PHẬT THÍCH CA NÓI KINH A DI ÐÀ
NGÀI VÂN THÊ LÀM LỜI SỚ SAO
---o0o---
QUYỂN THỨ NHỨT
(tiếp theo)
Ðất Cổ
Hàng (3) chùa Vân Thê (4) Sa Môn Chu Hoằng (5) thuật lại.
Giải kinh
này bằng lời Sớ Sao, với đại văn chia ra làm ba phần lớn.
A.
Thông tự đại ý (chung bài suốt đại
ý của kinh).
B.
Khai chương thích văn (mở từ bài
thích từ chữ).
C.
Kiết thích chú ý (kết lại để giải
thích đại ý chú vãng sanh).
Sắp như
thế này thì thuận theo các kinh thông thường có ba phần là:
THÔNG TỰ,
CHÁNH TÔNG và LƯU THÔNG, mà chính cũng thuận theo ba món Tịnh nghiệp là:
1.- Tín. 2.- Hạnh. 3.- Nguyện (6).
A.-
THÔNG TỰ ÐẠI Ý phân ra làm năm:
1.
Minh tánh (Nói rõ tự tánh).
2.
Tán kinh (Khen ngợi kinh này).
3.
Cảm thời (Cảm thích thời cơ).
4.
Thuật ý (Tỏ ý mình giải kinh).
5.
Thỉnh gia (Cầu Phật giúp thêm).
1.- MINH
TÁNH
CHÁNH VĂN:
Bản thể của tự tính là: Linh (linh thiêng), Minh (sáng suốt), Ðổng (rỗng
rang), Triệt (thông thấu), Trạm (trong trẻo). Tịch (vắng lặng), Thường
(còn), Hằng (lâu), chẳng phải trược, chẳng phải thanh, không lui, không
tới, rất lớn thay cái chơn thể của nó không thể nghĩ bàn được, phải chăng
chỉ có tự tánh của chúng ta mới như vậy?
CHÚ
GIẢI: Phần suốt bày ý kinh, về đại văn chia làm năm: Từ ban đầu “Minh
tánh” cho đến thứ năm là “Thỉnh gia”.
Nay trước
nói: “Minh tánh” - Bởi kinh nầy hoàn toàn làm sáng rõ tự tánh và lý giải
của các kinh cũng không lìa tự tánh nên lấy tự tánh làm mục tiêu.
“Linh” là
tánh linh giác (khôn biết). “Minh” là trí sáng suốt - Mặt trời, mặt trăng
tuy có ánh sáng, nhưng không được gọi là linh thiêng vì là vô tình. Nay
chỉ trong bản tánh rất sáng suốt, rất hay lạ khó lường, với sự sáng suốt
ấy không thể lấy chi so sánh cho cùng tột, nên nói là “Linh” và “Minh”,
nghĩa là vừa khôn thiêng vừa sáng biết.
“Triệt”
là thông suốt. “Ðổng” là sự thông suốt cực điểm. Mặt trời, mặt trăng tuy
chiếu khắp, nhưng không thể soi khắp dưới lòng chậu úp, thế là thông suốt
mà chưa được hoàn toàn thông suốt vì còn bị chướng ngại. Nay tánh “Linh
Minh” đây soi khắp đất trời, thấu trong vàng đá, bốn phương trên dưới
không hề chướng ngại. Vì là bản tánh sáng suốt thông thấu, không chỗ nào
là chẳng thông suốt như “thiên nhãn thông, tha tâm thông”.
Cái thông
đây không phải như đối với sự ngăn cách mà nói rằng thông, nên gọi là
“Ðổng Triệt”.
“Trạm” là
không nhiễm. “Tịch” là không lay động. Ðại địa tuy “Tịch” nhưng không thể
bảo là “Trạm” (vì còn nhuộm máu chiến tranh, núi lở đất động). Nay chỉ có
bản tánh rất vắng lặng, trong sạch, vì không cặn bã.
Sự vắng
lặng ấy không thể lấy chi so sánh cho cùng tận nên gọi là “Trạm Tịch”.
“Hằng” là
hằng lâu. “Thường” là sự hằng lâu cực điểm. Ðại địa tuy bền chắc nhưng
không tránh khỏi kiếp hoại (7), thế là lâu mà chưa thật lâu, vì còn “chung
nhi phục thỉ”. Nay tánh “Trạm Tịch” đây, với trước từ vô thỉ, kéo sau vẫn
vô chung, suốt xưa, suốt nay, không hề biến đổi, bởi vì thường còn mãi
mãi, không bao giờ chẳng thường: chẳng phải như cái thường đối với cái tạm
mà nói rằng lâu, nên gọi là “Thường Hằng”.
Phi Trược
là nói có thì tánh nó không thọ một mảy trần. Phi Thanh là nói không thì
tánh chẳng bỏ một sự, pháp.
Không
“Lui” là buông ra thời không biết nó tới đâu? Không “Tới” là rước lại cũng
không biết nó từ đâu đến đây?
Nghĩa là
cái tánh “Linh Minh” “Trạm Tịch” nầy không thể dùng sự thanh, trược, tới,
lui để tìm cầu gì được. Nói thanh, trược, tới, lui là ý gồm cả lành, dữ,
thánh, phàm, hữu, vô, sanh, diệt, tăng, giảm, đồng và dị v.v…
Hai câu
“Lớn thay chơn thể”… ấy là lời khen ngợi, chữ “Ðại” là ngay nơi thể đặt
tên, đủ hai nghĩa: Biến và thường; do vì tánh, hễ ngang ra thì nó đầy khắp
mười phương là “đại”, mà dọc thì nó tột cả ba đời là “đại”, lại không còn
pháp nào so sánh đặng. Không phải như cái đại đối với tiểu mà nói là đại.
Chữ
“Chơn” là không vọng; do vì ba cõi đều giả dối, duy có tự tánh đây là chơn
thật, vì không phải như trò huyễn ảo, như pháp diệt vong mà chính là không
có cái chi có thể phá hoại nó được nên nói là “Chơn”, tức là “Chơn Như bất
biến”.
Chữ “Thể”
là tột cả muôn pháp không ra ngoài thể nhứt tâm. Thể gồm cả tướng và dụng.
Chung lại gọi là “Chơn thể”. Câu: “Không thể nghĩ bàn được” là: Như trên
đã nói “Minh” mà lại “Tịch”. “Tịch” mà lại “Minh”, thanh, trược không bày;
tới, lui đâu có, thế là bặt đường lòng tưởng, miệng nói, không còn nghĩ
bàn được nữa.
Nói:
“Không thể nghĩ bàn” đó, nghĩa là: với pháp tánh nó không có tướng gì để
tưởng đặng nên hễ tư tưởng thời loạn sanh (sanh tán loạn). Như trong kinh
nói: ‘Ngươi vừa móng tâm, thì trần lao (phiền não) khởi trước’, thật thế.
Lại nói pháp tánh vốn không có cái tướng suy tưởng dầu có suy tưởng cũng
hoài công. Trong kinh nói: ‘Pháp đây không thể nghĩ lường phân biệt mà có
thể biết được’. Nên nói: Tâm muốn duyên thì lự đã mất, nghĩa là không thể
để ý tưởng tượng gì được.
Câu
“không thể bàn” là: Vì lý viên, lời lệch, lời thốt, lý mất. Nên trong kinh
nói: “Phàm có nói năng đều thành hý luận cả” (8). Lại vì lý viên dung, lời
chênh lệch, lời không thể tột lý nên trong kinh nói: ‘Dẫu cho mỗi mỗi thân
đủ vô lượng miệng, mỗi mỗi miệng thốt ra vô lượng lời. Tài ngôn luận như
nàng Thiện thiên nữ (9) nói đến cùng kiếp đi nữa, rốt cục cũng không thể
hết’, thật vậy. Nên nói: Miệng muốn bàn thì lời đã mất.
