I. Thành Tỳ Xá Ly (Vesāli)
1. Khái quát thành Tỳ Xá Ly cổ xưa
Khoảng 1 giờ chiều ngày mùng hai Tết Mậu
Tý, đoàn chúng tôi đã đến chùa Kiều Đàm Di, ngôi chùa Việt Nam tại
Vesāli, Ni sư Khiết Minh trụ trì, xin nghỉ tạm một đêm, để thăm viếng
các thánh tích tại đây. Sau khi được một bữa cơm đậm đà hương vị Việt
Nam do chư Ni trong chùa thết đãi, nhất là trong dịp tết, đoàn chúng tôi
cảm thấy vui sướng và rất xúc động cho những nữ tu Việt Nam phát nguyện
dấn thân công quả, chung góp bàn tay vun đắp nơi Thánh địa này ngày
càng sung thạnh, biến đất khô cằn sỏi đá thành những luống rau xanh tươi
tốt, biến mảnh đất hoang vô dụng thành ngôi tự viện khang trang. Nhờ
những hình ảnh thánh thiện, những con người hy sinh vì đạo lớn đã khích
lệ đoàn chúng tôi càng quyết tâm hơn nữa, làm việc trong tinh thần trách
nhiệm, hài hòa, mong hoàn thành tốt những tiêu chí đã đặt ra.
Tỳ Xá Ly (Vesāli) là thủ đô của bộ tộc
Licchavi, nước cộng hòa đầu tiên trên thế giới, nơi mà có nhiều sự kiện
lịch sử trọng đại liên quan đến Phật giáo. Chính nơi đây, là điểm dừng
chân lần cuối của đức Phật để thuyết pháp và chúc phúc cho toàn dân
thành Vesāli, vì Ngài thừa biết rằng mình không bao giờ trở lại nơi này
thêm một lần nào nữa. Khi rời Tỳ Xá Ly, đức Phật đã ngoái đầu nhìn lại
và tán thán: “Ôi xinh đẹp thay thành phố Tỳ Xá Ly! Ôi xinh đẹp thay
những điện thờ và những khu lâm viên của Tỳ Xá Ly.” Thành phố Tỳ Xá Ly
còn là quê hương của ngài Duy Ma Cật, một vị cư sĩ Bồ-tát nổi tiếng mà
đức Phật đã đề cập như một nhân vật giác ngộ chính trong kinh Duy Ma
Cật. Thành phố này còn là nơi nhận một phần tám xá lợi của đức Phật ngay
sau lễ Trà tỳ của Ngài. Những năm trước khi nhập diệt, đức Phật thường
hay lưu trú tại thành Tỳ Xá Ly này.
Lần
thứ nhất Ngài từ Ma Kiệt Đà (Magadha) đến Tỳ Xá Ly do lời thỉnh cầu của
toàn dân trong thành, mong nhờ oai đức của Phật để cứu bá tánh chúng
sinh thoát khỏi nạn đói do hạn hán kéo dài, dân trong thành chết như rạ
và dẫn đến nạn dịch nguy hiểm. Dân chúng Tỳ Xá Ly với nghi lễ trang
nghiêm rực rỡ đến biên giới thỉnh Phật. Ðức Phật qua sông Hằng và lên bờ
sang nội địa của Tỳ Xá Ly. Khi về đến thành Tỳ Xá Ly đức Phật thuyết
kinh Châu Báu (Ratana sutta) hay còn gọi là kinh Cầu An, thuộc Tiểu Bộ
(Khuddhaka Nikāya). Sau đó đức Phật sai tôn giả A Nan cùng các vương tử
Licchavi đi xung quanh kinh thành, vừa tụng kinh này, vừa rải nước được
lấy từ bình bát của đức Phật. Thật là mầu nhiệm, tiếng tụng kinh vang
đến chỗ nào thì nơi đó sấm sét nổi lên và mưa tuôn xuống, nhờ vậy mà
dịch bệnh nơi đó biến mất. Sự kiện này đã làm cho dân chúng Tỳ Xá Ly
càng kính tin đức Phật, hàng vạn người dân trong thành xin được quy y
làm đệ tử tục gia của đức Thế Tôn. Dân chúng và Chính phủ hợp lực xây
dựng tinh xá tên là Trùng Cát (Kutagara), trong rừng Đại Lâm (Mahavana)
để thỉnh Phật và chư Tăng ở lại. Sau 7 ngày đức Phật trở về lại Ma Kiệt
Đà với sự tiễn đưa rất là long trọng.
