PHẬT THÍCH CA NÓI KINH A DI ÐÀ
NGÀI VÂN THÊ LÀM LỜI SỚ SAO
*******
QUYỂN THỨ TƯ
(tiếp theo)
C. GIAO
DẪN PHẬT NGÔN LINH ÐOẠN NGHI HOẶC
(Phân làm
2 phần)
1.
Minh Phật Ðồng Tán: Dẫn các đức Phật đồng khen.
2.
Thích Kinh Ưng Tán: Giải kinh nầy nên khen ngợi.
Minh Phật
Ðồng Tán (phân ra làm hai phần)
1. Bổn Phật
Tán: Phật Thích Ca khen.
2. Tha Phật
Tán: Các Phật đồng khen.
BỔN PHẬT
TÁN
Nầy Xá Lợi Phất!
Như ta nay đây tán thán cái lợi ích là công đức bằng số bất khả tư nghì
của Phật A Di Ðà.
Sớ: Nói văn
trên chẳng những chỉ mình ta thấy lợi ấy và nói lời nầy, mà cả đến 10
phương các đức Phật cũng đồng thấy lợi ấy và nói lời này nữa.
Chữ TÁN là
ngợi khen tột bực; chữ THÁN là quá cảm động phải thán phục!
Câu “bất khả
tư nghì” là trước kia nói ta thấy lợi ấy, nay đây lại cực lực nói cái lợi
ấy nữa là không phải nói cái lợi tầm thường đâu. Văn nghĩa gấp ba lần
chuyển lên: 1. Chẳng phải vô ích nên nói là lợi. 2. Chẳng những cái lợi
về phước, về sự; cho nên nói cái lợi công đức. 3. Chẳng những cái lợi chỉ
là công đức mà thôi, cho nên nói cái lợi công đức mà bất khả tư nghì nữa.
Do vì thế nên
đức Phật Ngài phải cực lực tán thán, chứ không phải một sự ngẫu nhiên.
Sao: “Xưng tán”
là tỏ bày khen ngợi công đức quảng đại của Phật kia để cho người ta biết
mà qui tín; hầu đặng phần tiếp độ.
Cảm Thán là quá
cảm khích phải than thở, vì nói pháp nầy cõi Nhơn Thiên ít có nên nhiều
kiếp khó gặp, là để khiến người vừa thương lẫn mừng. Hỷ là mừng rằng nay
mình đặng nghe. Bi là tủi rằng mình nghe đây rất muộn vậy!
Câu “bất khả tư
nghì” là nguyên tên kinh nầy, nghĩa nó đã thấy trong lời tựa văn trước.
Kinh tên “bất khả tư nghì” là chính rằng đức Phật A Di Ðà có đại công đức
chẳng khá nghĩ bàn đó vậy.
“Văn có ba lần
chuyển” là: Trong việc lợi gồm nhiều bực dần dần sâu rộng: 1. Cái lợi
phước sự là: Tu về phước sự tướng, là vì cái nhơn trong thế gian nên kêu
là lợi nhỏ. 2. Cái lợi công đức là vì cái nhơn xuất thế gian nên kêu là
lợi lớn. 3. Công đức chẳng nghĩ bàn là vì cái nhơn bực thượng thượng xuất
thế gian nên kêu là công đức lớn hơn trong các công đức lớn.
Số là công đức
tuy hơn phước đức và sự tướng, nhưng ở trong đấy lại còn phân ra có hơn có
kém: Có thứ công đức còn khá nghĩ bàn, có thứ công đức chẳng khá nghĩ bàn.
Nay pháp trì danh đây là công đức chẳng khá nghĩ bàn vậy, cho nên trong
lợi lớn lại nói là lợi lớn hơn!
Sớ: Với câu
“bất khả tư nghì” như trong kinh Thanh Vương nói: “Thế giới nước An Dưỡng
kia, phàm những gì của Phật pháp đều chẳng khá nghĩ bàn, với pháp thần
thông hiển hiện biến hóa chẳng khá nghĩ bàn. Nếu ai có thể tin nhận được
sự như vậy thì người ấy chẳng khá nghĩ bàn; với chỗ đặng nghiệp báo tốt
cũng chẳng khá nghĩ bàn”.