Lại
nguyên tên kinh là “Bất Khả Tư Nghì” (không thể nghĩ bàn) nên dùng bốn chữ
này để gồm khen văn trước. Vì cái danh tột bực của lời chí lý vậy.
Câu rốt
sau là kết lại. Nghĩa là: Ý nói cái không thể nghĩ bàn như vậy đó là sẽ
chỉ cho vật gì? Duy có tự tánh mới xứng đáng thôi.
Nói
“tánh” có hai phần: 1.- Gồm trong phần vô tình, gọi là Pháp tánh (10). 2.-
Riêng trong phần hữu tình, gọi là Phật tánh. Nay nói tự tánh, tức là chỉ
Phật tánh mà nói vậy. “Tánh” mà nói rằng: “Tự”, là pháp bản nhiên như thế
vì không do tạo tác mới có; vì chính cái của ta sẵn có chớ không phải
thuộc về kẻ khác.
Song tự
tánh đây vốn có nhiều tên, cũng tên là “Bổn tâm”, cũng tên là “Bổn giác”,
cũng tên là “Chơn trí”, cũng tên là “Chơn thức”, cũng tên là “Chơn Như”,
nhiều tên không cùng. Tóm lại mà nói đó, tức là một tâm “Linh tri”, “Linh
giác” của mỗi người sẵn đủ vậy. Nay nói cái mà không nghĩ bàn đây, duy có
nhứt tâm mà thôi; chớ không có vật chi khác, duy có cái thể không nghĩ bàn
đây cùng với nhứt tâm đồng vậy.
Nếu căn
cứ theo kinh đây thì câu đầu tức là “Vô Lượng Quang” vì rỗng suốt không
ngăn ngại. Câu thứ hai tức là “Vô Lượng Thọ” vì thường còn không biến đổi.
Câu thứ ba, câu thứ tư, tức là tâm linh tuyệt đối đãi. Quang và Thọ hòa
nhau, vì tất cả công đức đều vô lượng. Câu thứ năm là tóm lại để khen. Tức
trong kinh đức Phật Thích Ca đã nói: “Như ta khen ngợi công đức không thể
nghĩ bàn của Phật A Di Ðà”. Câu rốt sâu xa về tự tánh. Nghĩa là: Toàn thể
của Phật A Di Ðà, tức là tự tánh của mỗi người.
Lại nữa,
câu đầu là nói thể sáng suốt không chỗ nào chẳng chiếu, tức là “Dụng Ðại”,
câu thứ hai là vắng lặng không đâu chẳng trùm khắp, tức là “Tướng Ðại”.
Câu thứ ba, thứ tư, là bặt hẳn hai bên vì tuyệt đối, tức là “Thể Ðại”. Câu
thứ năm, tóm lại để khen, chính chỗ gọi rằng: tức ba, tức một, đều mất,
đều còn, lời tả cùng nghĩ không thấu, không thể suy xét nói bàn. Câu rốt
sau cũng kết về tự tánh vậy.
Lại câu
đầu nói “Chiếu” tức là đức Giải Thoát. Câu thứ hai nói “Tịch” tức là đức
Bát Nhã. Câu thứ ba, thứ tư nói “Tịch chiếu không hai” tức là đức Pháp
Thân. (11) Câu thứ năm là tóm khen, câu rốt là kết về lệ như trên nên
biết.
Lại dùng
bốn pháp giới để phối hợp đó thì thanh, trược, tới, lui là “Sự pháp giới”;
linh minh, trạm tịch là “Lý pháp giới”: Linh minh, trạm tịch bất biến (tự
tánh không biến đổi) mà tùy duyên (của 8 thức); thanh, trược, tới, lui dù
tùy duyên (của 8 thức) nhưng bất biến (tự tánh không biến đổi) là “Lý sự
vô ngại pháp giới”. Bất khả tư nghì là “Sự sự vô ngại pháp giới”. (12) Do
kinh đây có phần gồm thuộc về Viên giáo vì cũng có ít phần sự sự vô ngại
vậy. Rốt sau nói “tự tánh” cũng là gồm kết bốn pháp giới về một “Lý nhứt
tâm” vậy.
2.- TÁN
KINH (phân làm hai phần)
1.
Tổng tán: Khen chung cả bổn kinh.
2.
Biệt tán: Khen riêng pháp trì danh.
TỔNG TÁN
CHÁNH VĂN:
Lóng đục thành trong, trở trái làm mặt, vượt khỏi ba kỳ trong một niệm;
bằng các thánh nơi chút lời, rất mầu thay chỗ diệu dụng… cũng không thể
nghĩ bàn đặng, duy có kinh A Di Ðà mà đức Phật Thích Ca ngài nói đây thôi.
CHÚ GIẢI:
Như trên đã nói: “Thể linh minh trạm tịch” vốn không thanh, trược, mặt,
trái, rốt ráo bình đẳng, duy là “Nhứt tâm”.
Nay so về môn
sanh diệt để nói: Bởi sự nhận thức của mọi người chẳng đúng với “Tánh thật
biết” vẫn một cái chân như, vì nó không phân biệt nên tâm bất giác khởi ra
vọng chấp trước; thế rồi bị vô minh che lấp, bỏ mất cội gốc là tánh chơn
như, trôi lăn theo ngọn ngành là tâm sanh diệt; khuấy loạn cái Chơn Thể
nên gọi là “Trược”; như lóng bùn cát làm cho trong sạch lại thời gọi là
“Thanh”, tức là chỉ chuyển cõi Ta Bà ngũ trược này trở thành cõi Tịnh Ðộ
là nước Thanh Thới vậy.
Bị vô minh kéo
dắt, bỏ tánh giác, theo vọng trần, trái xa chơn thể gọi là “Bối”. Bây giờ
quày bỏ đường tới, trở lại lui về, thế gọi là “Hướng”. Tức chỉ xây lưng
cõi Ta Bà để trở mặt về nước Cực Lạc vậy.
Song đây là chỉ
ngay trong một thời kỳ chúng sanh từ khi mê đặng ngộ mà nói thì dường như
có những sự lóng đục thành trong, trở trái làm mặt, chớ kỳ thật ở nơi “tự
tánh” thì không đắc, không thất, cũng không thêm không bớt; thế nên khi
đục, lúc trong mà tánh nước không đổi khác; bỗng sau thoạt trước mà người
chẳng hai thân. Nên có câu: “Tu chứng tức chẳng không; nhưng nhiễm ô thời
chẳng đặng chứng”.
Ba kỳ là ba kiếp
lớn A Tăng Kỳ; chữ “Tăng Kỳ” sẽ thấy giải ở văn sau. Nói “ba kỳ” là: a)-
Căn cứ theo lịch sử do Ðức Thích Ca thành đạo thì từ cổ Phật Thích Ca đến
Ðức Phật Thi Khí, trải qua bảy muôn năm ngàn đức Phật; b)- Từ Ðức Phật Thi
Khí đến Ðức Phật Nhiên Ðăng, trải qua bảy muôn sáu ngàn vị Phật; c)- Từ
Ðức Phật Nhiên Ðăng đến Ðức Phật Tỳ Bà Thi, trải qua bảy muôn bảy ngàn Ðức
Phật nên nói ba kỳ. Trải đủ nhiều kiếp lâu xa càng lâu xa để hành Bồ Tát
Ðạo mới siêu sanh tử, mà nay không vượt ra ngoài một niệm mau khỏi đường
sanh tử. Một niệm là gì? Tức tâm năng niệm của ta niệm Phật A Di Ðà đây
vậy.
