08.
Phỏng vấn TS. Bhante Gunaratana
Thiền Sư Henepola Gunaratana
xuất gia năm 12 tuổi ở Kandy, Sri
Lanka. Tu tập làm sadi trong tám năm, tỳ
kheo được bảy năm, sau đó Sư mới rời Sri Lanka vào năm 1954 để đến Ấn Độ phục
vụ cho những người thuộc giai cấp hạ lưu. Năm 1968, Sư đến Mỹ và trở thành vị
Tổng Thư Ký Danh Dự (Honorary General Secretary) của Hội Phật giáo, một tu viện
ở Washington D.C. Trong thời gian đó, Sư cố gắng lấy bằng tiến sĩ về triết học
ở Đại học American, nơi sau này Sư trở thành vị Tuyên Giáo Phật giáo ở đó. Sư
đã hoằng pháp trên khắp thế giới trong hơn 40 năm. Sách của Sư gồm có Căn Bản
Chánh Niệm (Mindfulness in Plain English), do nhà xuất bản Wisdom Publications
phát hành (ND: Hiện nay, Sư đã xuất bản thêm 3 quyển nữa là: Hành
Trình Đến Chánh Niệm (Journey to Mindfulness); Bát Chánh Đạo: Con Đường Đưa Đến
Hạnh Phúc (Eight Mindful Steps To Happiness) và Con Đường Thiền Chỉ & Thiền
Quán (The Path of Serenity and Insight).
Năm 1988, Bhante Gunaratana trở thành chủ tịch của Hội Bhavana ở High View,
phía tây tiểu bang Virginia.
Trung tâm này khuyến khích việc tu thiền Quán (Vipassana) và đời sống xuất gia.
(ND: Có thể
xem thêm về cuộc đời của Sư trong quyển Hành Trình Đến Chánh Niệm-Tự truyện của
Sư Gunaratana, NXB Phương Đông 2007).
Cuộc phỏng vấn này được thực
hiện bởi bà Helen Tworkov, Biên Tập Viên của Tạp chí Tricycle, tại Hội Bhavana
vào tháng 11 năm 1994. Bhante trong tiếng Pali tương đương với từ Thượng Tọa
(Reverend) trong tiếng Anh.
Tricycle: Hiện
tại, ở Tây phương, nhiều người cho rằng sự phân biệt giữa đời sống của người tu
sĩ và người cư sĩ như ở Á Châu đã lỗi thời, không còn thích hợp, không có vị
trí nào ở Tây phương.
Bhante Gunaratana: Cuộc
sống của người xuất gia tốt hơn, không phải vì mục đích chính trị hay cho một
quyền lực nào, nhưng tốt hơn cho việc phát triển tâm linh. Đời sống nơi tu viện
nuôi dưỡng, hỗ trợ tâm tu tập. Nếu bạn muốn sống cuộc sống thế tục, thì không
thể gọi đó là đời sống xuất gia, và bạn cũng không thể hy vọng là mình có thể
tu tập một cách tốt nhất. Ngày nay cuộc sống tạo ra nhiều mối tương quan, khiến
người ta lâm vào những hoàn cảnh khó khăn, phức tạp về tình cảm hay điều gì đó.
Mỗi cá nhân có quá nhiều bổn phận, quá nhiều việc phải làm. Trong khi chúng ta
cần phải có không gian để trưởng thành, để cải thiện sự thực hành tâm linh. Đó
là lý do tại sao Đức Phật nói, “Hãy giảm bớt các bổn phận.” Khi có ít bổn phận
hơn, hãy giảm bớt công việc. Khi có ít công việc phải làm, ta có nhiều thời
gian để tu tập hơn, ta không phải luôn sống trong căng thẳng, lo âu, bức xúc,
khiến sức khỏe của ta bị ảnh hưởng.
Tricycle: Ở thời
đại mới này, có cách gì để khuyến khích người ta sống theo đời sống của người
xuất gia?