Lại nữa với
tất cả bốn món y báo, chánh báo, nhơn và quả cũng đều chẳng khá nghĩ bàn:
Không thể lấy trí thức để suy nghĩ và không thể dùng lời lẽ để bàn nói cho
tường tất được!!!
Sao: Với công
đức ấy phân làm bốn món: 1. Công đức thí pháp rộng lớn, nghĩa là đối với
thọ mạng vô lượng, quang minh vô lượng, ngôi Tam Bảo vô lượng, 37 phẩm và
các pháp môn khác nữa đều bất khả tư nghì. 2. Công đức thần thông biến
hóa khắp cùng, nghĩa là đối với nước, chim, cây, rừng đều nói pháp nhiệm
mầu; món ăn, thức mặc, đến cả việc thọ dụng đều tự nhiên sẵn có, chúng
sanh đều đủ tướng hảo, đều đủ thần thông biến hóa, cũng đều bất khả tư
nghì. 3. Công đức tín thọ do căn lành đời trước, nghĩa là đối với pháp
"nan tín" đây, những người mà hay tín thọ được là người đó đời trước đã có
tu căn lành nhẫn đến vô lượng, với người cũng bất khả tư nghì. 4. Công
đức quả báo khó hơn nghĩa là đối với hễ niệm Phật được nhứt tâm liền đặng
vãng sanh, liền đặng vào ngay hội Thượng Thiện, chứng liền bực bất thối
chuyển, rốt ráo thành quả Phật, đều vượt khỏi thường tình; cho nên đều nói
công đức chẳng khá nghĩ bàn. Như Kinh Kim Cang Bát Nhã nói: “Nghĩa kinh
nầy chẳng khá nghĩ bàn, đặng quả báo cũng chẳng khá nghĩ bàn”, thật thế.
Câu "Y, Chánh,
Nhơn, Quả": Chữ Y nghĩa là cõi Ðồng Cư tức là cõi Tịch Quang; chữ Chánh
là Ứng thân tức là Pháp thân; chữ Nhơn là bảy ngày niệm Phật thành công;
chữ Quả là một phen sanh về, đặng bực bất thối chuyển, lại cũng vượt khỏi
thường tình; cho nên đều nói “chẳng khá nghĩ bàn”.
Thuở xưa ngài
Anh Pháp sư ở đất Ðông Ðộ giảng kinh Hoa Nghiêm đã 40 lượt, nhơn khi vào
trong Tịnh Nghiệp Ðạo Tràng của ngài Xước thiền sư, thâm nhập được pháp
môn tam muội; sư than rằng: “Giận mình nhiều năm luống tìm văn sớ nhọc
thân tâm vậy, nào dè pháp niệm Phật nầy nhiệm mầu chẳng khá nghĩ bàn!”
Sớ: Xứng lý
thời tự tánh nó lìa hẳn hai cái tướng: tâm và ngôn, là nghĩa "công đức
chẳng khá nghĩ bàn".
Sao: Luận Khởi
Tín nói tâm (tánh) nầy từ xưa đến nay mãi đến bao giờ cũng vẫn ly tướng
tâm duyên, ly tướng ngôn thuyết. Thế cho nên hễ vừa manh tâm niệm là lầm,
móng ý tưởng là sai, chấp câu văn là mê, theo lời nói là mất; thế thì phải
như thế nào? Mà dù cho ngoài ngậm miệng, trong tắt máy suy nghĩ cũng là y
nhiên bị lạc về tánh vô ký: Là không nhớ không quên. Do đây mới biết công
đức kia là chẳng khá nghĩ bàn.
THA PHẬT
TÁN (phân ra làm sáu phần)
1. Ðông Phương
2. Nam Phương
3. Tây Phương
4. Bắc Phương
5. Hạ Phương
6. Thượng Phương
ÐÔNG
PHƯƠNG (phân ra làm ba phần)
1. Liệt danh
hiển quảng: Kể tên rõ rộng nhiều.
2. Hiện
tướng biểu chơn: Bày tướng lưỡi chắc thật.
3. Phát ngôn
khuyến tín: Thốt lời để Khuyến tín.
