08. Món
quà của lòng biết ơn
Thiền sư Ajahn Sumedho là trụ
trì của Trung Tâm Phật giáo Amaravati ở Anh quốc và là vị đệ tử Tây phương kỳ
cựu nhất của đại lão thiền sư quá cố Ajahn Chah người Thái Lan.
Ở đây thiền sư Ajahn Sumedho ghi
lại niềm hoan hỷ của ông khi cảm nhận được công ơn của cha mẹ và thầy tổ.
Nếu một bên vai cõng mẹ, này các
Tỷ-kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi;...
Hơn nữa, này các Tỷ-kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy
lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm
đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, cha mẹ đã làm
nhiều cho con cái, họ nuôi dưỡng chúng, cho chúng cơm áo, sinh chúng ra đời.
Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối
với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng
tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào
thiện giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy
vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các
vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ
và cha.
(Tăng Chi Bộ Kinh, HT
Thích Minh Châu, Chương 2, Phẩm Tâm Thăng Bằng).
Cha tôi mất sáu năm trước đây.
Lúc đó ông đã chín mươi tuổi. Ông chưa hế bày tỏ tình thương hay tình cảm tử tế
nào đối với tôi. Vì thế từ thời thơ ấu tôi đã có cảm giác rằng ông không hề
thương tôi. Tôi mang cảm giác này đi gần suốt cuộc đời mình. Tôi cũng chưa bao
giờ có tình cảm yêu thương, hay bất cứ liên hệ thân thiết nào với cha tôi. Lúc
nào ông cũng máy móc, “Chào con, rất vui được gặp con”. Hình như ông cảm thấy
thoải mái với sự có mặt của tôi. Tôi nhớ, mỗi khi tôi trở về nhà với tư cách là
người tu sĩ Phật giáo, ông thường nói, “Hãy nhớ, đây là nhà của cha, con phải
làm theo ý cha”. Đó là câu chào của ông – khi tôi đã gấn năm mươi tuổi đầu! Tôi
không biết ông nghĩ là tôi sẽ làm gì.
Trước thời kinh tế khủng hoảng,
cha tôi là một nghệ sĩ có nhiều triển vọng. Cuộc khủng hoảng đã tước đi tất cả
mọi thứ mà cha mẹ tôi có, vì thế cha tôi phải đi bán giày để lo cho chúng tôi. Rồi
chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, cha tôi đã quá tuổi gia nhập quân đội.
Nhưng ông rất muốn ủng hộ cuộc chiến đó bằng cách này hay cách khác, nên ông
trở thành một công nhân đóng tàu ở Seattle.
Ông không thích công việc đó, nhưng đó là cách tốt nhất mà ông có thể làm để
ủng hộ cuộc chiến tranh đó. Sau thế chiến, ông trở về với công việc bán giày và
trở thành quản lý của một cửa hàng bán sĩ các loại giày. Ông cũng không thật sự
yêu thích công việc đó, nhưng ông cảm thấy mình không còn trẻ để có thể tìm
được một việc làm nào khác. Ông đã không màng đến các sở thích của mình để lo
cho sự sống của mẹ, chị tôi và tôi.
Khi tôi lên đại học, vào những
năm 1950, môn học thời thượng lúc bấy giờ là triết học. Lúc đó những người trẻ
tuổi đều có xu hướng đổ lỗi cho người mẹ về tất cả những thất bại, bất như ý
trong cuộc đời của họ. Người mẹ là đối tượng bị nhắm vào, bị gán là nguyên nhân
của mọi khổ đau của con cái họ. Lúc đó tôi chưa thể nhận thức được rằng nỗi khổ
đó là điều không thể tránh trong cuộc sống. Dĩ nhiên mẹ tôi cũng không phải là
người hoàn toàn, nên hiển nhiên là có nhiều điều bà đã làm không thật tốt.