Chữ
“Thánh” là Phật và Bồ tát. Từ địa vị phàm phu trông lên bực Thánh, cách
lại càng cách, thế mà nay không ngoài chút lời được tiến lên ngay bực
“Thánh bất thối”; chút lời là chút lời sở niệm danh hiệu Phật A Di Ðà đây
vậy.
Tột
thay!... hai câu là lời khen ngợi. Chữ “Chí” nghĩa là “tột”, ý nói rộng
lớn tột bực không chi hơn đặng.
Chữ
“Diệu” là nghĩa bốn câu trên chung gọi là “Diệu Nghĩa”.
Dụng là
“Lực Dụng”. Luận rằng tâm nhơ khó sạch, vẩn đục như sông Huỳnh (13), vọng
tưởng khó thâu, dong ruổi dường ý ngựa. Bởi trải nhiều kiếp như hằng sa vô
số lượng mãi luân hồi không thôi, dầu đọc hết văn trong ba tạng 12 bộ kinh
mà đường giác càng xa. Nay có thể làm cho đục thành trong, trái nên mặt,
một niệm mau siêu, chút lời liền chứng, lực dụng nhiệm mầu đến thế, đâu
nghĩ bàn được. Dụng từ thể tướng sanh ra, nên chỉ nói diệu dụng mà gồm cả.
Câu rốt
sau là kết về tự tánh, ý nói chỗ diệu dụng như thế sẽ sánh với kinh nào?
Chỉ có kinh A Di Ðà của Phật Thích Ca đây mới đủ dùng để so sánh.
Hoặc có
người hỏi: Không luận kinh Tiểu thừa, chỉ như các kinh Ðại thừa chất nhiều
như núi, vì sao riêng khen diệu dụng của kinh này?
Ðáp:
Trong tạng Kinh tuy có đủ nghĩa đây, nhưng chưa có kinh nào rõ ràng và
giản dị như kinh này, cho nên xứng tánh mà luận, chánh trực mà nói thì đâu
chẳng phải là Viên Ðốn giáo; (14) nhưng với cái điều “Lóng đục… trở trái…”
thì Viên Ðốn kia chưa bày tỏ ra cách phương tiện ấy. Còn các pháp môn
khác: hoặc có pháp quá rộng hơi khó giữ gìn, hoặc quá sâu xa khó dò nổi.
Nay chỉ dùng chút lời bằng niệm danh hiệu Phật liền chứng nhập nhứt tâm,
đã được vãng sanh, tiến ngay đến chỗ thành Phật, thế thì chính nơi phương
tiện mà thành pháp Viên Ðốn vậy. Thần công, thắng lực ấy không thâu về
kinh này, chớ về kinh nào?
Lại văn
trước là “Tánh đức”, văn đây là “Tu đức”, văn trước là “Tự tánh” sẵn thanh
tịnh, văn đây là “Ly cấu” mới được thanh tịnh, nhẫn đến tánh tịnh, chướng
hết v.v… hòa lẫn nhau như một không hai, như trong phần sau sẽ nói.
BIỆT TÁN
(phân ra làm bốn phần)
1.
Tiên xuất thuyết kinh sở dĩ: Trước chỉ lý do nói kinh.
2.
Thống luận Tịnh Ðộ công đức: Gồm bàn công đức Tịnh Ðộ.
3.
Ðặc thị trì danh vi yếu: Chỉ có trì danh là hơn.
4.
Quảng hiển trì danh sở bị: Rõ nhờ trì danh rất rộng.
TIÊN XUẤT
THUYẾT KINH SỞ DĨ
CHÁNH VĂN:
Thế nên đức Thế Tôn ta trước nói ra ba thừa sau hội về nhứt thật, đã đồng
phần cho của báu, lại còn đặc biệt ban ơn mầu.
CHÚ
GIẢI: Nương văn trên nói: Kinh này có đủ công đức, không thể nghĩ bàn
như thế: thành thử Phật nói kinh này là vì có lẽ đó.
Chữ “Sạ”
là Tạm. Nghĩa là: Tạm thời quyền nói, chớ chưa phải nói đến chỗ cứu cánh.
Tam thừa
là: thừa vốn không ba, quyền nói có ba là: Thinh Văn, Duyên Giác và Bồ
Tát.
Chung là
đối với Tạm mà nói. Thật là để đối với quyền mà nói nghĩa là đức Thế Tôn
ta khi mới thành ngôi Chánh Giác, diễn nói kinh Ðại Hoa Nghiêm, nhưng giáo
lớn khó thích hạp với căn cơ nhỏ nên Phật tùy căn cơ của chúng sanh, mà
Ngài nói pháp tam thừa, sau rốt mới hội “Quyền” về “Thật”, đồng ban trao
pháp đại thừa, cho nên nói “đồng phần cho của báu”. Đây là chỗ đại khái cả
5 thời giáo (15) của Như Lai nói trong một đời 49 năm. Nhưng trong ấy lại
đưa ra một môn niệm Phật: Môn này không luận kẻ đại căn, người tiểu cơ, hễ
ai niệm Phật là liền được vãng sanh. Cũng không đợi đến lúc căn cơ thuần
thục mới hội Quyền về Thật, miễn được vãng sanh liền đặng bực Bất Thối. Dụ
như: Người được tiến cử vào chức vị mà chẳng cần phải do nơi phẩm trật
(thi đậu bằng cấp) và kẻ con nhà thừa ấm (16) sẵn bực lớp, nhứt định làm
quan. Vì ơn trên ban ra bằng một cách phi thường, nên gọi là ơn đặc biệt,
cũng như lạ lùng. Lại ân mầu ấy gồm có 2 nghĩa:
1.
Pháp niệm Phật là trong ân mầu.
2.
Pháp trì danh niệm Phật lại là ân mầu trong ân mầu.
THỐNG
LUẬN TỊNH ÐỘ CÔNG ÐỨC
CHÁNH
VĂN: Ðức Thế Tôn chỉ ra 48 lời nguyện và mở dạy 16 pháp quán: Nguyện nào
cũng quy về pháp phổ độ, Quán nào cũng chú trọng về lý diệu tâm.
CHÚ
GIẢI: Văn trên khen pháp môn Tịnh Ðộ rất thù thắng: văn đây đối với
pháp môn Tịnh Ðộ, trước nêu các kinh, sau đem so sánh với kinh này thì
kinh này lại là thù thắng hơn. “48 nguyện và 16 pháp quán đã chép đủ trong
hai kinh” là ý nói từ nguyện đầu đến nguyện rốt sau, nguyện nào cũng đều
tiếp dẫn chúng sanh đồng sanh về cõi Tịnh Ðộ. Từ quán đầu cho đến quán
cuối cùng, quán nào cũng đều là quán không, quán giả và quán trung đạo
(17) để rõ tột lý nhứt tâm. Do nhứt tâm đây phát sinh ra đại nguyện, nương
đại nguyện mà thành ngôi chánh giác, rồi dùng bản nguyện ấy trở lại độ
chúng sanh để đồng chứng lý nhất tâm.
Ðối pháp
môn Tịnh Ðộ, so sánh cả hai kinh (Ðại Bổn và Quán kinh) ý gồm như thế.
ÐẶC THỊ
TRÌ DANH VI YẾU (phân ra làm hai phần)
1.
Giảo luận yếu ước: So sánh về chỗ cốt yếu.
