02. Có
khổ mới biết tu
Cư sĩ Upasika Kee Nanayon, sinh
năm 1901, là một trong những vị nữ giảng sư nổi tiếng ở Thái thời hiện đại. Bà
đã xây một trung tâm tu tập cho nữ tu/cư sĩ trên một ngọn đồi ở tỉnh Rajburi,
phía tây Bangkok,
nơi bà đã sống cho đến lúc mất vào năm 1978. Các bài giảng của bà đã được Đại
đức Thanissaro dịch ra tiếng Anh, trong quyển “Thanh Tịnh Và Giản Đơn” (Pure
and Simple, NXB Wisdom Publications).
________________
Những người nằm bịnh thật may mắn
vì họ có cơ hội không phải làm gì ngoài việc quán sát cái đau, nỗi bứt rứt. Tâm
họ không vướng bận gì khác, không cần phải đi đâu, làm gì. Họ có cơ hội để luôn
quán sát cái đau - và để luôn buông cái đau đó.
Quán sát sự thay đổi, sự bứt rứt
và vô ngã tưởng (trong Phật giáo, là ba dấu ấn của sự hiện hữu - anicca, dukkha và anatta - thường được biết như là vô
thường, khổ và vô ngã) khi chúng ở kề cận bên bạn khi bạn đang nằm bịnh ở đây,
là rất hữu ích. Chỉ cần nhớ đừng nghĩ bạn
là cái đau. Chỉ cần nhìn các hiện tượng tự nhiên của các sự kiện
sinh tâm lý khi chúng khởi lên rồi qua đi. Chúng không phải là bạn. Chúng cũng
không thực là của bạn. Thực sự, bạn đâu có quyền kiểm soát đối với chúng.
Hãy quán sát chúng! Thật ra bạn
kiểm soát được chúng tới đâu? Bất kể thân bạn đang có bịnh gì, điều đó không
quan trọng. Quan trọng là cái bịnh trong tâm. Thông thường ta không để ý đến sự
kiện là ta có bịnh trong tâm –các căn bịnh của uế nhiễm, tham luyến. Chúng ta
thường chỉ để ý đến những căn bịnh nơi thân, lo sợ tất cả mọi chuyện khủng
khiếp có thể xảy đến cho thân. Các loại thuốc ta dùng để chữa bịnh cho thân chỉ
có thể tạm thời trì hoãn bản án tử hình của ta. Ngay chính những người trong
quá khứ không có bịnh hoạn gì cũng không còn với chúng ta nữa. Cuối cùng thì tất
cả mọi người đều phải bỏ thân này. Khi tiếp tục quán tưởng như thế, bạn sẽ thấy
sự thật của vô thường, khổ và vô ngã một cách trung thực ngay nơi bản thân, và
bạn sẽ trở nên ngày càng nhàm chán với mọi thứ, từng bước từng bước.
Bạn phải quán sát cái đau của
mình thật kỹ lưỡng để thấy rằng thật ra không phải bạn là cái đau. Căn bịnh đó không phải của bạn. Đó là căn
bịnh của thân, căn bịnh của một hình thể vật lý. Hình thể vật lý và sự kiện tâm
linh phải thay đổi, bạn phải chú tâm vào chúng khi chúng xuất hiện, quán sát,
theo dõi từng bộ phận nhỏ nhặt của chúng. Một sự hiểu biết tường tận về đặc
tính của các hình thể vật lý và diễn biến tâm linh sẽ giải thoát bạn khỏi những
khổ đau, căng thẳng.
Có những người, khi họ đang khỏe
mạnh, an nhiên, bỗng đột ngột qua đời mà không biết điều gì đã xảy ra cho họ.
Tâm họ hoàn toàn mờ mịt về chuyện gì đang xảy ra. Điều đó còn tệ hơn người nằm
bịnh trên giường có thể dùng cái đau của họ như là một phương tiện để tu tập và
phát triển tâm nhàm chán, không bám víu. Bạn không cần phải sợ hãi cái đau. Nếu
nó đang ở đó, cứ để nó ở đó -nhưng đừng để tâm phải đau đớn theo nó.
Vì thế khi đau bịnh, bạn hãy tự
coi mình may mắn. Nằm đó, đối mặt với căn bịnh, bạn có cơ hội để thực tập thiền
minh sát trong từng phút giây. Không quan trọng là bạn đang ở nhà hay nằm viện.
Đừng để tâm bạn phải quan tâm đến việc bạn đang ở đâu. Bạn không phải gán mình
vào một nơi chốn nào. Chỉ cần nắm lấy cơ hội để quán sát các hiện tượng đến rồi
đi.
