08. Đối
trị các uế nhiễm dầu hắc
Cư sĩ Upasika Kee Nanayon
(1901-1978) là một trong những nữ giảng sư nổi tiếng của Thái Lan ở thế kỷ 20
này. Bà cũng là tác giả của nhiều tập thơ nổi tiếng. Năm 1945, bà thành lập một
trung tâm Thiền nhỏ trong vùng núi ngoại ô Bangkok. Phật tử từ khắp nơi trên đất nước
Thái Lan tụ về đó để nghe bà giảng pháp, cho đến khi bà mất năm 1978. Bài giảng
này được trích dịch từ quyển An Entangled Knowing:
The Teaching of a Thai Buddhist Lay Woman. Bài
này do Tỳ kheo Thanissaro dịch từ tiếng Thái sang tiếng Anh.
___________________
Dầu biết tu tập, ta vẫn thường
bị sa ngã vì các cảm thọ của mình. Xét dưới nhiều khía cạnh, các cảm thọ chỉ là
ảo tưởng. Chúng vô thường, không xác thực. Thay vì mang đến cho ta sự tự tại,
chúng chỉ khiến ta thêm căng thẳng - vậy mà ta vẫn bám víu vào chúng. Hãy suy
gẫm cho thấu đáo về sự bám víu vào thọ ấm này của chúng ta. Đôi khi chúng ta
phải trải nghiệm với những khổ đau dường như vượt quá sức chịu đựng của mình.
Khi các cảm giác đau đớn, khó chịu dấy khởi, tâm ta sẽ phản ứng ngay vì nó
không thích sự đau đớn, khó chịu. Nhưng khi sự đau đớn đó biến thành dể chịu
thì tâm chấp nhận, ưa thích điều đó. Vì thế tâm tiếp tục chạy tìm các cảm thọ
thoải mái, dễ chịu, dầu như ta đã biết, cảm thọ luôn biến đổi, gây căng thẳng,
và không thật sự là của ta. Nhưng tâm không biết được điều đó, nó chỉ biết đến
sự dễ chịu của các cảm thọ, và nó đòi hỏi được có thêm. Hãy quán sát thêm xem
các cảm thọ đã dấy khởi trong lòng ta bao ham muốn. Vì ta muốn luôn có được các
lạc thọ, nên lòng ham muốn luôn lôi cuốn, rót bên tai những lời khuyến khích.
Nhưng nếu ta có thể diệt trừ được lòng ham muốn các cảm thọ, thì đó chính là
con đường dẫn tới Niết bàn.
Đức Phật bảo u minh giống như
một cơn lũ lớn, có thể cuốn phăng ta đi. Nhưng Đức Phật đã dạy ta những phương
tiện, cách thực hành để vượt qua được cơn lũ đó, đơn giản là đoạn diệt được
lòng ham muốn trong mọi hành động. Ngay chính trong các cảm thọ, ta cũng cần
phải thực tập buông bỏ lòng ham muốn.
Hãy thực tập ở ngay trong ta.
Khi tâm có được cảm giác yên tĩnh, bình an, đó là một cảm thọ dễ chịu hay sự
buông xả. Hãy cố quan sát xem cảm thọ dễ chịu đó vô thường như thế nào, tại sao
nó không phải là ta hay của ta. Khi ta có thể ngưng lại ngay nơi đó, ngay lúc
tâm đang thụ hưởng những gì lạc thọ đang mang đến, và phát khởi lòng bám víu.
Đó là lý do tại sao tâm ta cần luôn tỉnh thức, quan sát chính nó và những gì
xảy ra quanh nó - trong sự chú tâm để nhìn thấy cảm thọ chỉ là trống không.
Việc ta thích hay không thích
một cảm thọ là một căn bệnh khó khám phá, vì nỗi say mê của ta với các cảm thọ
quá mạnh mẽ. Ngay cả khi tâm ta trống vắng hay bình lặng, chúng ta vẫn tràn
ngập các cảm giác. Những cảm giác thô lậu - mạnh mẽ, căng thẳng do vô minh gây
ra - có thể được nhận biết rõ ràng, nhưng khi tâm bình lặng - sáng suốt, thoải
mái, không dao động, vân vân - chúng ta vẫn bám chặt vào các cảm thọ này. Ta
muốn có được những cảm thọ dễ chịu để tận hưởng chúng. Ngay chính khi ở trong
trạng thái chú tâm mạnh mẽ hay thiền định, ta cũng bám víu vào cảm thọ.