2.
Cứu minh lợi ích: Xét rõ điều lợi ích.
GIẢO LUẬN
YẾU ƯỚC
CHÁNH
VĂN: Lại dùng nguyện môn rộng lớn, quí nhứt là tại chỗ biết trước;
với pháp quán sâu mầu chi bằng giữ lấy chỗ dón: Biết trước là chuyên cầu
về nước kia. Giữ chỗ dón là duy cần sự trì danh. Vì hễ niệm danh hiệu Phật
thì đã gồm đủ các đức tốt; còn chuyên trì danh, cũng tóm thâu được muôn
hạnh mầu.
CHÚ
GIẢI: Chính nơi văn trước so sánh kinh Ðại Bổn, Quán kinh mà luận thì
biết pháp trì danh rất là ngắn gọn. Nói “rộng lớn” là 48 lời nguyện bao
trùm cả kẻ u, người hiển, gồm hết bực thánh, hạng phàm, rộng lớn thênh
thang, xa khơi không bờ mé; pháp môn man mác như thế, muốn vào quyết có
chỗ dò lần, nên chi quí ở chỗ biết trước. Trong Truyện nói: “Biết chỗ
trước sau thời mới gần đạo vậy”. (18)
Nói “sâu
mầu” là: Vì quán môn chia ra làm 16 pháp, sự tu không phải một; vả lại
diệu quán rất tinh vi, kẻ sơ tâm khó xét thấu. Nếu cẩn thận ắt đặng lý mầu
nên phải giữ chỗ yếu trước. Ông Kha Tử đã nói: “Giữ chỗ yếu trước mà làm
ra việc to rộng là đạo hay vậy”. (19)
Thế nào
là “biết trước”? Do biết sanh về nước kia, gần gũi phụng sự đức Như Lai
đại nguyện như thế, ngõ hầu khá trông mong, miễn được thấy Phật Di Ðà lo
gì chẳng tỏ ngộ. Thế nên nói sự cầu nguyện vãng sanh là việc làm cần kíp
trước hết.
Thế nào
là giữ chỗ yếu trước? Bởi do pháp quán tuy là 16, nhưng chỉ nói đến một
chữ Phật là đủ. Phật tuy rất tột, duy nhứt tâm tức là đó (là Phật). Nay
nghe tên Phật, nhứt tâm chấp trì, chính rằng rất dón dễ không tốn công
nhiều, vì muôn pháp chỉ duy tâm, hễ tâm đã thanh tịnh thì việc nào lại
không xong; vận lòng quán tưởng trong một sát na mà nào y báo, nào chánh
báo đều được rõ ràng, hễ móng niệm muốn vãng sanh liền được sanh về nước
kia. Thế là với pháp quán khó thành, ta chẳng tu tập mà thành. Cho nên
pháp “trì danh niệm Phật” để làm chỗ giữ tu rất là yếu ước vậy.
Ngài
Thiên Như đã nói: “Lòng Phật Thích Ca quá thương, khuyên chúng sanh niệm
ngay danh hiệu Phật A Di Ðà ấy vậy”.
Nói “niệm
danh hiệu” là: Phật có vô lượng phước đức, nay chỉ niệm có bốn chữ danh
hiệu là A Di Ðà Phật cũng đủ bao trùm hết cả, do vì đức Phật A Di Ðà tức
là toàn thể của nhứt tâm mà tâm nó gồm cả các đức nào Thường, Lạc, Ngã,
Tịnh, Bổn giác, Thỉ giác (20), Chơn Như, Phật Tánh, Bồ Ðề, Niết Bàn, cho
đến trăm ngàn vạn tên, đều chỉ trong một tên Phật A Di Ðà đây, thâu gồm
được tất cả.
Nói
“chuyên trì” là: chúng sanh học Phật cũng có vô lượng pháp tu hành; nay
chỉ một pháp trì danh đủ dùng gồm ráo. Bởi vì trì danh hiệu Phật, tức là
trì lấy nhứt tâm mà tâm đây nó gồm hết trăm hạnh như: Tứ Ðế, Lục Ðộ, cho
đến tám muôn bốn ngàn số hằng sa số vi trần, tất cả hạnh môn, tâm thâu
nhiếp được hết, nên gọi là “giữ chỗ yếu ước”.
CỨU MINH
LỢI ÍCH (phân ra làm ba phần)
1.
Nhơn thành (Thành cái nhơn niệm Phật)
2.
Quả chứng (Chứng cái quả niệm Phật)
3.
Tổng kết (Chung kết nhơn quả tốt)
NHƠN
THÀNH
CHÁNH VĂN: Tu
đến đây muôn niệm lự (vọng niệm) đều thôi. Xét tột, nhơn được vậy là bởi
nhứt tâm bất loạn.
CHÚ GIẢI:
Trước khi chưa tu pháp “niệm Phật” thì trong ý thức niệm nào niệm ấy toàn
là niệm theo trần lao (tức là niệm chúng sanh), gọi rằng trong một sát na
có đến chín trăm cái niệm sanh và diệt; cứ trong mỗi một niệm lại có bốn
giai đoạn là: Sanh, Trụ, Dị, Diệt. Như thế phân tích ra từ số, từ mục thì
nó nhiều đến bằng những con số vô lượng vô biên. Ví dầu dùng con mắt bằng
“thiên nhãn thông” đi nữa cũng không thể dòm cho thấu hết số niệm trần lao
ấy! Nên gọi là “muôn niệm lự” vậy. Những muôn niệm lự đây hễ niệm trước
diệt thì niệm sau sanh, thoạt đi thoạt lại, dùng trăm kế trừ đó, nhưng rốt
cục không thể trừ được.
Thế mà nay nhờ
sức trì danh, chánh niệm vừa dấy lên thì tạp tưởng tự nhiên trừ hết. Dụ
như sư tử ra khỏi hang, trăm loài đều ẩn nép. Ánh mặt trời chiếu sương,
ngàn rừng mất tuyết trắng, gọi là muôn vọng niệm đều thôi.
Thế nên ngài
Vĩnh Minh nói: “Có người tu pháp quán sổ tức (21) vọng tưởng không thôi;
tu pháp niệm danh hiệu Phật liền được tiêu vọng tưởng”. Nghiệm xét cả hai
thì nhờ pháp niệm Phật đây mà niệm tư lự thôi dứt lại càng thôi dứt, cùng
nguồn tột gốc; nên nói rằng “xét tột”. Ðến chừng được “nhứt tâm bất loạn”
tức là thành tựu cái nhơn tu pháp “niệm Phật tam muội”.
QUẢ CHỨNG
CHÁNH VĂN:
Mới biết chưa bước lìa ngạch cửa mà ao báu hoa nở bốn màu, chẳng ra khỏi
ngõ sân mà đất vàng cây ngọc quanh bảy lớp, chỗ đức Di Ðà thuyết pháp giờ
hoa sen nở hóa sanh, chim quý với chim thường rập tiếng, nhà tranh cùng
nhà ngọc chung màu.
CHÚ GIẢI:
Bất luận ở đâu, người tu pháp niệm Phật mà đã được nhứt tâm bất loạn mới
biết từ bảo thọ, liên hoa, cho đến cả y báo, mỗi mỗi món trang nghiêm kỳ
diệu đều không phải là cảnh ngoài tâm, tức là “tâm tịnh, độ tịnh”, thế hà
tất phải đợi tai nghe lời vàng mới là Phật Di Ðà thuyết pháp? Cõi Ta Bà ấn
hoại mới gọi là Tịnh Ðộ văn thành hay sao? Thế thì chim quí, chim thường,
nhà ngọc, nhà tranh (22) có gì hơn, có gì kém, có chi tịnh, có chi uế? Nên
nói: Cảnh Tây phương tịnh độ ở ngay trước mắt là thế.