LIỆT DANH
HIỂN QUẢNG
Phương Ðông cũng
có các đức: A Sơ Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Ðại Tu Di Phật, Tu Di Quang
Phật, Diệu Âm Phật v.v... như vậy các vị Phật nhiều bằng số hằng sa.
Sớ: Dẫn lời
khen của các đức Phật thời người ta thấy rằng: Ðối với pháp môn Tịnh Ðộ
đây chính là một thành pháp rất hiệu lực vì được hàng nghìn vị Phật, vô
lượng các vị Phật khác đều riêng miệng, chung lời cùng nhau để khen ngợi
nên người ta phải tin chắc chớ không còn nghi gì nữa. Bản dịch của nhà
Ðường có đủ 10 phương, nay thiếu bốn góc là bớt văn.
Trước dẫn
phương Ðông đó là theo phương phép thông thường, mà cũng là lấy phương
Ðông để nêu trí huệ.
Sao: “Mười
phương” là: ngài Tráng Sư dịch có bốn góc, thời thành 10 phương. Nay chỉ
nói 6 phương là do phương chánh nó gồm phương góc (phụ) nên nói “bớt văn”.
Nói “theo phương
pháp thông thường” là: Trong các kinh phàm chỗ nói 10 phương thường trước
nói phương Ðông làm đầu vì phương Ðông theo bốn mùa thì nó thuộc về mùa
Xuân, vạn vật sanh trưởng nên có nghĩa như trí huệ tiến triển. Bởi trí là
như đấng tiên đạo (ông dắt đường) sáng suốt, pháp sanh ra vạn pháp thật
dụng; cho nên bắt đầu nói phương Ðông, tức như ý nghĩa rằng: ông Xá Lợi
Phất, đức Văn Thù làm bực dẫn đạo trong chúng (làm đầu trong chúng).
Sớ: Nói lên 6
phương đó là vì đức Phật Thích Ca ở phương giữa (trung ương).
Sao: Ðã nói có 6
phương là: trên, dưới và bốn phía mà sao lại không nói đến trung ương? Số
là đức Thích Ca ở thế giới Ta Bà, lấy chỗ bản sở ngài ở làm trung ương.
Ðối với chính giữa thì phía trước, phía sau, bên tả, bên hữu, cõi trên,
cõi dưới thành 6 phương.
Sớ: Phật A Sơ
Bệ dịch là Bất Ðộng vì pháp thân Phật bất động; có một thuyết khác nói:
“Vì chẳng bị hai bên nó làm lay động nên nói bất động”.
Sao: Nghĩa Pháp
thân là bất sanh, bất diệt, vô khứ vô lai; với bực Diệu Giác (quả Phật)
cũng không thêm; với kẻ vô minh (chúng sanh) cũng chẳng giảm vì lặng lẽ
thường còn, như như bất động.
“Hai bên” là bên
có, bên không vậy. Với có, nó không thể làm cho ta đắm mắc vào các cái
tướng có; với không, nó chẳng thể làm cho ta phải dính vướng cái không.
Nghĩa là không chấp đoạn, không chấp thường vì hai bên đều bất động, bởi
lẽ tuyệt đối.
Hỏi: Phương Ðông
thuộc mùa Xuân sanh trưởng muôn vật. Ðối với quẻ là quẻ Chấn mà quẻ Chấn
là động vậy. Chớ sao nói đức Phật kia hiệu là Bất Ðộng?
Ðáp: Do lẽ tức
động mà tức tịnh đó mới có được cái diệu dụng sanh trưởng vạn vật bằng
cách biến hóa vô cùng, nhưng mà cái bản thể vẫn thường vắng lặng. Vì vắng
lặng nên nói là Bất Ðộng. Kinh Hoa Nghiêm lấy phương Ðông tiêu biểu cho
trí bất động cũng là chính ý đây vậy.
Sớ: Phật Tu
Di Tướng là vì tướng của Phật tốt đẹp vô cùng như núi Tu Di.
Sao: Tu Di dịch
Diệu Cao. Núi nầy do các ngọc báu dựng thành nên gọi là Diệu, là tốt quí
nhứt. Vượt khỏi các núi nên nói là Cao, là trên cả.