Bhante Gunaratana: Một số
truyền thống nơi tu viện cũng đã được sửa đổi. Người tu sĩ không cần phải hoàn
toàn tách rời khỏi xã hội mà họ đang sống. Ngay chính trong tu viện, cũng có
một số điều có thể thay đổi để làm cho cuộc sống nơi đó sinh động hơn. Thời
trước, cuộc sống nơi tu viện có vẻ rất tăm tối, đầy khổ hạnh. Các vị tu sĩ ngồi
dưới gốc cây hay trong hang động để hành thiền suốt ngày. Một trong những điều
mà ở đây chúng tôi thường bị một số tu viện quá nghiêm khắc phê bình, là chúng
tôi quá thoáng. Không phải là chúng tôi đã quên cuộc sống ở tu viện phải như
thế nào, nhưng chúng tôi cố gắng làm cho nó hiện đại bằng cách tạo ra một số
sửa đổi.
Tricycle: Thí dụ
như là?
Bhante Gunaratana: Chúng
tôi cũng lái xe nếu cần. Đôi khi chúng tôi cũng đi chợ nếu không có ai khác làm
việc đó. Và chúng tôi cũng có những vị tăng và ni sống ở cùng một trú xứ. Miễn
là chúng tôi gìn giữ giới luật, thì những sự sửa đổi này là có thể chấp nhận
được. Đôi khi người ta nói rằng, tất cả mọi giới luật tôn giáo, không chỉ là
giới luật của người xuất gia, đều đã lỗi thời… Ở một số nơi, hay một số xã hội,
đạo đức không còn là vấn đề quan trọng nữa, vì người ta không muốn tự kỷ luật
mình. Họ không muốn có trách nhiệm, không tôn trọng sự chân chất, thật thà.
Nhưng những đức tính này chẳng bao giờ lỗi thời. Chúng tôi muốn gìn giữ cái cốt
lõi. Sửa đổi không có nghĩa là để mặc cho ai muốn làm gì thì làm. Những giới
luật do Đức Phật đề ra đều là vì lợi ích của chúng ta. Tất cả những giới luật
mà chúng ta gìn giữ là để thanh tịnh hóa tâm. Không có sự thanh tịnh hóa của
tâm, chúng ta không bao giờ đạt được định, tuệ, tri thức, và chẳng bao giờ có
thể tháo gỡ được sự bực bội, khó chịu tâm lý tiềm ẩn.
Tricycle: Ở Tây
phương có một quan niệm tâm lý chung cho rằng cuộc sống độc thân là không lành
mạnh. Do đó đời sống xuất gia thu hút không phải những người muốn đi tìm một
lời giải cho vấn đề tâm linh mà là những người có vấn đề về tình dục.
Bhante Gunaratana: Ngược
lại, chúng tôi thấy rằng những người lúc nào cũng nghĩ đến tình dục mới có vấn
đề. Ở đâu cũng thế. Chạy theo những đòi hỏi của bản năng và buông xuôi theo
chúng thì cũng không phải là lành mạnh. Người đã tự rèn luyện mình một cách
nghiêm túc, đầy chánh niệm để kiềm chế bản thân, cũng như tự kỷ luật mình, có
thể sống một cuộc sống rất lành mạnh. Người ta cố gắng biện minh cho lòng tham,
sân, si. Nhiều người trở nên u mê.
Tricycle: U mê?