TỔNG KẾT
CHÁNH VĂN: Số
là, với cái niệm mà không là chơn niệm; với việc sanh mà hiểu vào vô sanh.
Bởi niệm danh hiệu Phật tức là niệm tâm ta, còn sanh nước kia không lìa
sanh cõi đây. Vì rằng tâm, Phật và chúng sanh tuy ba mà vẫn đồng một thể;
giữa dòng và hai bên đều không nhứt định ở một chỗ nào nên gọi: tự tánh
giác là Phật Di Ðà, duy tâm tịnh là cõi tịnh độ.
CHÚ GIẢI:
Tiếp văn trên nói: Cái lẽ mà được nhơn tốt quả mầu như thế là phần chính
do tu pháp trì danh niệm Phật đến chỗ nhứt tâm, niệm tột thành không niệm,
niệm mà không niệm mới là chơn niệm. Lại cái thể niệm vốn không, niệm thật
không niệm, gọi là chơn niệm vậy.
Câu “sanh vô
sanh” là: Vì rõ thể sanh không có thì sanh mà không sanh, không sanh mà
sanh, thế gọi là dùng tâm niệm Phật chứng nhập bực nhẫn vô sanh (23),
nhưng trong bài “Giáo Khởi” văn sau có nói rành. Nên biết trọn ngày niệm
Phật chính là trọn ngày niệm tâm, rõ ràng vãng sanh, nhưng lặng trang
không có gì lai vãng.
Câu “Tâm, Phật
và chúng sanh” đó, kinh nói: “Tâm và Phật cùng chúng sanh, cả ba không sai
khác”. Bởi vì tâm niệm Phật tức là Phật A Di Ðà, Phật A Di Ðà tức là tánh
Phật của chúng sanh, vì đồng một bản thể Biến Chánh Giác nên chi chúng
sanh trong tâm của chư Phật trở lại niệm lấy chư Phật trong tâm của chúng
sanh. Nếu “mê” phải cầu “Giác” mà giác thì vẫn đồng nhau, nên nói đồng một
thể.
Câu: “Giữa dòng
và hai bên” là cõi Ta bà dụ ở bên này, cõi Cực Lạc dụ ở bên kia. Ban đầu
nhàm khổ ưa vui; rồi đến cái chấp phân biệt khổ vui đều mất, sau rốt cũng
không trụ nơi phi khổ, phi vui, thế là hai bên đã không chấp trước, chặng
giữa lại cũng không để lòng. Tự tánh sẵn có đức Phật A Di Ðà, duy tâm sẵn
có cõi Tịnh độ, ý cũng như đây. Thế thời pháp Thiền và pháp Tịnh Ðộ, cả
hai tuy khác lối tu, nhưng đồng về một chỗ là “tánh” vì không lìa tự tâm,
mà tự tâm tức là Phật, tức là Thiền.
Vậy ai kia chấp
Thiền chê Tịnh Ðộ, chính là tự chê bổn tâm của mình, cũng là chê Phật và
chê pháp Thiền của mình đương tu nữa mà họ cũng chẳng biết, tự nghĩ xét đó
thôi!
QUẢNG
HIỂN TRÌ DANH SỞ BỊ
CHÁNH VĂN:
“Lý nhứt tâm” đây, dù nó trọn phần về bực thượng trí, nhưng nó cũng thông
cả “sự, tướng” phần nào. Vì chiều theo cho hiệp với kẻ độn căn (căn cơ
chậm lụt cũng như tối dạ).
CHÚ GIẢI:
Với “Lý nhứt tâm, Sự nhứt tâm” sẽ thấy rõ ở văn sau. Nay nói “tự tánh Di
Ðà, duy tâm Tịnh Ðộ” chính là chỉ ngay về “Lý nhứt tâm bất loạn” trong
kinh này nói thôi. Bực thượng trí có thể vâng tu, kẻ độn căn chưa kham
lãnh nổi. Nên nói “nhứt tâm” đây, không những chuyên chú về Lý mà cũng
thông đồng đến Sự nữa vì với “Sự nhứt tâm” ai cũng làm được, chính như: Kẻ
ngu phu, ngu phụ (24) dù là bất tiếu, chớ cũng có thể tham dự biết được,
làm được. Vì pháp trì danh niệm Phật này ví như trời khắp che, đất khắp
chở, trong bầu đại tạo (vũ trụ) không bỏ một vật nào.
3.- CẢM
THỜI
1.
Tổng thán (Than chung chấp đây bỏ kia)
2.
Biệt thán (Than riêng chấp lý hay chấp sự)
3.
Kiết thán (Kết lời than phiền)
TỔNG THÁN
CHÁNH VĂN:
Ngặt vì bọn bảo thủ thói ngu, chấp lấy Sự mà không chịu nghe Lý, còn hạng
tà trí tiểu huệ chấp Lý mà bỏ Sự. Chấp Sự mê Lý như trẻ nhỏ đọc sách của
cổ thánh; chấp Lý bỏ Sự như học trò nghèo lượm đặng bằng khoán của bác nhà
giàu.
CHÚ GIẢI:
Văn trên nói: Phật vì lòng thương độ cả kẻ trí người ngu. Văn đây nói:
Chúng sanh không noi theo ý Phật thì dù có khéo dạy mà nó cũng không khéo
học, nên đáng thương thay!
“Thủ ngu” là: Ðã
ngu mê mà lại đành giữ chặt sự ngu, không chịu cải đổi. “Tiểu huệ” là có
hơi thông được chút đỉnh, chứ chưa phải là thông. Bởi vì Sự là nương nơi
Lý để phát sanh; Lý mà đặng nơi Sự mới rõ rệt; có Sự có Lý để giúp lẫn
nhau không nên riêng bỏ một bên nào, còn chấp đây, chấp kia cũng đồng là
một hạng ngu tệ!!
“Trẻ nhỏ” là: Dụ
kẻ hoàn toàn ngu mê, vì còn trẻ con chưa mở trí, chỉ biết đọc chữ chứ
không hiểu nghĩa. Chính như bảo trọn ngày niệm Phật mà chả biết ông Phật
mình niệm đó là gì?
“Trò nghèo” là:
Dụ kẻ mới biết đọc hiểu chút đỉnh. Xưa có người nghèo đi đường lượm được
cái bằng khoán. Thấy trong ấy biên nào là: ruộng, vườn, nhà, cửa, vàng,
lụa, gạo, lúa, món món số mục; vui mừng quá đỗi tự hào rằng mình giàu to.
Ðâu biết rằng chỉ đếm số mục vật báu của người khác trên mặt giấy tờ mà
thôi, chớ với mình có ăn thua gì. Chính như đấy bảo: Mặc dù nói khoác rằng
biết tức Phật, tức Tâm, nhưng rõ ràng Tâm mình chưa phải là Phật. Thế nên,
so về Lý thì không thể niệm, so về Sự thì trong cái không thể niệm, chúng
ta vẫn niệm mãi. Do vì niệm tức không niệm. Lý, Sự đều tu, ngay nơi bổn
trí (trí mình) mà cầu Phật trí (25). Ừ! được như vậy rồi mới gọi là bậc
đại trí chớ!
BIỆT THÁN
CHÁNH VĂN:
Song, dầu tu niệm Phật bằng cách sự tướng mà niệm được nối luôn luôn, cũng
không mất công vào bực thánh. Còn tu chỉ bằng cách chấp Lý mà tâm chưa
được thật sáng suốt, trở lại chịu cái hại lạc về ngoan không.