Tướng hảo của
Phật do tu được trăm phước kết thành, không phước nào chẳng cụ túc; thế
gọi đó là Diệu (sang đẹp nhất). Tướng hảo của người, của trời và bực nhị
thừa, với các vị Bồ tát cũng đều không bì kịp; thế gọi là Cao.
Sớ: Thế nào
gọi là Phật Ðại Tu Di? Vì đức của Phật cao rộng, dụ như núi Tu Di lớn. Có
một thuyết khác nói: Danh của Phật lớn hơn núi Tu Di, vì tinh thần cao cả
như trong kinh Duy Ma đã nói.
Sao: Núi Tu Di
cao rộng vượt khỏi 7 lớp núi vàng (núi thất kim). Do đối núi thất kim, gọi
đó là lớn. Ðức của Phật cao rộng, không chi sánh bằng, dụ như núi Tu Di
lớn vậy. “Danh Phật” là: Kinh Duy Ma nói: “Danh của Phật đồn khắp cao xa,
vượt khỏi núi Tu Di”, nghĩa là lớn hơn núi Tu Di kia vậy. Bởi núi kia dù
quí báu nhưng chỉ bằng vật chất vô tri vô giác.
Sớ: Phật Tu
Di Quang là hào quang của Phật rộng phóng ra chiếu khắp hơn hết, cũng như
núi Tu Di vì ánh sáng phủ hết các núi vậy.
Sao: “Hào quang
sáng” có hai nghĩa: 1. Núi Tu Di do các ngọc báu kết tinh làm thành. Thể
chất của ngọc báu nó chói ra ánh sáng, cũng như thân Phật tâm rất thanh
tịnh thời trí giác sáng suốt phóng ra. 2. Núi Tu Di thể nó lớn thì tia
sáng nó cũng lớn; cũng như Phật có trí lớn thì hào quang sáng vô lượng
vậy.
Sớ: Phật Diệu
Âm là tiếng pháp tròn trịa nhiệm mầu vì Ngài thuyết pháp thích hợp cả các
căn cơ.
Sao: “Tiếng pháp
tròn mầu” là như kinh Duy Ma nói: “Ðức Phật dùng một tiếng diễn thuyết
pháp, chúng sanh tùy theo mỗi loại, mỗi trình độ đều nghe hiểu được cả”.
Lại nói: “Ðối với tiếng của chúng nhơn, tiếng của Phật là nhiệm mầu đệ
nhứt, vì là có cái tướng hảo phạm âm”.
Sớ: “Như vậy
hết thảy” là: Nhiều quá không thể nói kể cho hết nên chỉ kể nói năm vị
Phật, còn thì dùng nghĩa chữ “đẳng” là tất cả hay “vân vân..” để bao gồm
đó. VớI Hằng hà cũng nói Căng Già hà. Chữ “sa” là hột cát; để dụ số nhiều
Phật kia.
Sao: Hằng hà là
một con sông tại bên nước Tây Vức (Ấn Ðộ) bên ao Vô Nhiệt. Trên đảnh núi
Hương Sơn có ao Vô Nhiệt Não, phát nguyên chạy ra bốn con sông. Sông Hằng
nầy ở về phía Nam, rộng bốn mươi dặm; cát trôi theo dòng nước rất là nhỏ.
Phật thuyết pháp ở gần con sông kia nên phàm nói số nhiều thường lấy số
cát kia để ví dụ.
Nay nói bên
phương đông có rất nhiều vị Phật như số cát rất nhiều trong sông Hằng kia.
Nếu cứ theo kinh Pháp Hoa về lời dụ một mảy bụi làm một kiếp thì số cát
sông Hằng ấy cũng là rất ít. Nay ví số cát sông Hằng để tỏ ý thật là vô
tận, cho nên kinh Ðại Bổn nói: “Vô lượng vô số, bất khả tư nghì, vô hữu
đẳng đẳng, cả vô biên thế giới sở hữu chư Phật Như Lai đều đồng khâm khen
Phật A Di Ðà sở hữu công đức” thời số cát sông Hằng kia chưa đủ dùng để dụ
cho hết đó vậy.