Nhưng nói chung, sự hy sinh, tận tụy, hết lòng thương yêu, lo lắng - không có
gì thiếu sót - của mẹ tôi, tất cả đều là nhằm để làm cho cuộc sống của cha tôi,
chị tôi và tôi được nhiều hạnh phúc trong khả năng mà bà có thể mang đến. Mẹ
tôi không đòi hỏi gì riêng cho bản thân, và những khi tôi hồi tưởng lại những
điều này, thì katannu (Pali), để chỉ cho lòng hàm ân đối với cha
mẹ, lại phát khởi trong tâm tôi.
Đức Phật khuyên chúng ta nên nhớ
nghĩ đến những điều tốt đẹp mà cha mẹ, các vị thầy, thân hữu, hay bất cứ ai, đã
làm cho ta; và phải chú tâm làm điều này, vun trồng nó, thay vì chỉ để nó xảy
đến một cách tình cờ, ngẫu nhiên.
Nhiều đệ tử của tôi, những người
đầy lòng oán hận đối với cha mẹ họ, đã hỏi tôi họ phải làm thế nào để phát
triển lòng biết ơn đối với cha mẹ. Dạy về lòng từ bi, hay metta, một cách quá cực đoan có thể
phản tác dụng, khiến họ thêm sân hận. Tôi nhớ có một phụ nữ, dự một trong các
khóa tu của tôi, mỗi lần nói đến việc phải rải tâm từ đến cho cha mẹ thì bà lại
nổi giận. Sau đó bà lại cảm thấy rất ân hận. Mỗi lần nghĩ về mẹ mình là bà chỉ
cảm thấy oán hận. Đó là vì bà chỉ sử dụng lý trí của mình; bà muốn thực hành từ
bi, nhưng trong lòng không có chút tình cảm từ bi nào.
Điều quan trọng là ta nhận ra
được sự xung đột giữa tình cảm và lý trí. Lý trí bảo rằng chúng ta cần tha thứ
cho kẻ thù, hay thương yêu cha mẹ mình, nhưng trong lòng chúng ta lại nghĩ:
“Tôi không thể tha thứ cho họ vì những gì họ đã gây ra cho tôi”. Vì thế, chúng
ta chỉ cảm thấy oán giận, hờn trách, hoặc chúng ta lại tự trách: “Tôi thiệt là
người tồi tệ vì tôi không thể tha thứ cho người. Chắc có gì đó không ổn đối với
tôi”. Khi điều đó xảy ra, tôi thấy việc sử dụng thiền tâm từ đối với chính các
cảm xúc của mình, rất hữu ích. Nếu trong lòng chúng ta nghĩ rằng cha mẹ đã
không thương yêu, tử tế với mình, thì ta nên có tâm từ đối với tình cảm đó; ta
có thể nhìn, với tâm không phán đoán, rằng đó thực sự là những tình cảm đang
xảy ra trong lòng, để chấp nhận tình cảm đó với lòng kiên nhẫn.
Một khi tôi đã bắt đầu chấp nhận
sự đối kháng của tôi đối với cha, hơn là đè nén nó, tôi đã có thể dần dần giải
tỏa điều đó. Khi chúng ta giải quyết vấn đề gì đó với tâm chánh niệm, chúng ta
có thể buông xả, và giải thoát bản thân ra khỏi sự trói buộc của nó. Việc giải
tỏa những xung đột như thế khiến ta càng có nhiều suy gẫm thêm về cuộc đời.
Sống mà không có lòng biết ơn là
một cuộc sống vô nghĩa. Nếu cuộc đời chỉ là một chuỗi của những lời oán than về
sự bất công, về những thua thiệt mà ta đã gặp phải, nhưng lại không nhớ đến
những may mắn đã từng đến với chúng ta, thì chúng ta chắc chắn sẽ bị trầm cảm -
một căn bệnh thường gặp trong xã hội ngày nay. Chúng ta sẽ khó tìm được hạnh
phúc trong cuộc sống: chúng ta sẽ nghĩ rằng cái khổ của mình là vĩnh hằng.