CHÚ GIẢI:
Văn trên nêu cả hai bệnh: Chấp Lý bỏ Sự, chấp Sự bỏ Lý. Văn đây đối với
hai bệnh riêng chỉ lỗi kia. Nghĩa là: Chấp Sự mà tín tâm không thiết, vốn
không đủ luận. Giả sử tu niệm Phật bằng cách chuyên trì danh hiệu, mỗi
niệm mỗi niệm nối nhau, không có gián đoạn, dầu chưa hiểu đế lý của nhứt
tâm chứ cũng đã được thành tựu tịnh thân, đã được tịnh thân thì chắc được
vãng sanh vậy, dù là phẩm vị thấp. Chính như nói: Người học trò thi đậu
bằng cách nêu tên ở chỗ chót bảng, dù là hạng bét nhưng cũng không đáng
hổ, chỉ sợ trên bảng không có tên mình mới thẹn thôi! Thì ai lại nỡ nào
chấp lấy cái thủ ngu đó để chịu thiệt thòi nơi mình ấy ư!
Chí như chấp Lý
mà tâm được sáng suốt cũng không cần luận; ví dẫu chỉ cấp tiến bằng thói
cuồng huệ (26), đắm dính vật ngoan không (27) với tâm mình mà mình chưa tỏ
ngộ, lại vội khinh thường niệm Phật, coi rẻ sự vãng sanh phải bị hại chẳng
nhỏ. Chính chỗ rằng: Cho là chẳng có chi hết như cái cõi không trống rỗng
kia, rồi bác đi, cho là không có cái lý nhơn quả chi thì nó tự chuốc lấy
những họa ương rất lớn và nhiều lắm! Như trời cao lồng lộng, rừng cỏ rậm
rì rì!! (28)
Hoặc có người
hỏi: Vì sao không trách tội kẻ độn căn (tối dốt), trái lại cứ dằn ép kẻ
lợi căn (sáng lanh)?
Ðáp: Vì người
lợi căn hay ỷ tài cao cả, lên chân múa mỏ thường tự hào có tài trí giỏi
hơn kẻ độn căn. Sở dĩ nay lập ra lời chỉ trích là muốn cho họ biết rằng:
“Vẽ cọp không thành, trở lại thua một thẻ” (29). Mong họ biết lỗi hồi tâm
niệm Phật, chớ nào phải dằn ép chi đâu mà thiệt ra là thương tiếc lắm mới
nói!
KẾT THÁN
CHÁNH VĂN:
Ðến nỗi để đức Phật như duỗi tay luống cần, dường như mẹ dựa cửa ngóng
trông. Ðối trên, nỡ dửng dưng lời Phật dạy; đối dưới, đành phụ tánh linh
của mình, từ đời này cho đến nhiều đời, một bước sai trăm bước vẫn sai,
(30) đành lòng lục đục giữa khổ thú, bó tay lần hồi đến tử môn, không ai
cứu vớt, không chỗ nương về, thật đáng thương và đáng tiếc.
CHÚ GIẢI: “Duỗi
tay” là thuở xưa Mạnh Tử nói: “Chị dâu bị đắm nước, em trai chồng nắm lấy
tay chị để vớt lên” (31). “Dựa cửa” là: Mẹ của ông Vương Tôn Cổ bảo ông
rằng: “Con mai ra đi mà chiều chưa về, thời má đã đứng tựa nơi cửa này để
ngóng trông” (32).
Nay nói chúng
sanh chìm đắm dưới bể khổ, Phật ra đời tế độ như duỗi cánh tay xuống vực
sâu để cứu vớt. Thế mà chúng sanh bỏ tánh chơn giác, theo vọng trần, Phật
thương tưởng như mẹ tựa cửa trông con. Tuy cứu vớt rất cần, nhớ thương quá
thiết, nhưng mà chúng sanh kẻ thì đắm đuối mãi chẳng ngóc đầu, người thì
xa xăm luôn không lui gót, thật là phụ bạc lời giáo huấn của đức Từ Tôn.
“Dưới đành thua
thiệt tánh linh của mình” là: Hễ có tâm, quyết sẽ thành Phật; nên chi Phật
dạy cái phép “niệm danh Phật” là muốn cho mỗi người niệm lấy tự tâm của
mình để thành lấy quả Phật nơi tự tánh mình. Thế mà chúng làm ngơ bỏ lửng
không tin thì đâu chẳng phải là để cho tánh linh mình bị thua thiệt ư!
“Ðời nay và
nhiều đời” là: Ðời đời đọa lạc không cùng. “Một bước sai, trăm bước cũng
sai” là: Ðời nay bước trái bỏ qua thì sau này nhiều kiếp khó gặp.
“Vào khổ thú”
là: Tỷ như bầy dòi của ruồi xanh, chịu khốn khổ lúc nhúc ăn đồ dơ trong
cầu xí (Dụ: Chúng sanh đắm mê ngũ dục, không cầu xuất ly ngoài tam giới.)
“Ðến chốn tử
môn” là: Dụ loài trâu, dê bị lùa đến chỗ làm thịt, không ai cứu vớt, không
chỗ nương về, đâu chẳng thương ư!!?
4.- THUẬT
Ý (phân ra làm ba phần)
1.
Quí kỷ bất đức (thẹn mình chẳng có đức tài gì)
2.
Minh kỷ sở thượng (tỏ chỗ mình quí chuộng)
3.
Nguyên kỷ thích kinh (xét chỗ mình giải kinh này)
QUÍ KỶ
BẤT ÐỨC
CHÁNH VĂN:
Chu Hoằng này đã là kẻ hạ phàm, lại nhằm đời mạt pháp, chỗ xuất thân hẹp
hòi hẻo lánh, bề học thức cạn cợt muộn màng, chẳng thông lý nhiệm, vốn hổ
lời xuông, bánh vẽ ích chi cho bụng kẻ đói, đá yên thạch khó dối mắt người
cổ hồ (người thạo nghề buôn).
CHÚ GIẢI:
Văn trước nói niệm Phật được lợi ích như thế, không niệm Phật mắc hại như
thế, nên thuật lại ý mình chỉ trọng pháp niệm Phật. Văn đây, trước lấy độn
căn để tự xét cũng như tự phê bình. “Mạt pháp” là pháp rốt, một thời sau
hai thời chánh pháp và tượng pháp (33) là than mình sanh nhằm thời kỳ
không có Phật. “Hạ phàm” là báo thân không tốt.
“Hẹp hòi” là chỗ
thấy không rộng. “Học muộn” là: Trí hiểu không được sâu. Với sự còn chưa
hiểu, huống nữa biết lý? Nghĩa là: Lời nói không đủ để làm cho người tin
vậy.
“Vốn hổ” là: Vì
tự biết mình thấp cạn, hổ thẹn với lời nói suông, nghĩa là: hổ lời nói đi
quá việc làm (34).
“Bánh vẽ”: Dễ
hiểu, dụ như lời nói suông.
“Ðá yên”: Là thứ
đá giống như ngọc, mà không phải ngọc.
“Cổ hồ” là:
Người buôn bán bên nước Tây Vức, khéo biết rành các thứ ngọc báu. Thưở xưa
có người lượm được viên yên thạch, tự cho là ngọc Du Cẩn, rồi làm bộ kiêu
dóc để dối loè mắt người, mong đặng giá cao. Hôm nọ đem tán tỉnh (khoe)
với người Cổ Hồ. Hồ nói: Ðây chỉ là đá chớ không phải ngọc đâu anh ạ!
