Những năm cuối triều Tây Hán có một vị quan huyện họ Mai tên Phúc, tự là
Tử Chân. Ông là người cương chính, không biết a dua nịnh nọt, có mấy lần
dâng biểu lên Hoàng Đế khuyến thỉnh vua nên trừ diệt bọn loạn thần phản
tặc, trọng dụng những vị trung thần hiền lương, cải thiện những tệ đoan
trong chính sách trị dân để trung hưng nhà Hán.
Nhưng ông khổ tâm khuyên giải mà chẳng có ích lợi gì. Một hôm Mai Phúc
đi tản bộ dạo chơi ở ngoài thành, chợt thấy vài ba đứa bé trong thôn bắt
được một chú chim nhỏ. Thấy dáng điệu chú chim tội nghiệp đáng thương,
ông bèn đưa tiền cho mấy đứa bé xin chuộc nó. Càng nhìn ông càng thấy
thương, bèn nhấc tay lên, chú chim tung cánh bay lên trên không, lượn
vài vòng giống như một đóa mây ngũ sắc rực rỡ, rồi bay đi mất.
Mai Phúc quay bước trở về nhà, trong lòng cảm thấy hân hoan vui vẻ. Bỗng
có hai tên lính lệ của nha môn ùa đến, dùng xiềng xích trói ông lại kéo
đi.
Thì ra Vương Mãng soán vị lên ngôi vua, vì sợ dân chúng không thần phục
nên hễ ai phản đối thì muốn giết cho tận gốc đi. Mai Phúc là một trong
số những người đó. Thế là Mai Phúc biến thành một tên tội phạm, bị áp
giải về kinh đô.
Một bữa trưa nọ, chú chim sặc sỡ ngày nào đột nhiên bay đến nhẹ nhàng
đậu lên vai ông, gật gật đầu, vẫy vẫy cánh, rung rung bộ lông tuyệt đẹp
của mình, rồi “phù” một tiếng, bay vút lên trên không. Ngay sau đó, có
tiếng sét đánh “ầm”, trời đất tối sầm, đất cát bay mù mịt. Gông cùm trên
thân Mai Phúc bị một tảng đá bay lên đập nát, và hai tên công sai hai
bên thì bị một trận cuồng phong cuốn đi mất.
Đến khi mây tan gió lặng thì Mai Phúc đã đến bờ biển Đông Hải không biết
tự bao giờ. Đang lúng túng không biết phải làm gì, bỗng có một chiếc
thuyền nhỏ không buồm không lái bồng bềnh trôi đến trước mặt ông. Thế là
ông lồm cồm bò lên thuyền.
Khi Mai Phúc còn nằm trên thuyền nửa mê nửa tỉnh thì thuyền đã trôi đến
bờ biển của Phổ Đà Sơn và dừng lại. Ông giương mắt nhìn, chỉ thấy trên
đảo có những hàng cây xanh rì tỏa bóng mát, hoa trái sum suê. Thế là ông
vội vàng trèo mau lên núi.
Hái quả trên cây dùng bữa xong, Mai Phúc cảm thấy toàn thân sảng khoái,
chân tay nhẹ nhàng lanh lẹ. Trèo lên đến đỉnh núi, phóng tầm mắt nhìn ra
xa, ông thấy những cánh buồm trắng dật dờ điểm trên mặt biển mênh mông,
núi cao lên tận mây trời, xung quanh thì chim ca bướm lượn. Mai Phúc cảm
thấy vui thích, bèn tìm đến một động đá vào đó ẩn cư, tĩnh tọa luyện
đan.
Vài trăm năm sau, Bồ Tát Quán Âm tạo lập đạo tràng tại Phổ Đà Sơn. Một
hôm, ngài đi tản bộ đến Tây Thiên, thấy Mai Phúc tóc bạc phau phau, da
dẻ hồng hào, cốt cách phi phàm, biết rằng ông đã tu tiên đắc đạo, nên cố
ý hỏi :
– Cửa Phật thuyết Pháp tụng kinh để siêu độ chúng sinh, còn ông ở đây
xây vạc tu hành để làm gì thế ?
Mai Phúc nhìn ngài Quán Âm, không tìm ra lời để đáp. Ngài nói tiếp :
– Ông chỉ muốn trốn tránh thế giới loạn lạc để tự mình no đủ, có biết là
chúng sinh phàm trần đang chịu khổ đau không? Sao không vì dân mà đi trừ
yêu ma?
Ngài Quán Âm nói xong, quay lưng lướt đi.
Càng suy nghĩ, Mai Phúc càng thấy lời nói của Quán Âm Bồ Tát rất có lý.
Thế là một đêm sáng trăng, ông bước ra khỏi động luyện đan, rời Phổ Đà
Sơn, đi vân du phát thuốc cứu thế.
Mai Phúc làm được rất nhiều việc cứu tế trong dân gian. Vì thế, để kỷ
niệm Mai Phúc, dân gian bèn dựng một cái am bên cạnh động luyện đan của
ông, đặt tên là am Mai Phúc, rồi còn đắp tượng của ông, đặt ngồi bên
cạnh ngài Quán Âm.