2. Nơi thành lập Ni đoàn Phật giáo
Ðức Phật trở lại Tỳ Xá Ly nhiều lần sau
đó, thường ngự tại tinh xá Trùng Cát. Nhiều bộ kinh được thuyết tại nơi
này như Mahali, Mahasihanadas, Cula Saccaka Mahasaccaka... Cũng chính
tại khu rừng Đại Lâm xứ Tỳ Xá Ly này, Ni đoàn Phật giáo chính thức được
thành lập, nghĩa là đức Phật chấp thuận cho nữ giới xuất gia, đánh dấu
một sự kiện lịch sử trọng đại, đó là nữ tu sĩ có vai trò trong đoàn thể
Phật giáo, đề cao vai trò của nữ giới nơi Ấn Độ nói riêng hay tinh thần
bình đẳng nam nữ trên khắp thế giới nói chung, là nét nhân văn cao đẹp,
là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo cũng như
các trường phái tư tưởng được biết trước và ngay thời đức Phật. Bằng lời
nói khẳng định của đức Từ Phụ: “Nếu phụ nữ tu hành tinh tấn cũng có thể
chứng quả A la hán”. Và cũng từ ý nghĩa quan trọng này, Đại thừa đã
phát triển lên đến đỉnh cao về mặt tư tưởng là Phật tánh bình đẳng hay
tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và sẽ thành Phật. Đây là giáo nghĩa
thâm thúy và viên đốn trong văn học tư tưởng Đại thừa. Luật tạng ghi
chép rằng, sau khi vua Tịnh Phạn (Suddhodana) băng hà, di mẫu Ma Ha Ba
Xà Ba Đề (Mahāpajāpati Gotamī) cùng 500 thể nữ dòng họ Thích Ca (Sakyā)
tự cạo tóc, thân đắp cà sa, đi chân đất từ thành Ca Tỳ La Vệ
(Kapilavatthu) đến Tỳ Xá Ly (Vesāli), nơi đức Phật đang giáo hóa xin
được xuất gia. Nhờ sự nhẫn nại thưa thỉnh thống thiết của A Nan cùng với
quyết tâm cao độ của di mẫu và các thể nữ dòng họ Thích, được biểu hiện
bằng những hành động cụ thể, đức Phật đã chấp thuận cho nữ lưu gia nhập
Tăng đoàn, nhưng họ phải tuân thủ tám điều (Bát kỉnh pháp) từ ngày xuất
gia cho đến trọn đời. Tám điều ấy là:
1 Một Tỳ kheo ni, dầu có trăm tuổi Hạ
khi gặp thầy Tỳ kheo mới thọ giới Cụ túc cũng phải chào hỏi, đảnh lễ và
thực hành tất cả những bổn phận thích nghi đối với vị Tỳ kheo.
2- Một Tỳ kheo ni không được khiển trách hay nặng lời đối với một vị Tỳ kheo trong bất kỳ trường hợp nào.
3- Tỳ kheo ni không được ngăn Tỳ kheo
xét tội, thuyết giới, tự tứ hay nói lỗi của Tỳ kheo. Trái lại, Tỳ kheo
được quyền cử tội Tỳ kheo ni.
4- Muốn thọ trì Cụ túc giới phải thông qua hai bộ Tăng: Tỳ kheo ni và Tỳ kheo.
5- Nếu Tỳ kheo ni phạm tội hữu dư (Tăng
tàn) thì phải đến trước hai bộ Tăng thực hành pháp Ý hỷ (Ma na đỏa)
trong thời gian nửa tháng.
6- Nửa tháng phải đến bên Tỳ kheo tăng cần cầu dạy bảo.
7- Không được an cư kiết hạ ở địa phương nào không có Tỳ kheo ở.
8- Khi an cư xong, phải đến Tỳ kheo tăng cầu ba sự tự tứ: Thấy, nghe và nghi.
Những điều lệ căn bản và thiết yếu này
chính là cái nhìn tuệ giác của Phật, không phải vì ràng buộc mà nhằm bảo
hộ cho Ni đoàn sinh hoạt yên ổn và khiến nữ giới dễ diệt trừ bản ngã để
đạt thánh vị mau chóng.
Từ các nền móng của các ngôi tự viện cũ
tại Tỳ Xá Ly, người ta cũng xác định được đâu là ngôi tịnh xá mà xưa kia
chư Ni đã từng lưu trú tu tập.
3. Trụ đá vua A Dục (Asoka)
Trong
triều đại của vua A Dục (Asoka), vào năm thứ 20, ông cũng thân hành đến
nơi đây để chiêm bái và dựng thạch trụ, một trong nhiều thạch trụ ở Ấn
Độ, để đánh dấu sự kiện trọng đại của Phật giáo tại thành Tỳ Xá Ly này.
Hiện nay, hầu hết các trụ đá của vua A Dục được dựng lên trong tất cả
các Thánh tích, đều bị tàn phá, gãy đổ, do các đế chế đối nghịch Phật
giáo và quân Hồi giáo bạo tàn. Chỉ duy nhất nơi đây thạch trụ sư tử một
đầu vẫn còn nguyên vẹn và đứng vững vàng, hiên ngang giữa khu phế tích
Phật giáo. Thạch trụ là một khối đá nguyên được đẽo gọt tròn láng, cao
khoảng 11m và đường kính khoảng 1m. Trên thân trụ có nhiều hoa văn và
những bia ký được khắc bằng kiểu chữ Brahmi, ở đỉnh có hình sư tử một
đầu hướng về phương Bắc. Nhờ những chữ khắc trên thân trụ mà người ta
được biết chính nơi đây đức Thế Tôn đã để lại những di ngôn cuối cùng
trước khi giã từ dân chúng Tỳ Xá Ly đi về Câu Thi Na nhập Vô Dư Niết
Bàn. Phía trước thạch trụ là nền gạch cũ chu vi khoảng 15m², cao khoảng
3m, đó là ngôi tháp do vua A Dục xây dựng để thờ xá lợi ngài A Nan,
người có công đầu trong việc xin cho nữ giới thành lập Ni đoàn Phật
giáo. Vào năm 1976, các nhà khảo cổ đã khai quật và tìm thấy một hộp
bằng đá đựng xá lợi, vài lá vàng ròng và những viên đá quý rất nhỏ. Xung
quanh ngôi tháp này cũng có nhiều bờ tường cũ mục, cũng có thể là di
tích của những tu viện cũ hay những ngôi tháp nhỏ được xây dựng xung
quanh đại tháp này. Phía sau thạch trụ khoảng 10m, có một cái hồ nước
hình chữ nhật có tên là Ramakunda, nghĩa là Hồ Khỉ, nhằm lấy tên của một
con khỉ chúa thường xuyên thỉnh bát của Phật, leo lên các cành cây hái
trái và lấy mật để cúng dường đức Phật khi Ngài dừng chân tại khu Đại
Lâm này.