Bhante Gunaratana: Trong tiếng
Pali đó là Galibaliso. Gali có nghĩa là nuốt, baliso có nghĩa là miếng mồi. Khi bạn
quan niệm rằng bạn không cần phải tự kiềm chế mình, rằng bất cứ khi nào bạn cảm
thấy có sự thôi thúc về tình dục thì bạn đi tìm và giao hợp với bất cứ ai bạn
thích. Hay khi giận dữ, bạn có thể biểu lộ lòng sân hận bằng bất cứ phương cách
gì bạn muốn, kể cả dùng bạo lực nếu bạn thích. Những quan niệm, cách hành xử
như thế sẽ đưa xã hội xuống dốc. Sư có cảm giác rằng đó là những gì đang xảy
ra. Cố gắng đề cao giới luật, lòng chân thật, tín ngưỡng tôn giáo v.v…; những
điều như thế đã trở thành giống như muốn ngăn chặn một dòng nước chảy với một
tờ giấy. Tâm chúng ta giống như nước chảy. Nước luôn chảy xuống, nó chẳng bao
giờ tự lực đi lên. Tương tự, tâm dễ hướng đến những điều sai trái. Đó là lý do
tại sao Đức Phật nói rằng sự thực hành Pháp thực sự giống như “đi ngược dòng”. Không
phải là một việc dễ dàng.
Tricycle: Điều
đó đúng đối với người xuất gia cũng như người tại gia phải không, thưa Sư?
Bhante Gunaratana: Đúng,
nhưng mục đích duy nhất của đời sống xuất gia là tạo cơ hội cho con người tự kỷ
luật mình. Tu viện cũng giống như một phòng thí nghiệm. Chúng ta không muốn ở
mọi ngóc ngách đều phải có các phòng thí nghiệm, nhưng phải có ở một số nơi,
một số không gian có kiểm soát để người ta có thể phát triển, nếu người đó thực
sự muốn tu tập để nội tâm được an lạc. Nước Mỹ vẫn còn giống như một đứa trẻ
mới lớn, còn vị thành niên, chỉ lo cố gắng để phát triển, nhưng trạng thái chưa
trưởng thành về mặt tâm linh của nó lại được coi như là khuôn mẫu cho cả thế
giới noi theo. Sư không nghĩ đó là một cách suy nghĩ đúng đắn. Chỉ khi nào
chúng ta đạt được trạng thái tự do và có trách nhiệm thì lúc đó tất cả chúng ta
mới được bình đẳng.
Tricycle: Chúng
ta sanh ra không bình đẳng sao?
Bhante Gunaratana: Chúng
ta sanh ra không bình đẳng. Chúng ta không được tạo ra một cách bình đẳng.
Chúng ta có sự khác biệt do nghiệp quả. Chúng ta sanh ra khác nhau, sống khác
nhau và chết khác nhau, vì nghiệp chúng ta khác nhau. Nghiệp phân chúng ta
thành ra giàu nghèo, sang hèn, có học và vô học, đẹp xấu, khéo léo và vụng về,
v.v… Nhưng khi chúng ta gia nhập tăng đoàn hay ni đoàn, ta buông bỏ sự phân
biệt và trở nên bình đẳng. Và khi đạt được giác ngộ, tất cả mọi người đều bình
đẳng. Không có sự khác biệt trong việc đạt được giác ngộ. Khi chúng ta đạt được
niết bàn, tất cả chúng ta đều bình đẳng.
Tricycle: Phật
giáo Nguyên thủy có một lịch sử lâu dài về sự bất bình đẳng giữa các giới, ngay
chính trong lãnh vực giác ngộ tâm linh. Đúng ra theo như tôi hiểu, thì nữ tu
không được thọ đại giới trong truyền thống Nam tông.
Bhante Gunaratana: Đó là
một sự sửa đổi mà tôi muốn đề nghị. Chúng tôi cũng gặp nhiều khó khăn khi muốn
đưa các vị nữ tu sĩ thọ đại giới vào trong chúng. Nó đã trở thành một vấn đề
gây tranh cãi vì có nhiều phụ nữ muốn tu theo Nguyên thủy và muốn được thọ đại
giới, nhưng cho đến bây giờ điều đó vẫn chưa thực hiện được.
Tricycle: Sự
chống đối là do đâu?
Bhante Gunaratana: Là từ
các trường phái Phật giáo Nguyên Thủy.
Tricycle: Vì
truyền thống?