Ta không thể ngăn cản nỗi đau
hay niềm vui, ta không thể cấm tâm phán đoán sự việc, hình thành tư duy, nhưng
ta có thể sử dụng chúng theo một hướng khác. Nếu tâm dán nhãn cho cái đau và
nói, ‘Tôi đau,’ ta phải xem xét sự gán ép đó kỹ lưỡng, quán sát nó cho đến khi
bạn nhận ra được cái sai của nó: cái đau đó không thật sự là ta. Nó chỉ là một
cảm giác phát khởi rồi qua đi, chỉ có thế.
Quán sát bất cứ những gì phát
khởi - một cảm giác, một cảm xúc, một tư tưởng - và rồi hãy để nó qua đi mà
không chấp, không bám víu vào đó. Bắt đầu bằng cách thực tập kiềm chế tâm, chú
tâm ghi nhận, quán sát những biểu hiện của sự căng thẳng, đớn đau. Tiếp tục
thực tập cho đến khi tâm có thể duy trì thái độ đó trong trạng thái trống không
rõ ràng của tâm. Nếu bạn có thể thực hành viên mãn điều đó, thì sự giải thoát
cuối cùng của cái đau sẽ xảy ra ngay tại đó, ngay tại nơi cái tâm trống rỗng.
Hãy giữ chánh niệm về cái đau
ngay ở nơi mà trạng thái đó chỉ là một cảm giác trong thân. Nó có thể là cái
đau ở thân, nhưng không cần thiết phải là cái đau của tâm. Trước hết hãy bảo vệ
tâm, hãy buông bỏ mọi thứ, rồi hướng vào bên trong tìm cái phần sâu thẳm, tận
cùng nhất của chánh niệm và trú ngay tại đó. Ta không cần phải liên can đến cái
đau ở bên ngoài, ngay nếu như chúng dường như quá sức chịu đựng của ta. Hãy tìm
cho được những khía cạnh sâu thẳm của tâm, lúc đó ta có thể để mọi thứ khác qua
một bên.
Nếu cái đau là loại bạn có thể
quán sát, thì hãy cố gắng quán sát nó. Tâm sẽ ở trạng thái trung tính bình
thường, an tĩnh với tánh không bên trong nó, quán sát cái đau khi nó chuyển
đổi, rồi qua đi. Nếu quá sức đau đớn, thì quay lại, trở vào bên trong, vì nếu
bạn không thể kiểm soát cơn đau, thì tham sẽ khởi dậy chen ngay vào, với ý muốn
xua đuổi cái đau để tìm sự dễ chịu. Và nó cứ chồng chất, nối tiếp nhau, khiến
tâm ở trong trạng thái hoảng loạn cùng cực. Nếu cái đau đột ngột, cao độ, lập
tức quay trở lại, tập trung sự chú ý vào tâm. Ta không muốn dây dưa với thân và
cái đau. Tập trung trú vào điểm sâu thẳm của chánh niệm. Đạt đến chỗ bạn có thể
thấy được trạng thái tâm thanh tịnh, không đau đớn theo cái đau ở thân, và duy
trì trạng thái tâm luôn sáng suốt.
Một khi tâm luôn sáng suốt, thì
dầu thân đang đau đớn bao nhiêu, đó cũng chỉ là các hiện tượng tâm sinh lý. Tuy
nhiên tâm không liên can. Nó để mọi thứ sang một bên. Nó buông xả.
Bạn phải tiếp tục thực tập như
thế không ngừng nghỉ. Khi nào cái đau khởi lên, không kể mức độ đau, đừng gán
ép cho nó là gì hay dành cho nó một ý nghĩa nào. Ngay nếu như có sự dễ chịu
phát khởi, cũng đừng bám vào sự dễ chịu đó. Cứ tiếp tục buông nó đi, thì tâm
cũng được nhẹ nhàng – thoát khỏi mọi bám víu hay chấp vào ‘ngã’ trong từng phút
giây. Bạn phải luôn dồn hết sức chánh niệm và năng lực vào sự thực tập này.
Bạn phải coi như mình may mắn
được nằm bịnh ở đây, để quán sát về cái đau, vì bạn có cơ hội để phát triển đến
con đường hoàn toàn tỉnh thức, đạt được tri kiến và buông xả tất cả. Không ai
có cơ hội tốt hơn những gì bạn hiện đang có. Một người nằm bịnh trên giường có
cơ hội để phát triển tri kiến với từng hơi thở vào ra. Điều đó chứng tỏ bạn đã
không uổng phí kiếp người của mình, bạn biết thế, vì bạn đang thực hành những
lời dạy của Đức Phật cho đến độ bạn có thể đạt được sự hiểu biết rõ ràng về bản
chất chân thực của sự vật.
