Nhân dịp Ban Thông tin
Truyền thông GHPGVN tổ chức Lễ Công bố Quyết định nhân sự và ra mắt;
chúng tôi xin trích dẫn một số thông tin về quy mô, đặc điểm, ảnh hưởng
của hoạt động báo chí tôn giáo ở nước ngoài để quý vị tăng, ni, phật tử
làm việc trên lĩnh vực thông tin truyền thông tham khảo, có cái nhìn
chung về hoạt động báo chí tôn giáo một số nước, từ đó, có thể liên hệ
vận dụng vào hoạt động báo chí Phật giáo ở Việt Nam.
Dưới đây, xin trích giới thiệu một số
nghiên cứu, nhận định về báo chí tôn giáo Mỹ của nhà nghiên cứu truyền
thông người Nga X. A. Mikhailop, từ sách “Báo chí hiện đại nước ngoài:
những quy tắc và nghịch lý”, nguyên bản do nhà xuất bản Mikhailop – Xanh
Pê téc bua xuất bản 2002, nhà xuất bản Thông tấn thuộc Thông tấn xã
Việt Nam tổ chức dịch và xuất bản năm 2004, người dịch Đào Tấn An.
Đoạn trích dẫn có khá nhiều thông tin
mà người hoạt động thông tin truyền thông tôn giáo sẽ thấy rất bổ ích.
Thông tin truyền thông Phật giáo Việt Nam, là bộ phận của thông tin
truyền thông tôn giáo nói chung, chắc chắn có tương lai phát triển theo
quy luật chung của báo chí tôn giáo.
Nội dung chi tiết thông tin được trích
dẫn, sách đã dẫn từ trang 265: “Báo chí tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến
tâm trạng-tư tưởng của dân chúng. Nếu nói về nước Mỹ, thì báo chí tôn
giáo có truyền thống đứng trên những lập trường cố hữu. Bản thân sách
báo ở Mỹ cũng bắt đầu từ việc in ấn các cuốn sách có nội dung tôn giáo.
Đầu thế kỷ XX, trên lãnh thổ nước Mỹ đã có 952 ấn phẩm định kỳ được xuất
bản với nội dung đạo đức-tinh thần, nhưng chủ yếu với nội dung tôn
giáo.
Mỹ là nước có nhiều tôn giáo. Tại đất
nước này, trên thực tế, có tất cả các học thuyết tôn giáo hiện đang tồn
tại trên thế giới. Người ta thường gắn hiện tượng này với sự thật là đa
số dân cư nước này đều xuất thân từ những di dân hoặc là con cháu của
các di dân đến đây từ nhiều quốc gia khác. Quyền tự do tín ngưỡng ở đây
đã cho phép những di dân ấy gìn giữ tín ngưỡng của mình. Hơn 100 tín
ngưỡng khác nhau, mỗi tín ngưỡng có chừng 50 nghìn tín đồ. Tổng cộng ở
Mỹ có hơn 140 triệu tín đồ. Hàng chục tôn giáo nhỏ có tổng cộng khoảng 2
triệu tín đồ.
Những tôn giáo lớn nhất là đạo Tin
Lành – khoảng 79 triệu tín đồ; Thiên chúa giáo La Mã – 52 triệu tín đồ;
Do Thái giáo – 5,8 triệu tín đồ, chính thống giáo và các nhà thờ Thiên
Chúa giáo phương Đông khác – 4 triệu tín đồ; các tín đồ Công giáo cổ - 1
triệu; Phật giáo – 100 nghìn tín đồ.
Nếu nói đến những dòng tôn giáo đông
đảo trong số những dòng tôn giáo chính ấy thì giáo phái lớn nhất trong
số các nhà thờ Tin Lành là giáo phái Tẩy lễ miền Nam – 14,3 triệu tín
đồ.