Bhante Gunaratana: Vâng. Đúng ra truyền
thống để cho người nữ được thọ đại giới trước kia đã có, nhưng sau này biến
mất.
Tricycle: Như
thế thì những nữ tu sĩ Nguyên thủy ngày nay thọ giới như thế nào?
Bhante Gunaratana: Họ
không thọ đại giới, nhưng thọ giới Sadi. Trong một quốc gia mà Phật giáo vẫn
còn mới mẻ như Mỹ, thì việc để cho các nữ tu được thọ đại giới cần được thiết
lập.
Tricycle: Các
huynh đệ của Sư ở Sri Lanka
sẽ nghĩ thế nào về quan điểm của Sư trong việc này? Liệu họ có nghĩ rằng, “Ồ,
có thể là ông ấy đã sống quá lâu ở Tây phương?”
Bhante Gunaratana: (cười)
Vâng, đúng vậy. Tuy nhiên trong bài kinh Kalama nổi tiếng, Đức Phật đã khuyên,
“Đừng tin vào truyền thống, đừng chỉ tin vào những gì được nghe. Đừng chấp nhận
bất cứ điều gì chỉ vì chúng được nói đến trong kinh điển. Đừng chấp nhận bất cứ
điều gì chỉ vì vị thầy có vẻ là một người thành thật, đáng tôn kính. Đừng chấp
nhận bất cứ điều gì vì nó có vẻ tri thức, lô gic hay triết lý. Đừng chấp nhận
bất cứ điều gì chỉ vì bạn thấy thích hợp. Hãy tự xét bằng chính kinh nghiệm của
mình, quán sát, điều tra, thảo luận, suy nghĩ về điều đó và đặt câu hỏi. Chỉ
lúc đó, nếu những gì bạn đã học được tốt cho bạn, tốt cho người, tốt cho cả
hai, thì hãy chấp nhận nó. Nếu nó không tốt cho bạn, không tốt cho người, không
tốt cho cả hai, thì hãy buông bỏ nó”. Vì thế sự tự do được tìm hiểu là điều Đức
Phật luôn khuyến khích. Do đó dựa trên những lời dạy này, Sư đã đưa ra đề nghị
đó.
Tricycle: Tôi
chắc rằng nhiều phụ nữ ở Tây phương và Á châu rất ủng hộ quan điểm này. Ngay cả
trong những xã hội chấp nhận cho nữ tu sĩ được thọ đại giới, thì giới luật dành
cho ni vẫn nhiều hơn gấp đôi cho tăng, và ni vẫn bị coi là thấp kém hơn tăng.
Ngay chính ở đây (Trung Tâm Bhavana), tôi đã quan sát thấy các tăng sĩ rời
thiền đường trước các nữ tu sĩ, và thức ăn được mang đến phục vụ họ trước.
Bhante Gunaratana: Ở đây
chúng tôi không có các nữ tu sĩ thọ đại giới. Tất cả những phụ nữ ở đây đều là
nữ tu. Theo thứ bậc ở tu viện, thì người nào ở trong tăng đoàn lâu nhất được
coi là trưởng lão nhất, và người đó dẫn dắt tăng đoàn, người đó đi trước, người
đó ngồi trước. Cấp bậc được xếp đặt dựa trên thời gian tu hành của họ.
Tricycle: Nếu
việc truyền giới đầy đủ cho các ni được thành hình, Sư có ủng hộ việc hoàn toàn
bình đẳng giữa tăng và ni?
Bhante Gunaratana: Sư hỗ
trợ điều đó. Sư tán đồng điều đó. Một vị tỳ kheo ni đã thọ đầy đủ các giới,
phải có cùng quyền hạn như các tỳ kheo đã thọ đại giới khác. Đó là sự bình đẳng
mà Sư ủng hộ. Đức Phật đã chế ra thêm một số giới cho các chư ni, vì ở thời
Ngài còn tại thế, nếu Ngài không làm như thế, không tạo ra thêm một số giới
luật cho nữ tu sĩ, thì đã có sự chống đối mãnh liệt, sự nổi dậy từ các vị tăng
khác cũng như từ giới cư sĩ. Để tránh những tình huống đó, Đức Phật đã đặt ra
những điều luật này. Nhưng trong xã hội mới ngày nay, những điều đó có thể được
châm chế.