Khi trở thành một tu sĩ Phật
giáo ở Thái Lan, tôi may mắn được gặp vị thầy, Luang Por Chah,
mà nhiều người biết đến với tên, Thiền sư Ajahn Chah, người đã là nguyên nhân
để tôi đầy lòng hàm ân với cuộc đời. Lúc đó tôi khoảng ba mươi ba hay ba mươi
bốn tuổi, và tôi phải thú nhận rằng tôi chưa hề có lòng hàm ân trong cuộc đời. Tôi
vẫn còn chấp ngã nặng nề, lúc nào cũng là tôi muốn gì, tôi nghĩ gì. Tuy nhiên,
sau một thời gian tu tập, khoảng năm thứ sáu trong cuộc đời tu của mình, tôi đã
có được một trải nghiệm sâu sắc, một trải nghiệm được coi như là katannu katavedia, hay lòng biết ơn đối
với cha mẹ mình.
Tôi đã xuất gia nhiều năm trước
khi được gặp ngài Ajahn Chah. Tôi rất ngưỡng mộ và tin tưởng vào Phật giáo,
cũng như rất sốt sắng để học và thực hành Phật pháp. Nhưng tận sâu thẳm vẫn là
cái cảm giác của ngã chấp, của tôi
tu học, tôi thực hành. Khi
xuất gia, tôi vẫn còn cầu mong: “Tôi muốn được giải thoát. Tôi muốn được giác
ngộ”. Tôi không quan tâm đến người khác, đến cha mẹ, hay ngay cả đến thiền sư
Ajahn Chah, là người đang giúp tôi tu học. Tôi cũng nghĩ là ngài rất tốt vì đã
giúp đỡ tôi, nhưng trong lòng tôi không có cảm giác hàm ân.
Tôi nghĩ rằng đó là chuyện tự
nhiên, rằng cuộc đời phải mang đến cho tôi những thứ đó - một thứ ngã mạn khó
chấp nhận. Khi chúng tôi lớn lên trong sự đầy đủ của một gia đình thuộc giai
cấp trung lưu, chúng tôi đã coi mọi thứ là chuyện đương nhiên. Cha mẹ tôi đã
làm việc cực khổ để chúng tôi được sống thoải mái, nhưng tôi luôn nghĩ là họ
chưa làm đủ bổn phận, và rằng đáng lý ra tôi phải được đầy đủ hơn nữa. Dầu đó
không phải là những điều tôi nói ra, nhưng thái độ tôi tỏ rõ điều đó, rằng tôi
xứng đáng được có tất cả mọi thứ: người khác phải chu cấp cho tôi tất cả; cha
mẹ tôi phải mang đến cho tôi một cuộc sống tốt nhất, vì tôi muốn được như thế. Do
đó, tôi nghĩ bổn phận của thiền sư Ajahn Chah là phải dạy dỗ, dìu dắt tôi!
Ở Thái Lan, tôi đã siêng năng tu
tập và quyết chí theo đuổi cuộc sống xuất gia của mình. Sau khi đã tham dự năm
mùa an cư (vassas), người tu sĩ trẻ không còn là sa di nữa, mà được tự do rời
khỏi tu viện. Tôi cảm thấy được ở bên thầy cũng tốt, nhưng tôi cũng muốn tự đi
con đường riêng của mình. Từ miền đông bắc tôi đi đến trung tâm Thái Lan. Sau
mùa an cư, tôi hành hương đến Ấn Độ. Đó là vào khoảng 1974, và tôi quyết định
đi như một tudong –một khất
sĩ lang thang từ chỗ này đến chỗ kia, như một hình thức tu khổ hạnh trong Phật
giáo. Có người giúp tôi tấm vé để đi từ Bangkok đến Calcutta, để rồi khi đến
Calcutta, tôi chỉ có bình bát, y áo, và không tiền, đúng theo điều luật của
người tu. Ở Thái Lan thì dễ rồi, nhưng buổi ban đầu ở Ấn Độ, với viễn ảnh lang
thang đây đó mà không có gì, ngoài bình bát trong tay, là điều khá đáng sợ. Năm
tháng ở Ấn Độ đúng là một cuộc phiêu lưu đối với tôi, khiến tôi có nhiều kỷ
niệm rất thú vị về nơi chốn ấy. Với cuộc sống làm người khất sĩ, tôi không gặp
vấn đề gì ở Ấn Độ. Trong tất cả các quốc gia, dĩ nhiên là nó phải ổn ở đây, vì đó là nơi Đức Phật đã
sống và đã hoằng pháp.