Đại bộ phận dân cư da đen đều tự coi mình thuộc Giáo phái Tẩy lễ quốc
gia của Mỹ, có 5,5 triệu tín đồ. Với sự tham gia tích cực của Mactin
Lutho Kinh, chiến sĩ đấu tranh cho các quyền của dân da đen, năm 1961 đã
thành lập giáo phái Tẩy lễ quốc gia tiến bộ, với số lượng 1 triệu tín
đồ. Giáo phái Lute ở Mỹ có 2,9 triệu tín đồ, giáo phái Lute ở Mitxuri có
2,6 triệu tín đồ, giáo phái Prexvito ở Mỹ có 3 triệu tín đồ. Giáo phái
Chúa tái sinh ngày thứ bảy có 640 nghìn tín đồ.
|
Ảnh chỉ mang tính chất minh họa |
Một số nhóm tôn giáo gồm những giáo
phái khác nhau có ít tín đồ. Ví dụ, giáo phái Thiên chúa xionit tự do
chỉ có 100 tín đồ. Giáo hội công giáo tự do chỉ có 200 tín đồ, giáo hội
“Thân thể chúa Kito” có 1000 tín đồ, giáo hội Phúc Âm có khoảng 160 tín
đồ, còn giáo hội khởi thủy Thượng đế sống, trụ cột và khẳng định chân
lý, hay là giáo hội Thượng đế, gồm có 400 tín đồ là những người Do Thái
da đen.
Những năm gần đây đã xuất hiện một xu
hướng giảm tỷ lệ tín đồ đạo Tin Lành trong tổng số tín đồ các tôn giáo.
Đồng thời, trước câu hỏi: “Các quý vị có tin vào Chúa không?” thì 90%
người Mỹ trả lời là có tin. Người ta đến nhà thờ đều đặn. Ở tuổi càng
cao thì chỉ số đến nhà thờ càng cao. Đối với độ tuổi 18-29 chỉ số ấy là
62%, tuổi 30-49 tỷ lệ là 69%, và tuổi 50 và trên 50 tuổi tỷ lệ ấy là
78%.
Những câu hỏi cụ thể hơn đã dẫn đến
những kết quả như sau. Trong số những người Mỹ trưởng thành có 67% tin
vào sự tồn tại của vương quốc Thượng đế, tức là họ không hoài nghi về sự
tồn tại cuộc sống ở thế giới bên kia. 88% tín đồ cho rằng sau khi họ
qua đời thì trước mắt họ họ sẽ mở ra cánh cổng của thiên đàng và họ sẽ
được bước vào đó. Theo ý kiến của những người được hỏi, tôn giáo có ảnh
hưởng tốt đẹp nhất đến sự hình thành nhân cách của đứa trẻ. Quan điểm
này nhận được sự đồng tình của 30% số đàn ông và 41% số phụ nữ.
Dĩ nhiên, tư tưởng tôn giáo cũng phải
được phản ánh cả trong báo chí. Tất cả các tôn giáo chính đều có các tờ
báo và tạp chí, các đài phát thanh và truyền hình của mình. Đương nhiên,
hoạt động của những phương tiện ấy là nhằm duy trì và tái sinh tinh
thần tôn giáo trong dân chúng, dưới mọi hình thức.
Tờ báo lớn nhất mà người ta chính thức
đưa vào diện những tờ báo tôn giáo – đó là tờ Christian Science Monitor
được thành lập năm 1908. Báo được “Hội Khoa học Thiên chúa giáo” xuất
bản ở Boston. Theo truyền thống, những người lãnh đạo ấn phẩm này giữ
vai trò quan trọng trong các giới chính trị - xã hội ở Mỹ. Ví dụ, một
trong số các chủ biên của báo này ông Ecvin Kenhem, đồng thời là Chủ
tịch Hội các chủ biên báo của Mỹ, Chủ tịch Ủy ban tham vấn bên cạnh Tổng
thống Mỹ về các vấn đề thông tin, Chủ tịch Phòng thương mại. Tờ báo này
xuất bản với 3 ấn bản: ấn bản Đại Tây Dương, ấn bản Thái Bình Dương, vá
ấn bản trung tâm. Tại Boston người ta chỉ bán ra một lượng nhỏ trong
tổng số lượng phát hành. Tờ báo được phát hành trên toàn quốc, cũng như ở
nước ngoài.