Tricycle: Những
sự châm chế mà Sư đã đề nghị có thể áp dụng ở Á châu không?
Bhante Gunaratana: Theo
Sư nghĩ thì ở Á châu việc truyền đại giới cho người nữ sẽ chẳng bao giờ xảy ra
vì truyền thống, thói quen quá sâu đậm. Điều đó chỉ có thể xảy ra ở những xã
hội giống như xã hội này (Mỹ), nơi Phật giáo vẫn còn là điều mới mẻ. Một khi nó
đã được thiết lập ở nơi này thì có thể từ từ nó sẽ được lan truyền sang những
cộng đồng Phật giáo Á châu.
Tricycle: Thế
những điều gì Sư nghĩ là không nên thay đổi?
Bhante Gunaratana: Pháp
có thể được chuyển dịch sang những ngôn từ mới mẻ, đơn giản. Nhưng ý nghĩa của
nó không được thay đổi tùy tiện. Một số hình thức, nghi lễ có thể thay đổi,
nhưng việc mặc y áo không nên thay đổi. Ngay chính trong thời của Đức Phật, y
phục của người cư sĩ hoàn toàn khác với y áo của các vị tu sĩ. Và ngày nay cũng
thế. Chiếc y này che chở cho chúng tôi. Con người chúng tôi không phải là hoàn
toàn, nên khi chúng tôi mang y áo, nó nhắc nhở chúng tôi đến vị trí của mình,
ngăn chặn chúng tôi không đi vào những hoàn cảnh xấu, làm những điều xấu.
Tricycle: Một số
cộng đồng Nguyên thủy khác đã sửa đổi một số truyền thống như chỉ tụng đọc bằng
tiếng Pali hay không ăn sau giờ ngọ; tại sao Sư lại muốn duy trì những nghi lễ
này?
Bhante Gunaratana: Nếu
không duy trì hình thức của Phật giáo Nguyên thủy, thì dần dần người ta sẽ
không biết chúng như thế nào.
Tricycle: Điều
gì thật sự khác biệt giữa truyền thống Nguyên thủy với Đại thừa Phật giáo?
Bhante Gunaratana: Truyền
thống Nguyên thủy cố gắng duy trì Phật giáo theo như trong các kinh điển Pali. Phật
giáo Nguyên thủy nhấn mạnh đến sự thực hành giới, định và tuệ, y cứ sát sao
theo lời Phật dạy càng nhiều càng tốt. Là những người Phật tử tu theo truyền
thống Nguyên thủy, chúng tôi cố gắng để gìn giữ tiếng Pali, sử dụng tiếng Pali
khi thuyết pháp, cũng như trong các nghi lễ cúng tụng hằng ngày.
Tricycle: Duy
trì ngôn ngữ của Đức Phật có ích lợi gì?
Bhante Gunaratana: Điều
ích lợi là khi chúng ta có bất cứ mối nghi ngờ, thắc mắc gì về những lời Phật
dạy, bất cứ lãnh vực nào còn gây khó hiểu, ta luôn có thể tra xét lại trong đại
tạng kinh Pali. Chúng tôi luôn duy trì tiếng Pali như một ngôn ngữ tham khảo để
làm rõ một số thuật ngữ trong Phật giáo. Nếu không có một căn bản như vậy, hay
tương tự như vậy, chúng ta phải dựa vào các bản dịch, mà nếu người dịch có phạm
lầm lỗi nào, thì sai lầm đó sẽ được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Điều đó đã xảy ra đối với một số hệ phái Phật giáo khác, vì không thông ngôn
ngữ truyền thống, họ phải đọc các bản dịch hay giảng giải đã tam sao, thất bản,
không còn giử được ý nghĩa nguyên thủy. Giáo lý nguyên thủy được duy trì bằng
ngôn ngữ Pali truyền thống. Không thể nghi ngờ gì về điều đó.