Nhưng tôi bắt đầu nghĩ đến thiền
sư Ajahn Chah và nhận ra lòng tử tế mà ngài đã dành cho tôi. Ngài đã chấp nhận
cho tôi làm đệ tử, chăm lo, truyền dạy Phật pháp, và giúp đỡ tôi bằng nhiều
cách. Ngài còn là tấm gương để tôi soi vào. Một vị tỳ kheo xứng đáng phải giống
như ngài Ajahn Chah. Một người toàn vẹn, người đã tạo cho tôi nguồn cảm hứng,
người mà tôi rất muốn noi theo – và tôi phải thú nhận rằng tôi không có cảm
giác đó đối với nhiều người khác. Tôi không hề ấn tượng với những mẫu người
được tôn vinh ở Mỹ như John Wayne, tổng thống Eisenhower hay Richard Nixon. Các
ngôi sao điện ảnh hay thể thao cũng được coi trọng, nhưng không có ai khiến tôi
phải cảm phục.
Nhưng tôi đã tìm được người ấy ở
Thái Lan. Ngài là người nhỏ thó; tôi đứng cao vượt hẳn ngài. Điều khiến tôi
ngạc nhiên là khi chúng tôi ở bên nhau, sự hiện diện của ngài như bao trùm
chúng tôi. Có điều gì đó ở ngài khiến người ta muốn được gần gũi. Vì thế mỗi
buổi chiều, hay bất cứ khi nào có thể, tôi lại tự đi tìm đến thất của ngài; tôi
không muốn bỏ lỡ cơ hội nào để được gần gủi bên ngài. Có lần tôi hỏi ngài có gì
để lôi cuốn người ta đến vậy. Ngài đã trả lời, “Ta có đá nam châm”. Ngài đã
dùng sức hút đó để lôi cuốn người ta đến để ngài có thể dạy cho họ Phật pháp.
Đó là cách ngài sử dụng đặc tính đó của mình: không phải để thõa mản tự ngã, mà
là để giúp đỡ người khác.
Đức Phật, sau khi đạt được giác
ngộ, lúc đầu đã nghĩ rằng Phật pháp quá cao siêu để chúng sanh có thể thấu đạt,
nên không thể truyền dạy cho họ. Sau đó, theo truyền thuyết, một trong các vị
trời đã đến và thưa, “Bạch Thế Tôn, xin hãy vì những chúng sanh có ít bụi trong
mắt, mà giảng Pháp”. Lúc đó Đức Phật với tâm siêu việt của mình, quán sát xem
ai là những người có thể hiểu được Pháp. Đức Phật đã nghĩ đến các vị thầy cũ
của mình, nhưng Đức Phật biết rằng cả hai đã qua đời. Sau đó Đức Phật nghĩ đến
năm người bạn đồng tu với Ngài thuở trước, những người đã xa lánh ngài. Với
lòng từ bi, Đức Phật lên đường đi tìm năm người bạn đó, và đã giảng cho họ nghe
về thuyết Tứ Diệu Đế. Điều này khiến tôi cảm thấy katannu katavedita đối với Đức Thế Tôn. Thật là diệu kỳ:
như tôi đây, một kẻ sống ở thế kỷ này – lại có duyên lành được lắng nghe Phật
pháp, và Phật pháp tinh nguyên vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay.