Mặc dù về phương diện hình thức, báo
Christian Science Monitor là tờ báo tôn giáo, nhưng trên thực tế đó là
một tờ báo mang tính chất hoàn toàn thế tục. Chỉ có một trang của báo
này là thuần túy dành cho đề tài tôn giáo, nói chính xác hơn, dành để
phục vụ các mục tiêu của “Hội Khoa học Thiên chúa giáo”.
Các cộng đồng tôn giáo có cơ sở tài
chính khác nhau. Vì vậy, việc sở hữu chính thức các phương tiện thông
tin đại chúng của họ cũng khác nhau. Ví dụ, giáo hội thống nhất Mun, có
các chi nhánh của mình ở 130 nước trên thế giới, xuất bản tờ báo hằng
ngày theo xu hướng cực hữu là tờ Washington Times. Tờ báo được thành lập
bởi nhà truyền giáo nổi tiếng người Hàn Quốc Nun Xen Mơn vào năm 1982
và xuất bản ở Washington (quận liên bang Colombia) với số lượng phát
hành 100 nghìn bản.
Những cộng đồng tôn giáo khác không có được những khả năng như vậy. Tuy nhiên, họ cũng cố gắng làm công việc kinh doanh báo chí.
Chẳng hạn, tại New York có xuất bản
tuần san công giáo theo khuynh hướng cực hữu, tờ tuần san American. Nó
có số lượng phát hành gần 38 nghìn bản. Ngoài ra đề tài tôn giáo, tuần
san này còn đề cập đến những vấn đề chính trị - xã hội quan trọng nhất.
Nói đúng ra, có lẽ ở Mỹ không có nhu
cầu xuất bản những tờ báo và tạp chí thuần túy mang tính chất tôn giáo,
vì tất cả các ấn phẩm chính trị chung đã dành một vị trí to lớn cho chủ
đề tôn giáo. Vì quy mô hoạt động của các ấn phẩm thuần túy tôn giáo là
có giới hạn về một phương diện nào đó (những ấn phẩm ấy chỉ phục vụ các
tín đồ, hơn thế nữa, chỉ phục vụ một giáo phái nào đó mà thôi), cho nên
việc quảng bá các tư tưởng tôn giáo, cũng như các chủ thuyết chính trị -
xã hội của giáo hội sẽ có hiệu quả nhất chính là thông qua các ấn phẩm
thế tục.
Về cơ bản, những bài viết có liên quan
ít nhiều đều tập trung trong những chuyên mục có trong tất cả các báo
và tạp chí. Thông thường đó là những bài viết được soạn thảo bởi những
chuyên gia có trình độ và kinh nghiệm về thần học. Đã có được quan hệ
chặt chẽ với các phòng thông tin của các tổ chức tôn giáo khác nhau, với
các đại diện của giới tăng ni. Những giáo lý tôn giáo cũng chứa đựng
trong những bài vở mang tính chất phổ quát, đặc biệt trong những bài vở
mang tính chất chính trị.
Mọi người đều biết “lòng kính chúa”
của cựu Tổng thống Mỹ R. Rigan. Do ông này thường hay viện dẫn Kinh
Thánh, một cách đúng chỗ cũng như không đúng chỗ, nên các nhà báo đã gọi
ông Rigan là Giáo hoàng Roni I. Chẳng hạn, khi còn cầm quyền ông Rigan
cho các nhà báo biết rằng trước khi ra lệnh cho các chiến hạm Mỹ mở đầu
cuộc bắn phá Bayrut, ông ta đã đọc Kinh thánh, đặc biệt ông đã chăm chú
đọc đoạn mô tả Acmahedon. Ông ta cũng chia sẻ những suy nghĩ này với một
trong số những nhân vật lãnh đạo giới vận động hành lang thân Ixraen
trong Nhà Trắng.
Tờ The New York Times viết như sau:
“Khi một chính trị gia tuyên bố rằng Thượng đế chúc phúc cho bản cương
lĩnh của ông ta thì điều đó trở nên đặc biệt nguy hiểm… nếu như có điều
gì đó phi pháp trong hệ thống của Mỹ, thì đó là việc sử dụng phương pháp
hùng biện tôn giáo để quảng cáo cho cương lĩnh chính trị”.