Sớ: Với các
danh Phật trên đó, ngài Linh Chi nói: “Giữa các nhà Tổ xưa nay, có vị
truyền nhau không giải; cũng có ngài thích nghĩa như thế này; hoặc vì lấy
cái nhơn hoặc vì lấy cái quả, hoặc dùng về Tánh, hoặc dùng về Tướng, hoặc
thủ theo tâm từ, bi, trí, đức, hạnh và nguyện v.v... của chư Phật để giải
thích ra mỗi danh nghĩa thì cũng không ngại gì”.
Sao: “Không
giải” là vì bởi Phật đủ muôn đức tánh, không thể lấy một cái danh đức mà
giải nói cho rõ hết những đức tánh ấy, còn dịch giải thì cái tên Phật quá
dài vì nhiều chữ. “Cũng có giải” là vì bởi Phật đức dung thông vô tận nên
cũng có thể lấy một đức mà gồm thông muôn đức; thế thì riêng kể một đức
tức đủ các đức rồi.
Cho nên hễ nói
nguồn nhơn thì đã gồm biển quả; nói quả thời suốt thấu đến nhơn; vì không
lẽ có trí mà chẳng có bi; có bi mà chẳng có trí. Không có hạnh nào chẳng
do nguyện khởi; không có nguyện nào phi hạnh mà thành. Như vua Nghiêu có
nhơn, vua Thuấn có hiếu, vua Võ có kiệm, vua Thang có khoan, nghĩa là cũng
có lẫn nhau đều đủ hết cả.
Sớ: Xứng lý
thời tự tánh có trí huệ chẳng khá cùng tận là nghĩa phương Ðông có Hằng sa
Phật.
Sao: Với phương
Ðông nghĩa thấy giải văn trước. Vật có hình tướng thời có cùng tận, chớ
trí huệ thời không tột hết vì bản thể nó là vô tướng. Tìm trí huệ bên
ngoài có thể hết, tìm trí huệ trong tự tánh không thể hết được.
Nói “cát sông
Hằng” đó cũng chỉ là dụ được phần ít đấy thôi. Sở dĩ chúng nhơn đem hết cả
tâm lực tư duy, cùng nhau để so lường cũng chẳng xét lường được trí của
Phật.
HIỆN
TƯỚNG BIỂU CHƠN
Mỗi vị Phật đều
ở nước mình hiện ra tướng lưỡi rộng dài khắp trùm cõi Tam Thiên Ðại Thiên
thế giới.
Sớ: Chữ “kỳ
quốc” là nước bản sở của mỗi Phật tự ở. “Các ư kỳ quốc” là thấy mỗi vị
Phật, Phật nào cũng đều vậy cả. Bên tả, bên hữu là bề rộng. Tiền hậu là
bề dài. Cõi Tam Thiên Ðại Thiên rõ như trong luận Cu Xá nói. “Khắp trùm
cõi Tam Thiên” là cực lực nói bề rộng dài của tướng lưỡi của chư Phật.
Do vì đức
Phật đã nhiều kiếp tu khẩu nghiệp được thanh tịnh. Nếu muốn rõ nguyên do
đấy, thì xem trong kinh Hoa Nghiêm đã có nói.
Nói đoạn văn
đây là để rõ rằng với lời Phật là ắt đáng tin, khiến đoạn hết tâm nghi.
Sao: Luận Cu Xá
bài tụng nói: “Kể từ bốn đại châu, mặt nhựt, mặt nguyệt, núi Tô Mê Lô, cõi
trời Lục Dục tột đến cõi trời Phạm thiên cộng là một thế giới. Lại đủ một
nghìn lần như vậy gọi là một cõi Tiểu Thiên. Lại đủ một nghìn lần cõi Tiểu
Thiên như vậy mới gọi là một cõi Trung Thiên. Lại một nghìn lần cõi Trung
Thiên như vậy mới gọi là một cõi Ðại Thiên”. Cả cõi Ðại Thiên ấy đều chung
một số kiếp thành, trụ, hoại, không.