Tricycle: Nhiều
người nghĩ Phật giáo Nguyên thủy thiếu vắng hạnh nguyện Bồ Tát, hạnh nguyện
muốn cứu giúp tất cả chúng sanh và luôn đặt người khác trước bản thân, do đó đã
làm suy giảm vai trò của tâm từ bi như chúng ta thấy trong các truyền thống
khác. Sư có thể nói thêm về điều đó không?
Bhante Gunaratana: Trong
khi cố gắng để đạt được giác ngộ, chúng ta phải giúp đỡ người khác. Không ai có
thể làm khác được. Thí dụ, khi đang đi trên đường, ta gặp người cần được giúp
đỡ. Thực phẩm, nước, người bệnh, hay gì đó. Chúng ta không thể chỉ nói: “Ồ, tôi
đang trên đường đi, bạn phải đợi đến khi tôi đã hoàn thành cuộc hành trình.
Không ai có thể nói như thế. Chúng ta phải giúp đỡ người ngay lập tức. Đạo đức,
tình người bắt buộc chúng ta phải hành xử như thế. Đó là những gì Đức Phật đã
làm. Ngài đã trở thành hoàn hảo bằng cách làm những việc Ngài cần phải làm.
Ngài tu tập ở trong xã hội loài người, với con người. Thuyết pháp, dạy dỗ, giúp
đỡ, phụng sự và làm tất cả những gì Ngài phải làm để cứu giúp thế gian. Và sự
giúp đỡ đó, sự tu tập đó đã đạt đến mức hoàn hảo. Chúng ta không cần phải đợi
đến khi đạt được giác ngộ.
Tricycle: Sư có
nghĩ rằng một số người Tây phương đã hiểu lầm Phật giáo Nguyên thủy vì sự thiếu
vắng của một hạnh nguyện Bồ tát thực sự?
Bhante Gunaratana: Mặc
dầu Phật giáo Nguyên thủy không có hạnh Bồ tát đặc biệt nào, trong thực tế
chúng ta khó có thể bỏ qua việc giúp đỡ người khác. Mà việc giúp đỡ người khác
cũng không chỉ dành riêng cho người Phật tử. Đâu chỉ có người Phật tử mới có
tâm rộng lượng, đúng không? Đúng ra, cũng không chỉ con người mới có thể thực
hành tâm rộng lượng. Chúng ta cũng đã chứng kiến thú vật chia sẻ đồ ăn với
nhau. Phải phân biệt giữa Đại thừa và Tiểu thừa theo cách nhìn đó thì không
thực tế chút nào. Điều thử thách chúng ta là làm sao để người ta hiểu được
những giáo lý căn bản, như là vô thường, vô ngã, không nên tin vào một đấng tạo
hóa. Khía cạnh thứ nhất, vô thường thì dễ rồi. Nếu ta đọc bất cứ cuốn sách gì
về vật lý, hóa học, hay khoa học, ta sẽ biết tất cả về vô thường. Nhưng vô ngã
và không tin có một đấng sáng tạo, hai điều nay thật là vô cùng khó khăn để
truyền đạt cho người.
Tricycle: Có thể
nào một xã hội như là một tổng thể trở nên ít chấp ngã hơn, hay là đó chỉ là
vấn đề tu tập của cá nhân?