Hiện tượng thú vị trong hiện thực nước
Mỹ có tên gọi “nhà thờ điện tử. Người sáng lập ra “nhà thờ điện tử” là
chuyên gia về Phúc Âm trên đài truyền hình Rober Robectoxo. Ông này là
người đầu tiên sử dụng trường quay truyền hình làm bệ thánh. Tuy nhiên,
trên sóng đài truyền hình ông này tuyên bố trực tiếp với 800 nghìn khán
giả truyền hình rằng nếu đến một thời điểm nhất định (có ghi chú đến
ngày 1-4) mà ông ấy không quyên góp được 8 triệu đô la thì Chúa sẽ đưa
ông về với Chúa. Để không trở thành nguyên nhân cái chết non của vị
truyền giáo khả ái, người xem truyền hình đã phải móc túi của mình ra.
Lại có một nhà truyền giáo khác trên
truyền hình, ông Gimi Xauhacto, đã xa hơn thế: ông ta kêu gọi hãy đóng
góp không chỉ thông qua kênh truyền hình, mà còn thông qua các mạng máy
tính cá nhân. Số tiền thu được mỗi ngày của Xauhacto là 400 nghìn đô la.
Sự phát triển như vũ bão của “nhà thờ
điện tử” được mở đầu trong những năm 1970. Những nhân vật nổi tiếng được
nhiều người biết đến là các nhà truyền giáo Gieri Pholuen, Gimi Becco,
Rober Sulo. Thường thấy nhất là các nhà truyền giáo của “nhà thờ điện
tử” thuộc vào cái gọi là giáo phái nền tảng cánh hữu. Công chúng nghe họ
thuyết giảng là hàng triệu người Mỹ.
Tuy nhiên, trong những năm 1980 bản
thân những nhà truyền giáo đã giáng một đòn chí tử vào uy tín của “nhà
thờ điện tử”. Số là, việc chạy theo siêu lợi nhuận đã đẩy họ vào cuộc
chiến sinh tử chống lại nhau. Nạn nhân đầu tiên là Gimi Becco. Một trong
những câu chuyện “giật gân bất ngờ” trong đời tư của vị truyền giáo này
là vụ tai tiếng với cô thư ký 21 tuổi thuộc giáo xứ ở Long Ailendo (New
York) Giexica Han. Vụ việc này được giữ kín.
Tuy nhiên, sau đó 7 năm Xauhacto nhận được từ các nhà báo những bằng
chứng không thể bác bỏ được về tội lỗi của đồng sự ở Maiami. Becco đã
phải bỏ ra 265.000 đô la để người đẹp và những nhân vật bảo trợ cô ta im
lặng, song câu chuyện ấy vẫn bị lộ ra. Xauhacto đã đưa Becco xuống tận
bùn đen và vạch ra kế hoạch chiếm “nhà thờ điện tử” của đối thủ cạnh
tranh với mình.
Thế nhưng, đến đây mục sư Macvin Gorman, người đã từng bị Xauhacto làm
cho phá sản, đã thuê thám tử tư và tóm được kẻ xấu xa ấy với chính tội
lỗi ấy. Vì Macvin Gorman cũng bị tố giác phạm tội không chung thủy, cho
nên Xauhacto đã thử sám hối công khai và qua đó xin các giáo hữu tha
thứ. Nhưng Pholuenlo đã gia nhập cuộc chiến. Ông này tìm cách chiếm lấy
Hãng truyền hình PTL của Becco với số tiền thu hàng năm 129 triệu đô la.
Tuần san Jim and Baket được chuyển tải trên truyền hình cáp đến 13
triệu hộ dân. Kết quả là Becco đã tuyên bố rằng Pholuenlo là kẻ thù ác
độc nhất của ông ta, là kẻ đã cướp đi Hãng truyền hình PTL. Pholuenlo đã
lập tức trả lời. Ông ta tuyên bố: “Ông Becco có trí nhớ tồi, hoặc ông
ấy là con người không trung thực, hoặc là một bệnh nhân tâm thần”.