Lòng ham muốn như có sức hút nam
châm để gắn chặt mọi thứ lại với nhau. Sự gắn bó này ta khó nhận biết vì lòng
ham muốn luôn thầm thì bên trong ta “Tôi không ham muốn gì hơn là những cảm
giác dễ chịu”. Nhận ra được điều đó rất quan trọng, vì chính những con vi trùng
của ham muốn đã đưa chúng ta đi mãi trong vòng luân hồi sinh tử.
Chúng ta gắn bó với cảm thọ như
một con khỉ bị dính dầu hắc. Khi tay này bị dính dầu hắc, khỉ đưa tay kia để
gỡ, thì tay đó cũng dính luôn, rồi đến chân đến miệng nó cũng bị dính. Hãy suy
gẫm về những điều sau đây: bất cứ chúng ta làm gì, cuối cùng ta cũng bị dính
vào với cảm thọ và lòng ham muốn, Ta không thể tháo gỡ chúng ra, không thể tẩy
gột. Nếu ta không cẩn thận với lòng ham muốn, ta cũng giống như con khỉ bị dính
dầu hắc. Càng lúc càng bị dính chặt thêm. Vì thế nếu ta quyết tâm đi theo bước
chân của các vị giác ngộ, các bậc A–la-hán, ta phải chú tâm chánh niệm vào các
cảm thọ cho đến lúc ta hoàn toàn thoát khỏi sự bủa vây của chúng. Ngay với các
khổ thọ, ta cũng phải huân tập - vì nếu ta sợ các khổ thọ, luôn muốn biến nó
thành lạc thọ, thì ta càng trở nên vô minh hơn trước nữa.
Đó là lý do tại sao ta phải can
đảm trong việc đối mặt với các khổ thọ nơi thân tâm. Khi khổ thọ dấy khởi ngùn
ngụt như một căn nhà đầy lửa, ta có thể buông nó không? Ta phải nhìn cả hai mặt
của nó như thế nào? Và khi nó êm ái, dễ chịu, ta phải nhìn xuyên suốt nó như là
cả hai (lạc và khổ) làm sao? Ta phải cố gắng chú tâm vào cả hai mặt đó, quán
cho đến khi nào ta biết phải làm thế nào để buông bỏ chúng. Nếu không ta chẳng
biết gì cả, vì lúc nào ta cũng chỉ muốn cái phần dễ chịu, êm ái của lạc thọ.
Niết bàn là sự đoạn diệt của
lòng ham muốn. Như thế nếu ta cứ muốn bám vào ham muốn mãi, thì làm sao ta có
thể đi được đến đâu? Ta sẽ ở đây trong thế giới này, trong khổ đau, bứt rứt, vì
lòng ham muốn giống như một loại dầu hắc dính chặt. Nếu không có lòng ham muốn,
thì không có thứ gì khác: không có căng thẳng, khổ đau, không tái sinh. Trái
lại, thì nó là mủ cây, là dầu hắc, là màu nhuộm khó có thể tẩy giặt.
Để mở cánh cửa nhìn được vào nội
tâm ta không phải dễ, nhưng cũng có thể làm được, nếu ta biết cách huấn luyện
mình. Nếu ta có chánh niệm để tự soi xét mình, tự biết mình thì mọi việc sẽ dễ
dàng hơn. Khi đó, dầu lòng ham muốn có ngụy trang như thế nào, ta cũng sẽ nhận
ra nó, biết nó để đoạn diệt, buông bỏ nó.
Ở giai đoạn bắt đầu ta chỉ cần
quan sát sự vật, chỉ cần tỉnh thức. Nếu nôn nóng, ta sẽ làm hỏng hết mọi việc,
khiến ta không còn có thể nhìn sự vật một cách rõ ràng. Ta chỉ dừng lại ở chỗ
nhận biết và không thể đi xa hơn nữa. Vì lý do đó, ta phải luyện tâm, chú tâm
đến độ ta có thể nhận biết sự việc một cách rõ ràng, coi như chúng là các đối
tượng mà ta luôn phải quan sát.
Upasika Kee Nanayon
(Trích Dịch theo A Glob of Tar, Pure and Simple, NXB Wisdom, 2005)