Nay giải nghĩa
bốn châu lớn, hai vừng nhựt luân, nguyệt luân, một núi Tu di, từ dưới Ðịa
ngục, đến cõi trời Lục dục; từ cõi trời Lục dục đến cõi trời Phạm thiên,
ngang từ trời Sắc giới đây, gọi là một thế giới. Như thế; đếm làm một, đếm
đến một ngàn gọi là một cõi Tiểu Thiên. Lại lấy cõi Tiểu Thiên làm con số
một, cũng như đếm là một, như thế đếm đến số nghìn kêu là một cõi Trung
Thiên.
Lại lấy cõi
Trung Thiên đếm làm con số một, cứ như thế mỗi mỗi đếm chồng chất cho đến
số nghìn, kêu là một cõi Ðại Thiên. Do gấp ba lần nói số nghìn, cho nên
nói Tam Thiên Ðại Thiên; kỳ thật một Ðại Thiên mà thôi. Một thế giới Ðại
Thiên, tức trong kinh nói một cõi của một vị Phật giáo hóa chúng sanh.
Phật A Súc Bệ
nhẫn đến hằng sa các đức Phật kia, mỗi vị làm chủ trong một cõi đại thiên
thế giới ấy.
Nay nói các vị
Phật, mỗi ngài đều ở trong cõi nước của mình phát ra tướng lưỡi rộng dài
phủ trùm trong cõi ấy không chỗ nào mà chẳng khắp.
“Khẩu nghiệp
nhiều kiếp thanh tịnh” là: Với điều nói năng thì không dùng lời nói vọng
ngữ, lời nói thêu dệt, lời nói hung dữ, và lời nói hai lưỡI, thường dùng
lời chơn thật, lời ngay thẳng, lời nhu nhuyễn và lời hòa hiệp. Mà nói
nhiều kiếp đấy là: Trong kinh nói lưỡi của phàm phu có dài quá lắm là chỉ
tới chót mũi, là nêu cái tướng ba đời không nói vọng; còn Phật là vô lượng
kiếp lại đây từng không nói vọng, đã từ lâu đời chứa nhiều công đức của
lời chơn thật nên mới cảm được cái tướng lưỡi dài tốt như vậy.
Muốn rõ nguyên
do đấy thì kinh Hoa Nghiêm phẩm Ly Thế Gian nói: Vị Bồ Tát có 10 thứ
lưỡi, chỗ gọi rằng: Lưỡi mở bày diễn nói cả hạnh nghiệp của vô tận chúng
sanh; lưỡi mở bày diễn nói cả pháp môn nhiều đến vô cùng tận; lưỡi khen
ngợi các đức Phật đều có công đức nhiều đến số vô tận nhẫn đến lưỡi nói
pháp để ngăn dẹp tất cả các loại ma, chúng ngoại đạo, dứt hết sanh tử,
phiền não khiến chúng sanh đến cõi Niết Bàn; ấy là 10 thứ lưỡi. Vị Bồ Tát
thành tựu 10 pháp nầy mới được tướng lưỡi vô thượng của Như Lai, phủ khắp
các cõi nước. Cho nên nói rõ nguyên do Phật được tướng lưỡi như thế thì
chẳng những chỉ một nhơn.
Câu “ắt đặng
tin” ấy là tướng lưỡi của phàm phu không hơn ba tấc. Người xưa nói: “Khua
ba tấc lưỡi thời chê, khen, yểm, khoe theo ý riêng của mình, chưa đáng tin
nổi”. Còn Phật đủ tướng lưỡi rộng dài như thế đâu có dối ư? Nay đây với
lời của 6 phương Phật khen ngợi Phật A Di Ðà còn nghi không tin thời không
có lẽ đó. Nếu không tin là người không có duyên với Phật!
Sớ: Lại nữa
Bồ Tát trong ngôi Thập Hạnh còn có tướng lưỡi rộng dài đã hơn với lượng
trùm đại thiên thế giới đây; nay cũng sơ lược mà nói thế thôi.
Sao: Tướng lưỡi
của Bồ Tát là: Kinh Hoa Nghiêm nói bực Thập Hạnh Bồ Tát thành tựu 10 món
vô tận tạng nên khi Bồ Tát thuyết pháp dùng tướng lưỡi rộng dài nói ra
tiếng tăm nhiệm mầu khắp đầy 10 phương tất cả thế giới.