Người kia lấy làm xẻn lẻn rút lui. Dụ như đối với đạo chỗ thấy còn hẹp
hòi, mơ hồ không thật, chỉ làm trò cười trước mắt tinh đời của người thiện
tri thức (35).
MINH KỶ
SỞ THƯỢNG
CHÁNH VĂN:
Kính vưng theo lời tiên sắc của Phật, dốc lòng phụng sự kinh này, trông về
nước Cực Lạc là quê hương, ngửa mến đức Từ Tôn như cha mẹ.
CHÚ GIẢI:
Ðã tự xét mình độn căn thì với sự làm ắt noi theo bực cổ đức. Chữ “Chi” là
Kỉnh. Tiếng ngọc của vua trong đời, lời vàng của Phật ra khỏi đời đều gọi
là chữ “Sắc”. Dốc lòng phụng sự là phụng sự triệt để. Nước Cực Lạc mà nói
là quê hương: Vì cõi Tịnh Ðộ vắng lặng, chính là chỗ của mỗi người để an
thân lập mạng. Mà lại bỏ lìa quê cũ, trôi dạt xứ người, như kẻ du tử lạc
loài, duy có một niệm lo trở về với quê cha đất tổ mà thôi.
Ðức Từ Tôn mà
nói là hỗ thị (nhờ cậy) hay cha mẹ: Vì cha
là chỗ nhờ của ta, mẹ là chỗ cậy của ta (36), Phật dùng lòng đại từ, đại
bi tiếp dẫn chúng sanh, mang ta bằng thai thánh, nuôi ta bằng sữa pháp.
Ngay nơi trong tâm ngoài thân của chúng ta nay đây, đâu chẳng nhờ ơn lực
ấy mà đặng thành lập nên người. Ðức cù lao trời cao chẳng tột (37), thế mà
ta lại nỡ bỏ gốc sanh thành, như con minh linh dưỡng tử đi theo họ khác
(38).
Vậy chỉ phải
thật lòng cảm mộ trọn đời (39), hầu hạ đôi bên (40), sớm thăm tối viếng,
không nên trái lời (41).
NGUYÊN KỶ
THÍCH KINH
CHÁNH VĂN: Vì
ôm lòng kiêm lợi, đạo quí chỗ hoằng thông. Tiếc thay các bộ sớ thích của
Tổ xưa, ngày nay ít thấy bổn nào còn trọn đủ! Duy có vài tập chú giải còn
ấn hành nơi đời, lời tuy thiết mà nghĩa quá hẹp, lý hơi bày nhưng không
được rõ. Luận không tột đến chỗ hoằng công, đâu có thể phát khởi tín tâm
cho quần chúng?
Vì thế, tôi
vội quên chỗ tri kiến hẹp hòi, hết lòng suy nghĩ, gồm thâu bộ loại năm
kinh; căn cứ ngay nơi một hạnh Văn Thù hội về ý chỉ mầu nhiệm. Có phần
thuộc về kinh Tạp Hoa; sâu suốt các pháp môn, thời rộng gồm cả các bộ;
không một bộ nào mà chẳng tiêu dung về tự tánh. Nhưng có nguyện nào cũng
hồi hướng về quả Bồ Ðề. Con nay tỏ chút lòng thành, cúi mong chư Phật gia
hộ.
CHÚ GIẢI:
Chưa chi làm lợi cho mình mà có thể lợi cho người trước hơn là Bồ Tát phát
tâm, hành đạo, nên chẳng nỡ chỉ lo được yên lành riêng cho một mình là vì
lòng mẫn ôm canh cánh lấy cái nghĩa vụ kiêm lợi; mà với cái bổn phận làm
việc kiêm lợi đó, tưởng không chi hơn là làm việc hoằng pháp trước nhứt.
Nhưng lời chú sớ của kinh này, nay phần nhiều đã lạc mất, xét về trước
không còn manh mối! Tuy chỉ còn một hai bổn lưu hành ở đời, nhưng chỉ lược
chỗ đại khái, chớ chưa lột hết được ý nghĩa nhiệm mầu.
“Hoằng công” là
công đức không thể nghĩ bàn. Vì người mà không biết kinh đây có đủ công
đức rộng lớn như thế nên nghi mà không tin; dầu tin cũng không chơn thật.
Thế nên bất đắc dĩ, tôi mới làm lời sớ sao này.
“Chỗ tri kiến
hẹp hòi” là: Chỗ thấy ngoài da Phật Pháp, nói da
thứa ở ngoài là chỗ hiểu vào chẳng sâu, dụ như chỗ thấy cạn cợt
vậy. Chỗ thấy biết quá nông cạn; đâu dễ gì so lường nghĩa lý sâu mầu của
Phật; nhưng vì tâm cứu đời nó quá ư ân cần, bắt hối thúc nên vội quên mình
quê hèn dốt nát.
“Lòng suy nghĩ”:
Tâm là chủ của sự suy nghĩ (42). Vua Nghiêu, vua Thuấn là bực Thánh còn
hết lòng suy nghĩ với việc làm, chúng ta là người bực nào khá dễ thường mà
đặng?
Bộ loại: Những
bộ chuyên nói về Cực Lạc như kinh “Ðại Bổn” v.v… năm kinh. Văn Thù là kinh
“Văn Thù Bát Nhã” chuyên nói về pháp xưng danh hiệu “Nhứt hạnh tam muội”.
Kinh Tạp Hoa
(43) là do kinh Hoa Nghiêm lấy tánh hải làm tông, rõ ràng không phải giáo
pháp quyền thiển vậy. Các bộ là dẫn các kinh, luận để chứng cứ, là để tỏ
rằng không phải lời ức kiến (44), rõ như trong hai môn “Nghĩa Lý” và “Bộ
Loại” đến trong văn kinh sau có biện.
“Tiêu dung về tự
tánh” là: Nói không chuyên về “Sự tướng” vì xét tột chỗ về đến nơi đến
chốn thì thảy đều tiêu hóa, dung hội về nơi bản tánh của mình. Bởi vì cả
thế gian và xuất thế gian, không một pháp nào lọt ra ngoài tự tâm đặng; y
báo, chánh báo (45) nơi cõi Tịnh Ðộ mỗi mỗi cũng đều là bản giác diệu
minh.
Vì như các chiếc
bình, xuyến, kiềng, vòng, hình thức của mỗi món đồ tuy khác, nhưng cũng
chỉ một chất vàng làm ra. Nước nơi khe, ngòi, sông, suối tuy là mỗi chỗ dù
riêng, chứ dòng nào cũng chảy về một biển. Chính nghĩa là: không vật nào
chẳng từ pháp giới này lưu xuất, và không vật nào chẳng trở về nơi pháp
giới này.
“Hồi hướng Bồ
Ðề” là: Phàm chỗ tu niệm hành đạo đều nguyện để vãng sanh, gọi là “hồi
hướng”. Nhưng hướng không phải hướng về đâu khác hơn là chỉ hồi hướng về
Tịnh Ðộ, hồi hướng về Tịnh Ðộ tức là hồi hướng về tự tánh của mình.
Hai câu rốt sau
là nối văn trước, khởi văn sau: Trước khi muốn làm việc lành, ắt cầu chư
Phật gia hộ. Bồ Tát còn thế, huống là kẻ phàm phu ?!
Tinh nghĩa là
không hai; Thành là không dối. Cổ đức có nói: “Lòng tinh thành rất tột, sẽ
được quỷ thần dẫn giúp” (46) huống chi ngôi Tam Bảo đại từ thương xót
chúng sanh cũng như con đỏ, hễ việc làm có lợi ích cho chúng sanh, lòng
tinh thành cầu Phật, Phật đâu không gia bị!