Việc được có một vị thầy đang
tại thế (ND: ngài Ajahn Chah đã mất năm 1992) như thiền sư Ajahn Chah không
giống như việc bạn tôn thờ một vị tiên tri đã sống cách đây hai ngàn năm trăm
năm, mà thực sự là tôi được thừa hưởng sự truyền thừa từ chính Đức Thế Tôn. Có
lẽ do được đến viếng những thánh tích Phật giáo, mà lòng hàm ân của tôi bắt đầu
trở nên rất mãnh liệt. Lúc đó, khi nghĩ đến thiền sư Ajahn Chah ở Thái Lan, tôi
nhớ rằng tôi đã nghĩ: “Ta đã ở đủ năm năm rồi, giờ ta phải ra đi. Ta sẽ chu du
đây đó, thám hiểm vài nơi, làm những gì ta muốn, thoát khỏi sự quan sát của ông
thầy già”. Tôi nhận ra đúng là tôi đã bỏ chạy khỏi nơi ấy.
Khi cảm giác hàm ân này trào
dâng trong lòng, tôi chỉ muốn chạy về Thái Lan và phủ phục dưới chân thiền sư
Ajahn Chah. Làm sao bạn có thể đền đáp ơn của một vị thầy như thế? Tôi không có
tiền bạc gì, mà đó cũng không phải là thứ Thầy tôi cần. Sau đó tôi nghĩ rằng
cách tốt nhất tôi có thể làm để thầy tôi vui là trở thành một tỳ kheo chân
chính, và trở về đó để giúp đỡ thầy. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì thầy tôi muốn.
Với ý nghĩ đó, tôi đã trở về Thái Lan, sau năm tháng ở Ấn Độ, và đến đảnh lễ
thầy. Đó là một sự cúng dường đầy hoan hỷ, không phải là điều bó buộc, vì nó đã
xuất phát từ lòng hàm ân (katannu),
lòng biết ơn đối với những duyên lành tôi đã được tiếp nhận.
Từ đó, tôi nhận thấy rằng việc
hành thiền của tôi bắt đầu có tiến bộ. Lòng ích kỷ hẹp hòi đã biến mất trong
tôi: việc tôi cố gắng mong cầu, ước muốn được hòa hợp, được tu tập, được có một
cuộc sống yên lành, giải thoát khỏi mọi bổn phận. Khi tôi buông bỏ tất cả những
ham muốn này, thì mọi thứ dường như lại ổn thoả. Những gì trước đây khó khăn
đối với tôi, như là việc định tâm, đã trở nên dễ dàng hơn, và tôi cảm thấy cuộc
sống trở nên an lạc hơn đối với mình.
Lần cuối cùng khi đến thăm cha
tôi, tôi đã quyết định sẽ tạo ra một không khí ấm cúng giữa
hai chúng tôi trước khi người ra đi. Trong thập niên cuối đời của cha tôi, ông
rất đau khổ vì bệnh tật. Ông bị thấp khớp nặng, nên luôn đau đớn, cộng thêm
chứng bệnh Parkinson. Dần dần, chúng tôi phải đem ông vào viện dưỡng lão. Ông
không còn có thể cử động được. Ông còn có thể trò chuyện và chuyển động mắt,
nhưng các phần khác của cơ thể đều bất động. Ông rất đau khổ vì những gì đã xảy
ra cho ông, vì trước đó ông là một người khỏe mạnh, không cần nhờ vả đến ai.
Khi gặp lại ông, thấy cơ thể ông
cần được xoa bóp, nên tôi nói, “Để con xoa bóp chân ba”. “Không, con không cần
phải làm thể”. “Ba cần phải được xoa bóp, nếu không nằm một chỗ sẽ bị hâm da.