Nói “10 phương
tất cả” thời chẳng những một thế giới đại thiên mà thôi. Bồ Tát còn thế
huống chi đức Như Lai!
Văn đây chỉ nói
“đều ở trong bổn quốc của mỗi đức Phật” cho nên nói rằng là sơ lược. Thật
ra thì Phật khen cõi tịnh độ mà khắp cả 10 phương tất cả thế giới không vị
nào mà chẳng khen.
Sớ: Ngài Từ
Ân nói: “Tướng lưỡi của Phật chứng việc nhỏ thời lưỡi nó phủ cả cái mặt
cho đến mé tóc”; nay nói phủ cả đại thiên thế giới là chứng sự lớn, tức là
"đại sự nhơn duyên".
Lại nói: “Bồ
Tát đặng tướng lưỡi phủ cả mặt, cho nên Bồ Tát chỉ nói một lời không hai
vì đều là lời chơn thật” thời biết tướng lưỡi phủ mặt đã không nói vọng,
huống lưỡi phủ khắp cõi Ðại Thiên ư?
Sao: Tướng lưỡi
lớn nhỏ là do Phật chứng đặng cái pháp sắc thân tam muội, sáu căn đều được
tự tại, giải thoát giữa cảnh sắc 6 trần nên chứng việc nhỏ, chứng việc
lớn, đều theo ý ngài biểu hiện ra. Nói “việc lớn” ấy là kinh Pháp Hoa nói:
“Phật vì một việc nhơn duyên lớn nên mới xuất hiện ra đời, dạy bảo chúng
sanh đều được vào bực Phật”.
Nay sáu phương
chư Phật khen cõi Tịnh Ðộ bằng cách hiện tướng lưỡi như thế đấy thời biết
pháp môn Tịnh Ðộ việc lớn đồng với kinh Pháp Hoa. Nếu không phải việc lớn
thì theo lối thường người ta nói: “Cắt cổ gà đâu phải dùng đến con dao
giết trâu” (12).
Lại câu “Bồ Tát
lưỡi phủ cả mặt” đấy là nói bực thua, sánh đó để biết bực hơn, là một biện
chứng pháp triệt để để khuyên người tin chắc.
Sớ: Lại với
10 phương đấy là nói theo bề ngang; bằng luận theo bề dọc thì thông đồng
đến 3 đời, không vị Phật nào mà chẳng khen ngợi.
Sao: Lấy 10
phương để so 3 đời, thời trước từ Phật Ca Diếp nhẫn đến quá khứ không
lường các vị Phật; với sau, từ Phật Di Lặc nhẫn đến đời vị lai không lường
các vị Phật, ắt cũng vẫn hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ khắp 3 đời vậy.
Các vị Phật tướng đã đồng thời tâm cũng đồng, trí cũng đồng và nguyện cũng
đồng. Ðã sáu phương Phật đều khen ngợi kinh nầy thời biết ba đời các vị
Phật cũng ắt khen ngợi kinh này như sáu phương Phật kia vậy.
Chính chỗ gọi
rằng nói và khen không hở dứt đối với kinh nầy phải vậy.
Sớ: Xứng lý
thời tự tánh khắp pháp giới là nghĩa “tướng lưỡi rộng dài”.
Sao: Bực cổ đức
nói: “Tiếng nước suối tức là tướng lưỡi rộng dài”. Thế thời với tướng
lưỡi rộng dài ấy, chẳng những chỉ các vị Phật có thôi mà tất cả chúng sanh
cũng đều có, tức là muôn hình vạn tướng cũng đều có cả; cho nên nói loài
hữu tình cùng vô tình cũng chung thành một cái lưỡi. Lưỡi tức là cả pháp
giới; cả pháp giới tức là một cái lưỡi. Nếu nói “phủ khắp” đã thành hai
cái!
PHÁT NGÔN
KHUYẾN TÍN
Nói lời thành
thật: “Các ông và chúng sanh phải tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công
Ðức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy”.