THỈNH GIA
CHÁNH VĂN:
Kính lạy đức Giáo Chủ thuyết pháp cõi Ta Bà, đức Ðại Từ Tôn tiếp dẫn cõi
Tây phương và kinh “Bất Khả Tư Nghì Phật Hộ”, Xá Lợi Phất, Văn Thù cùng
các vị Thánh trong hai cõi, sáu phương khắp cõi Phật số vi trần, quá khứ
hiện tại và vị lai, các ngôi Tam Bảo vô số tận đều chứng biết. Cúi xin rủ
lòng từ bi nhiếp thọ lời cầu của con. Con nay dối đem kiến thức cõi uế độ
để so lường tâm thanh tịnh của Phật Như Lai. Ngưỡng vâng sức đại oai thần
của ngôi Tam Bảo gia hộ cho kẻ phàm phu được thành thánh trí: khiến mỗi
lời của con đều hợp với thánh ý của Phật, đặng lưu thông xa gần, lợi ích
cho loài hàm linh, kẻ thấy, người nghe tùy hỷ, đều được vãng sanh, đồng
chứng lên quả “Tịnh Quang Vô Thượng Giác”.
CHÚ GIẢI:
Tiếng “Qui Mạng” lệ thường như tiếng ba la mật, là cách nói đảo ngược. Chữ
“Qui” có hai nghĩa:
1.
Nghĩa “qui đầu”, ý nói người đời chỉ có thân mạng là vật rất trọng
hơn hết, nay đem cả thân mạng để kính lạy, là một lòng thành kính không
hai tâm vậy.
2.
Nghĩa “qui nguyên”: Ý rằng đem thân và mạng về lạy cầu tức thâu
nhiếp cả sáu căn (47) về nơi nhứt tâm.
Ðức Thích
Ca là giáo chủ cõi Ta Bà, đức A Di Ðà là giáo chủ cõi Tây phương, vì do
thủ xướng pháp niệm Phật nên lạy đức Thích Ca trước hết. Kẻ làm tôi con mà
được phong chức hầu, còn không quên nơi gốc (48). Phàm phu muốn vào bực
Thánh há đặng phụ ơn Phật hay sao? Thuở xưa có người sắp qua đời đốt nén
hương, trước cúng dường đức Thích Ca chính là ý đây vậy.
“Giáo chủ
thuyết pháp” là: Vì với việc thuyết pháp độ sanh, trong một cõi không thể
có hai đức Phật nên gọi là giáo chủ. Nghĩa là: làm chủ một giáo pháp.
Tiếp dẫn
là vì chúng sanh nhớ niệm Phật, được Phật duỗi tay tiếp dẫn, dụ như người
đi đường, gặp người yếu đuối thì dìu đỡ, người quên đường thì chỉ dẫn. Lại
có hai nghĩa: Một là tiếp dẫn lúc sống thì giúp đỡ cho đạo tâm yên tịnh.
Hai là tiếp dẫn lúc chết thì dẫn dắt thần hồn vãng sanh.
Ðại Từ
Tôn: Như mẹ nhớ con gọi là “Từ”. Lòng từ không chi hơn gọi là “Ðại”. Chữ
“Tôn” nghĩa như chữ chủ vậy. Lẫn nhau để nói cũng có thể gọi đức Thích Ca
là Từ Tôn cõi này, đức Di Ðà là giáo chủ cõi kia. Gồm hai đức Như Lai đó
gọi là ngôi “Phật Bảo”. Kinh này nguyên tên là “Bất Khả Tư Nghì Phật Hộ
Niệm” là ngôi “Pháp bảo”. Chúng nghe kinh này như Ngài Văn Thù, Ngài Xá
Lợi Phất v.v… gọi là ngôi “Tăng bảo”.
Nói chữ
“Bảo” là lược có sáu nghĩa. 1.- Hiếm có 2.- Lìa dơ 3.- Sức quí 4.- Rỡ đẹp
5.- Rất tốt 6.- Chẳng đổi. Trong bộ “Yếu Tập” có nói đủ nghĩa này.
Suy xét
cho cùng tột hai cõi: Ta Bà và Cực Lạc, bốn góc trên dưới mười phương,
nhẫn đến cõi Phật nhiều như số vi trần khắp tất cả xứ; quá khứ, hiện tại,
vị lai và khắp tất cả thời. Trong đó có ngôi Tam Bảo ngang trùm mười
phương dọc suốt ba giới, cũng nhiều đến số vô cùng tận.
Lại Tam
Bảo cũng chia có sự, có lý, có khác, có đồng như văn sau giải rõ. Nay văn
đây nói trong ngoài, mình và người đều nương về ngôi ấy. Bực cổ đức nói:
“Sau khi Phật diệt độ phàm các hàng đệ tử có tác thuật kinh luận chi, sách
vở gì, đều phải trước kính lễ ngôi Tam Bảo”.
Bởi vì
cảnh thánh cao mầu, lời Phật kín nhiệm, mà muốn dùng trí mọn của phàm phu
để tự tiện so bàn, khác nào lấy ngao lường biển, nương ống dòm trời (49),
luống tự nhọc nhằn, phần được không mấy. Thế nên cần phải kính ngôi Tam
Bảo, thầm mong gia hộ.
Oai thần
đó, như kinh nói: “Phật lực không thể nghĩ bàn, Pháp lực không thể nghĩ
bàn, hiền thánh lực không thể nghĩ bàn”. Thế nên, nương thần lực của Tam
Bảo có thể khiến tâm ngu bỗng thành thánh trí. Miệng phàm thuật lại thầm
hiệp được tâm Phật vậy.
Xa gần là
gồm cả “Xứ” và “Thời”. Xứ là: Từ một góc cho đến cùng khắp mười phương.
Thời là: Từ một sát na cho đến tột đời vị lai, đều gọi là từ gần đến xa.
Hàm linh,
gọi tất cả loài hữu tình vì lựa không phải loài vô tình như cây đá.
“Thấy
nghe tùy hỷ” là: Hễ đối kinh đây mà được mắt thấy, hoặc tai nghe cho đến
tạm thời tùy thuận, sanh tâm hoan hỷ là đã trồng căn lành, sẽ đồng được
vãng sanh về nước kia vậy.
Tịch
Quang là cõi chơn Tịnh Ðộ của Như Lai. Người mà được sanh về nước kia rồi,
thấy Phật nghe pháp, giác ngộ được pháp “Vô Sanh Nhẫn”, nhận đặng bản tâm
của mình; vì thể và dụng của bản tâm ấy Tịch Chiếu không hai nên gọi là
“Thường Tịch Quang”.
Quả “Vô
Thượng Giác” là Phật chứng quả “viên mãn đại giác” vượt khỏi hàng nhị thừa
và các vị Bồ tát. Trên quả đây lại không quả nào cao hơn nữa nên gọi là
“vô thượng quả”, tức là chứng “Nhứt Thế Chủng Trí” (50) của Phật. Nên
trong kinh nói: “Ðều đặng bất thối chuyển nơi quả a nậu đa la tam miệu tam
Bồ Ðề”. Thế đủ biết rằng: Miễn đặng vãng sanh thời quyết định thành Phật.
Cho nên nói đồng chứng lên quả “Tịch Quang Vô Thượng”, cầu xin chư Phật
gia bị ý gồm như thế.
Từ trước
đến đây là lời “Thông tự đại ý” của một bộ kinh đã xong.
---o0o---