Con thực sự muốn làm thế mà”. Cha tôi vẫn cố từ chối, nhưng tôi thấy ông có vẻ
không còn quyết liệt nữa. “Cần phải làm thế ba à”, tôi nói. “Con thực sự muốn
làm thế à?” ông hỏi tôi. “Dạ phải”.
Tôi bắt đầu xoa bóp chân, đùi,
cổ, vai, tay và mặt ông; ông thật sự thích thú sự gần gũi này. Đó là lần đầu
tiên ông được chăm sóc như thế. Sự xúc chạm này đầy ý nghĩa, đó cũng là một
cách biểu hiện tình cảm. Và tôi bắt đầu nhận ra rằng cha tôi thực sự rất thương
yêu tôi, nhưng ông đã không biết làm sao diễn tả điều đó. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm
và tràn đầy lòng biết ơn.
LỜI DẠY CỦA THIỀN SƯ
AJAHN CHAH VỀ CHA MẸ:
Đôi khi những lời dạy về sinh,
lão, bịnh, tử, không được người ta sẵn sàng tiếp nhận. Nhất là ở phương Tây,
khi bạn bắt đầu nói về những điều này, thì người ta sẽ đứng lên, bỏ đi. Họ
không muốn già. Nên những người già thường bị bỏ rơi.
Ở các nước phương Tây, hình như
tập tục của họ là, dẹp bỏ người già qua một bên để người trẻ có thể lo cho cuộc
sống của riêng họ. Dĩ nhiên là những người trẻ này, rồi cũng già thôi, rồi cũng
đến phiên họ bị bỏ rơi. Khi còn trẻ, chúng ta cần quán sát và suy gẫm về người
già. Đó là nghiệp, có phải không? Tôi đã cố gắng giải thích điều này với những
người Tây phương, rằng nếu họ bỏ rơi người khác, sau này họ cũng sẽ bị bỏ rơi.
Khi già, chúng ta nên nghĩ đến người trẻ. Và người trẻ nên nghĩ đến người già. Tất
cả đều tương quan nhau, giống như những mắt xích trong một sợi dây xích.
Ajahn
Sumedho[1]
Paul Breiter chuyển
ngữ từ tiếng Thái
(Chuyển
ngữ sang tiếng Việt, theo A Gift of Gratitude,
Tricycle Review, Winter 2006).
[1] Ajahn Sumedho, thế danh là
Robert Jackman. Ông sanh năm 1934 tại thành phố Seattle,
tiểu bang Washington,
Mỹ và lớn lên trong một gia đình đạo Tin Lành cùng với một người chị. Từ năm
1951 đến 1953, ông học tiếng Trung Hoa và sử học tại Đại học Washington. Sau đó ông làm cán bộ y tế cho
Hải quân Mỹ. Làm y tế được bốn năm, ông quyết định đi học trở lại và tốt nghiệp
bằng cử nhân khoa Đông phương học. Nhờ ngành học này, ông được làm quen với Đạo
Phật qua sách vở; và bốn năm làm y tế trong Bộ Hải quân Mỹ đã cho ông cơ hội
tiếp xúc với Giáo hội Phật giáo Nhật Bản.
Năm 1966, ông đến Thái Lan, tìm
hiểu thêm về đạo Phật, tu thiền và sau đó thọ giới sa di tại một ngôi chùa quê
hẻo lánh thuộc tỉnh Nong Khai, miền đông bắc Thái Lan. Sư tu học thiền minh sát
(Vipassana) với ngài Ajahn Chah tại tu viện Wat Nong Pah Pong, thuộc tỉnh Ubon
trong hơn 10 năm.
(Theo
Tâm và Đạo, Quán tưởng về cuộc sống trong Đạo Phật (The Mind and The Way,
Buddhist Relections on Life, Susanta Nguyễn dịch).