Người ta thuờng suy gẫm về sự
chóng qua của cuộc đời khi nó liên hệ đến người khác, khi ai đó bị bịnh, hay
chết, nhưng họ rất ít khi suy gẫm về sự chóng qua của cuộc đời chính mình. Hoặc
nếu có, thì việc đó cũng chỉ xảy ra trong thoáng chốc, sau đó họ quên ngay tất
cả, lại hoàn toàn đánh mất mình trong những vấn đề khác. Họ không đem những sự
thật này vào bên trong để suy gẫm về những sự vô thường đang xảy ra với chính
họ trong từng phút giây.
Thiền quán không phải là một
việc mà bạn có thể lấy một hay hai tháng nghỉ để dự một khóa tu chuyên sâu. Đó
không phải là sự thực hành đúng. Nó không thể so sánh với những gì bạn đang làm
hiện giờ, quán sát cái đau cả ngày mỗi ngày và cả đêm, trừ lúc ngủ. Khi cái đau
thật trầm trọng, nó càng tốt hơn cho sự hành thiền của bạn vì nó cho bạn cơ hội
để biết một lần cho tất cả vô thường là gì, căng thẳng, khổ đau là như thế nào,
sự bất lực của bạn ra làm sao.
Thiền quán không phải là việc
bạn đợi đến lúc chết hay sắp chết mới bắt đầu. Đó là việc bạn chỉ phải tiếp tục
thực hành, tiếp tục ‘minh sát’. Khi căn bịnh thuyên giảm, bạn cũng phải ‘minh
sát’ nó. Khi nó trở nặng, bạn cũng ‘minh sát’ nó. Bạn cứ tiếp tục phát triển
tri kiến như thế, tâm sẽ chế ngự được sự tăm tối, vô minh của nó. Nói cách
khác, những thứ như tham dục, uế nhiễm sẽ không còn dám phiền rộn đến tâm như
chúng vẫn thường làm trong quá khứ.
Khi tâm trở nên thức tỉnh với
mọi thứ, bước kế tiếp là quán sát tâm một cách khéo léo để xem nó trở nên trống
rỗng như thế nào, xuyên suốt cho đến khi không còn tư tưởng nào bày trò gì,
không có sinh, không có diệt, không có biến đổi gì cả.
Vì thế hãy chú tâm vào, quán sát
ngay nơi ấy, ngay nơi tâm, ngay nơi thức, và hãy để chỉ có cái biết của việc buông bỏ cái biết (the knowing that
lets go of knowing). Điều này có nghĩa là bạn sẽ buông bỏ cho đển
chỗ tâm thức không còn đặt tên, dán nhãn hiệu cho chính nó. Sẽ không còn phân
biệt tốt, xấu hay bất cứ thứ gì. Tính nhị nguyên cũng không còn ảnh hưởng gì.
Nhưng vì điều này nẳm ở một mức độ sâu hơn, bạn cần phải chắc rằng sự nhận thức
của bạn thật sắc bén, tinh xảo. Phải chắc chắn rằng sự nhận thức bén nhạy này
được duy trì liên tục. Bạn sẽ nhận ra rằng bạn không còn bám víu vào các nhãn
hiệu, các ý nghĩa; các suy nghĩ về tốt hay xấu đều ngừng lại.
Do đó Đức Phật dạy chúng ta nên
xem vạn pháp như không, như trống rỗng, đó là cách chúng ta nên nhìn sự vật. Pháp
bảo ở ngay đây, trong thân và tâm của ta, chỉ là ta không nhìn ra được – hay
nhìn một cách sai lạc. Nếu chúng ta nhìn sự vật với con mắt của chánh niệm và
trí tuệ, thì còn gì có thể khiến ta khổ đau? Tại sao lại phải sợ đau, sợ chết? Nếu
ta có thể hiểu rằng chính sự bám víu khiến ta khổ đau, thì tất cả việc ta cần
làm là buông bỏ, và ta sẽ thấy được sự giải thoát khỏi khổ đau sẽ xảy ra như
thế nào ngay trước mắt ta.
Upasika
Kee Nanayon
(Dịch theo Tough Teachings To Ease The Mind,
Tricycle
Spring 2005)