Hơn thế nữa, ông ấy còn nói thêm rằng ông ta có những bằng chứng cho
thấy Becco là một kẻ đồng tính luyến ái. Các nhà truyền giáo bị cơn lốc
xì căng đan lôi cuốn nên đã không nhận ra rằng họ đã giáng đòn chí tử
vào toàn bộ “nhà thờ điện tử” mà những khoản thu nhập của nó ở Mỹ đã
giảm sút mạnh.
Khi đó các nhà truyền giáo Mỹ đã chuyển hoạt động của mình ra nước ngoài, đặc biệt là sang nước Nga.
Những nhân viên làm việc ở các ấn phẩm
tôn giáo tập hợp thành các hội đoàn và các hiệp hội, trong đó có những
hiệp hội mang tính chất nghề nghiệp. Chúng ta hãy lấy ví dụ về các nhà
báo Công giáo. Họ là thành viên của Liên Hiệp Quốc tế báo chí Công giáo
được thành lập năm 1935.
Các thành viên của Liên hiệp quốc tế này là Liên đoàn quốc tế các nhà
báo Công giáo (thành lập năm 1926), Ủy ban thường trực quốc tế các tổng
biên tập báo chí Công giáo (được thành lập năm 1926), Hiệp hội các đại
diện báo chí Công giáo (năm 1950) và những tổ chức khác. Hệ thống tôn ti
thứ bậc chức sắc của giáo hội Công giáo đã tạo tiền đề cho việc lãnh
đạo báo chí Công giáo được thực hiện từ Vatican.
Ví dụ, tổ chức tăng lữ “Hành động của Công giáo đã thành lập, chỉ riêng ở
Italia, những ấn phẩm sau đây: Quotidiano, L’Avenire d’Italia, Italia,
Nuova Cittadino, Ordiner, Averine patono, Eco di Bergamo và những ấn
phẩm khác. Các ấn phẩm công giáo tồn tại ở đa số các nước trên thế giới.
Ở Anh có ấn phẩm Catholic Herald, ở Torinat và Tobago có ấn phẩm
Catholic News, ở Ghana có ấn phẩm Catholic Standard, ở Hunggari có ấn
phẩm Catolicutxo, ở Mỹ có ấn phẩm Catholic Dagest và những ấn phẩm khác.
Vào dịp Lễ Phục Sinh năm 1997 trên
mạng Internet đã xuất hiện một trang đề cập giáo hội Công giáo. Đó là
một điều giật gân. Chỉ trong một thời gian ngắn đã có gần ba triệu người
truy cập trang này của Vatican.
Chuyên mục này trên mạng Internet có gì mà hấp dẫn “các cư dân của thế
giới điện tử” đến như vậy? Trước hết, nhờ nội dung của trang thông tin
này. Vatican đầy tiềm năng đã giới thiệu với những người sử dụng mạng
internet về tiểu sử của ba vị giáo hoàng La Mã gần đây nhất, tất cả các
thông điệp của giáo hoàng, các tài liệu lưu trữ của Vatican, phiên bản
điện tử của các bảo tàng ở Vatican, kênh phát các chương trình của Đài
Phát thanh Vatican, cũng như kinh bổn của giáo hội Công giáo La Mã. Các
thông tin được chuyển tải bằng các thứ tiếng: Italia, Anh, Pháp, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha và Đức. Người ta đang chuẩn bị mở đầu “phần hướng dẫn”
bằng tiếng Ả rập và tiếng Trung Quốc.
Trên mạng Internet có 3 máy tính phục
vụ trang thông tin này của Vatican. Ba máy tính này mang tên của ba vị
thánh. Máy “Rafail” chứa đựng toàn bộ khối lượng thông tin, máy “Gavril”
thực hiện xử lý các thông điệp được gửi đến, còn máy “Mikhail” thì có
nhiệm vụ vô hiệu hóa các virut máy tính.
Nhìn tổng thể thì báo chí tôn giáo là một lực lượng khá hùng hậu.
Sự phân hóa và chuyên biệt hóa báo chí
cho phép nâng cao hiệu quả của các bài vở của báo chí, đài phát thanh
và truyền hình, sử dụng các phương tiện hiện hữu với hiệu quả cao nhất.”
Minh Thạnh