp.
Nội dung giáo dục chủ yếu đi vào xây dựng niềm tin (tự thắp sáng đuốc
soi đường mà đi), xây dựng con người sống theo thập thiện ngăn chặn sự
băng hoại xuống cấp của đạo đức, khơi dậy lòng từ bi hỷ xả để mọi người
phát tâm công đức làm từ thiện xã hội như giúp đỡ, chăm sóc các người
già cô đơn, nuôi dạy trẻ tật nguyền, mồ côi, khám chữa bệnh miễn phí,
ủng hộ đồng bào vùng bị thiên tai …
Nguồn kinh phí đào tạo phải đủ và ổn định
Ngoài kinh phí từ nguồn đầu tư từ xã hội Việt Nam nói chung đem lại
(như sự đóng góp của tăng ni sinh, sự cúng dàng của Phật tử, sự giúp đỡ
của Nhà nước và chính quyền các địa phương…)
GHPG Việt Nam cần chấp nhận và sử dụng những nguồn đầu tư từ nước
ngoài với những điều kiện phù hợp với pháp luật Nhà nước và thực tế Phật
giáo Việt Nam.
Về quan hệ quốc tế
Với xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng cao, hệ thống giáo dục Phật
giáo Việt Nam cần mở rộng mối liên kết với các tổ chức giáo dục Phật
giáo khác trong khu vực và thế giới để nâng cao hơn nữa sự phát triền
của nền giáo dục Phật giáo Việt Nam thời hiện đại. Nhất là trong việc
đưa tu sĩ Phật giáo đi đào tạo ở nước ngoài : Bậc đại học do chùa cử
sinh viên du học lo, từ cao học trở lên nên tranh thủ học bổng của nước
đối tác kết hợp với kinh phí của nơi sinh viên làm việc.
Kết luận
Lịch sử Giáo dục Phật giáo Việt Nam thế kỷ XX và hiện trạng để lại
cho chúng ta những bài học quý trong quá trình xây dựng một nền giáo dục
hiện đại có cơ sở vật chất đầy đủ, chất lượng đào tạo ngang tầm khu vực
và thế giới, một nền giáo dục được xã hội hóa và hội nhập quốc tế trong
những năm tới. Mục tiêu này đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của GHPG Việt Nam
từ Trung ương tới tỉnh, thành và sự ủng hộ giúp đỡ của Nhà nước, của
các Phật tử trong nước và Phật tử Việt Nam ở nước ngoài cũng như của các
tổ chức, Phật giáo quốc tế. Mạnh dạn cải tiến tác phong làm việc, khắc
phục tư tưởng cục bộ, chủ nghĩa thành tích và với quyết tâm cao, tin
chắc GHPG Việt Nam sẽ thực hiện được.
NĐĐ
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1. Các tạp chí : Viên Âm, Duy Tâm Phật học, Đuốc Tuệ những số liên quan đến giáo dục.
2. Tạp chí Phương Tiện, 1949-1952
3. Báo Cứu Quốc từ năm 1959-1975.
4. Nguyễn Lang : Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Nxb Văn Học, 1994.
5. Thành hội Phật giáo TPHCM, Biên niên sử Phật giáo Gia Định - Sài Gòn - TPHCM, Nxb Thành phố HCM, 2001.
6. Thích Hải Ấn và Hà Quang Liêm : Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb TP HCM, 2001.
7. Kỷ yếu Đại hội đại biểu GHPG Việt Nam lần thứ 6 ( 2007-2012), Nxb Tôn Giáo, 2008.
8. Nguyễn Đại Đồng, Biên niên sử Phật giáo miền Bắc (1920 -1953), Nxb Tôn Giáo, 2008.
9. Trí Không, Tổ đình Ấn Quang và lịch sử phát đạt của Phật giáo Việt Nam từ 1950 trở đi , Thư viện chùa Xá Lợi, TPHCM, 2009.