Bhante Gunaratana: Thật
ra đó là một vấn đề tu tập cá nhân. Ngay cả trong thời Đức Phật, khi Ngài đã đạt
được giác ngộ, thì tham, sân, si trong thời đó cũng không kém gì thời nay. Mục
đích duy nhất của Ngài để đạt được giác ngộ là để phục vụ chúng sanh. Nhưng
ngay khi đạt được giác ngộ, Ngài đã trở nên quá thất vọng. Ngài đã nghĩ: «Làm
sao ta có thể truyền pháp cho những người này? Họ quá vô minh, tham, sân, ganh
tỵ, sợ hãi, căng thẳng, lo âu, và tham đắm, làm sao họ có thể hiểu được những
điều này?” Nhưng Đức Phật vì lòng từ bi, cũng bắt đầu giảng dạy. Ngài chẳng bao
giờ có thể loại bỏ tất cả mọi khổ đau trên đời. Không bao giờ. Ngài có thể giúp
một số người diệt bỏ được khổ đau, nhưng so với bao nhiêu người còn u mê trên
thế giới, thì con số người đạt được giác ngộ không đáng kể. Ngày nay với dân số
ngày càng tăng, nhiều của cải vật chất được sản xuất bởi những tiến bộ khoa học
kỹ thuật, thì càng có nhiều thứ kích thích sự ham muốn, làm tăng trưởng lòng
tham, ích kỷ, sợ hãi, lo âu, và căng thẳng của ta hơn. Thực ra ngày nay thực
hành pháp thanh tịnh càng khó hơn. Nhưng đó không chỉ là vấn đề riêng của Phật
giáo. Đó là vấn đề của tất cả mọi tôn giáo. Tín đồ thuộc nhiều tôn giáo đang cố
gắng với tất cả khả năng của mình. Cùng lúc, trong thế giới vật chất, người ta
cũng cố gắng để quảng bá các sản phẩm của họ, làm tăng thêm lòng tham của con
người. Ngày càng có nhiều truyền hình, máy vi tính hơn, nhiều cái này hơn,
nhiều cái kia hơn; vì thế chúng ta phải cạnh tranh với những thứ đó.
Tricycle: Làm
sao chúng ta có thể bảo vệ Pháp một cách tốt nhất trong môi trường này?
Bhante Gunaratana: Người
nào bảo vệ Pháp sẽ được Pháp bảo vệ, cũng giống như người bảo vệ cây dù sẽ được
cây dù bảo vệ lại. Để bảo vệ Pháp, chúng ta cần làm gì? Mỗi cá nhân chúng ta
phải thực hành Pháp. Ai thực hành Pháp đến một mức độ nào, thì người đó sẽ được
Pháp bảo vệ đến mức độ ấy. Chúng ta không bao giờ được bảo vệ bởi một thứ gì
khác hơn, dầu chúng ta có mua bao nhiêu bảo hiểm, cần bao bảo vệ hay có bao
nhiêu chìa khóa an toàn,... không bao giờ.
Tricycle: Sư có
mục đích gì riêng cho bản thân không?
Bhante Gunaratana: Sư nghĩ
Phật giáo giống như một thân cây. Cây phải có gốc rễ, lá, hoa, cành con, thân,
vỏ cây, phần gỗ cứng và mềm, v.v… Chúng ta muốn được phần cốt lõi của Pháp,
cũng giống như ta muốn được phần cốt lõi của cây. Mọi thứ khác đều có thể che
đậy sự thật. Có quá nhiều thứ phủ vây chân Pháp (true Dhamma). Và chúng ta có
thể dễ dàng bị lôi kéo, hoang mang, lạc lối bởi rất nhiều, rất nhiều hình thức
của sự vật. Đức Phật đã dạy rất rõ: «Khi vàng giả chưa xuất hiện ở chợ thì vàng
thật sáng chói. Ngay khi vàng giả có mặt, không ai biết cái nào là vàng thật,
cái nào là giả ». Vì thế Sư muốn chỉ cho người ta thấy thứ vàng ròng này,
để họ không bị lôi cuốn bởi tất cả những gì hào nhoáng, chói sáng. Đó là mục
đích của Sư.
(Dịch theo tạp chí Tricycle,
An Interview with Bhante Henepola
Gunaratana) 2/2008