Xưa thật là xưa, trên đảo Tù Tiên có một ngôi chùa tên là Linh Âm tự, vị
thầy trụ trì pháp hiệu là Hoa Đạo. Khách hành hương lai vãng không đông
nên mức sống của chùa cũng hơi khó khăn.
Một năm kia, thầy Hoa Đạo lên Phổ Đà Sơn dự lễ khai quang của Bồ Tát
Quán Âm, nhìn thấy chùa Pháp Vũ có La Hán Đường, trong ấy có 18 tượng
kim thân La Hán, thần thái mỗi vị mỗi khác, hấp dẫn khách hành hương đến
rất đông. Thầy nghĩ: Giá như Linh Âm tự cũng xây một phòng “La Hán
Đường” đắp 18 tượng La Hán thì chắc là tiền hương hỏa sẽ khá lên rất
nhiều.
Nghĩ thế xong, trong trí thầy chợt loé lên một mưu kế, thầy bèn xuất
tiền mướn một vị du tăng biết vẽ, nhờ vị ấy vẽ trộm phạm tướng của 18 La
Hán, đem trở về Linh Âm tự, rồi vội vội vàng vàng xây một tòa La Hán
Đường và nắn 18 tượng La Hán một cách qua loa sơ sài.
Quả nhiên La Hán Đường lôi cuốn rất nhiều thiện nam tín nữ, nguyện vọng
của thầy Hoa Đạo đã được thỏa mãn. Không ngờ việc thầy nhờ người vẽ trộm
tượng La Hán không hề thoát khỏi cặp mắt của Quán Âm Đại sĩ.
Xây La Hán Đường, tạo tượng La Hán thật ra không có gì đáng trách nhưng
động cơ của thầy Hoa Đạo khi làm việc này thì không được chính đáng cho
lắm, khiến cho Quán Âm cảm thấy khó chịu trong lòng.
Một năm sau, Quán Âm Đại sĩ bước lên đài sen bay đến gặp thầy Hoa Đạo và
thăm Linh Âm Tự một phen.
Hôm ấy thầy Hoa Đạo mặc tăng bào bằng lụa, trên khoác chiếc cà sa dệt
bằng cỏ đay, đang vui vẻ tháp tùng một vài vị tài chủ quyền quý đi dạo
trong La Hán Đường, bỗng nghe một chú sa di thưa rằng ngoài khách đình
có một vị xưng là Thiền sư Diệu Hải đến thăm chùa. Thầy đành cáo biệt
các vị thí chủ ấy, và bước đến phòng khách với một dáng điệu hiên ngang,
cao kỳ.
Ngước mắt nhìn, thầy chỉ thấy Thiền sư Diệu Hải nọ đầu đội mũ tăng cũ
kỹ, chân mang giày cỏ rách mướp, thân khoác cà sa vải thô, cổ đeo chuỗi
tràng hạt nhỏ rức, tuổi không ngoài 30, chỉ có tướng mạo thì có thể nói
là phi phàm. Thầy Hoa Đạo hỏi thăm qua loa, hỏi một cách lạnh lùng:
– Thiền sư quang lâm chùa nghèo này là để giảng kinh thuyết Pháp hay
là...
Thầy cố ý bỏ lửng cuối câu, và nhìn thẳng vào mặt Thiền sư Diệu Hải
không chớp mắt. Thiền sư Diệu Hải cười nhẹ, đáp rằng:
– Trên đường hóa duyên đi ngang qua đây, tôi muốn xin thầy cho tôi ở trọ
quý chùa vài ngày, vì có chút tịnh tài muốn cúng dường lên Phật.
Thầy Hoa Đạo nghe “có chút tịnh tài muốn cúng dường lên Phật” mới bảo
chú sa di dọn chỗ ăn chỗ ngủ cho khách, còn mình thì từ đó không buồn để
ý đến Thiền sư Diệu Hải nữa.
Thiền sư Diệu Hải thấy thầy Hoa Đạo đối với mình lãnh đạm như thế chỉ
chỉ lắc đầu cười buồn, nhưng lại lợi dụng cơ hội ấy để được hưởng cảnh
thanh nhàn tự tại, từ sáng đến tối chỉ đi dạo trong La Hán Đường. Ngài
thấy tuy bên ngoài nhìn thì rất đẹp mắt, nhưng móng nhà, khung nhà xây
lại không chắc chắn chút nào. Hơn nữa, 18 tượng La Hán, tượng nào cũng
đắp sai kiểu, nên trong lòng có phần bất mãn và lo lắng, nhưng phần bất
mãn thì ba, còn lo lắng thì lên tới bảy phần! Chiều hôm sau, Thiền sư
tìm thầy Hoa Đạo nói rằng:
– La Hán Đường của quý chùa khung nhà thì không vững, tượng La Hán thì
đắp sơ sài cẩu thả, móng nhà thì lún xuống một cách nguy hiểm, nếu không
mau sửa sang lại thì 18 tượng La Hán thế nào cũng bị hủy diệt.
Nghe thế thầy Hoa Đạo không chút bằng lòng, chỉ lạnh lùng niệm một câu
“A Di Đà Phật!” rồi phất tay áo bỏ đi. Thiền sư Diệu Hải nổi giận, thoạt
đầu tính dùng lời nghiêm nghị quở trách, nhưng nghĩ lại, thầy Hoa Đạo
hiện đang tự mãn đắc ý, trách thầy không ích lợi gì, thôi thì để cho sự
thật dạy cho thầy bài học vậy.
Sáng sớm hôm sau, Thiền sư Diệu Hải múa bút đề ba chữ lớn “Đại Bi Sơn”
để lại, và lặng lẽ rời bỏ Linh Âm tự. Ba chữ Đại Bi Sơn ngụ ý “Người
mượn cửa Phật để mưu cầu lợi dưỡng là người rất đáng thương”, mà cũng ám
chỉ người viết ba chữ ấy chính là Đại từ Đại bi Cứu khổ Cứu nạn Quan Thế
Âm Bồ Tát. Tiếc rằng lúc ấy thầy Hoa Đạo không hề hiểu ý.
Ba năm sau, một đêm nọ sấm chớp ầm ầm, mưa gió tơi bời. Bỗng nhiên nghe
tiếng “rầm, rầm!”, La Hán Đường của Linh Âm tự, móng nhà lở sụt, khung
nhà nghiêng đổ, 18 tượng La Hán cũng ngã lăn ngã lóc khiến thầy Hoa Đạo
cứ điếng người kinh hãi, nhớ lại lời Thiền sư Diệu Hải, hối hận thì
không kịp nữa.
Chùa Linh Âm bị tai nạn như thế, khách hành hương cũng thưa dần và lạnh
nhạt đi. Thầy Hoa Đạo không còn mặt mũi nào giữ chức trụ trì ở đấy nữa,
nên cũng âm thầm ra đi vân du bốn phương.
Sau đó nhiều năm, thầy đã nếm đủ mùi gian khổ, cuối cùng cũng tỉnh ngộ.
Thầy bèn trở về Linh Âm Tự, kiếm lại mấy chữ mà Quán Âm Đại sĩ đã viết,
đóng khung thành một tấm biển và treo trên cửa vào của chính điện, còn
mình thì chỉ là một vị thầy tu làm việc khổ nhọc, chân thành tụng kinh
niệm Phật để chuộc lỗi lầm xưa.