Sớ: “Nói lời
thành thật” là cái lời đáng tin, do nơi đầu của tướng lưỡi rộng dài ấy nói
ra lời thành thật. Nghĩa là đối với kinh Xưng Tán Bất khả Tư Nghì Công Ðức
Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này, các ông nên tin chắc, chớ đem lòng
nghi ngờ. Nghĩa chữ “tin” giải rõ ở văn sau.
Sao: “Lời đáng
nên tin” là: Do lời thành thời chắc thiệt không dối thiệt thời chín xét
không sai; chỗ gọi rằng như con sư tử hống, lời nói vô úy, nghìn vị thánh
ra đời không thể đổi, muôn đời giữ đó làm khuôn mẫu.
Câu Xưng Tán Bất
Khả Tư Nghì Công Ðức, luôn sau 16 chữ là nguyên tên kinh này vậy. Bản dịch
nhà Ðường chỉ nói: Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ Kinh là muốn bớt văn
cho dễ. Do vì câu Bất Khả Tư Nghì Công Ðức nó bị gồm trong hai chữ Tịnh
Ðộ. Bốn chữ "Bất Khả Tư Nghì" đây, với văn trên kia là nghĩa khen Phật,
với văn đây lại là nghĩa khen kinh; nghĩa kia với đây như một nên không
giải lại nữa.
Thế nào là “hộ
niệm”? Vì những người niệm Phật, nhờ sức Phật bảo hộ khiến kia được an ổn,
không các việc chướng nạn. Tâm Phật nhớ tưởng khiến người kia tinh tấn
mãi, không hề lui sụt vậy.
Trong Quán Kinh
nói với chúng sanh niệm Phật, ngài thâu rước không bỏ. Kinh lại nói:
“Những người niệm Phật được Phật A Di Ðà thường ở trước đầu người kia”.
Lại trong 10 món lợi ích nói: “Những người niệm Phật, Phật A Di Ðà thường
phóng hào quang sáng để tiếp rước người đó”.
Ðây thì đức Bổn
Sư hộ niệm mà mười phương các đức Phật kia cũng đồng hộ niệm người đấy;
phải biết người xưa niệm Phật thời được Phật hộ niệm cho; cảm ứng tự nhiên
chẳng khá dối vậy.
Sớ: Lại bực
Bát Ðịa Bồ Tát mới nhờ Phật hộ niệm; cho nên biết người vãng sanh địa vị
chẳng phải thấp hèn.
Sao: “Bực Bát
Ðịa được Phật hộ” là: Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bực Bát Ðịa Bồ Tát thường được
đức Như Lai ngài hộ niệm”; nay kinh này nói: “Người niệm Phật được Phật
hộ niệm”. Thế là chóng lên Bực Bát Ðịa, cho nên nói “chẳng phải hèn thấp”.
Sớ: Các đức
Phật dạy bảo chúng sanh, xưa có hai thuyết: 1. Chuyển dẫn; 2. Ðồng thời.
Nay gồm dùng cả hai thuyết.
Sao: “Chuyển
dẫn” là: Ông Từ Ân nói: Với lời nói của chư Phật ở 6 phương rao bảo trong
các nước của các Phật, đức Thích Ca lại đem lời ấy về thuật lại để chứng
lời nói của ngài.
Ông Linh Chi
nói: “Khi đức Thích Ca nói Kinh nầy, sáu phương các đức Phật cũng đồng
thời khen ngợi”.
“Nay gồm dùng
đó” là: Pháp môn quảng đại rất thiết yếu nầy các đức Phật khi bình thời ắt
đã thường khen, mà chính khi đức Phật Thích Ca đang nói kinh nầy thì đồng
thời 10 phương các đức Phật đều khen, cũng không ngại gì?
Càng rõ kinh này
chính là pháp môn Phổ Nhãn (khắp soi)! Cùng cả pháp giới; một đức Phật
nói, tức tất cả các đức Phật đồng nói.
Sớ: Xứng lý
thời tự tánh không biến đổi là nghĩa “thành thật”; tự tánh không ly là
nghĩa “hộ niệm”.
Sao: Lời nói
thuần là chơn, tuyệt hẳn vọng, dù muôn kiếp vẫn như vậy.
Nói rằng thành
thật chi nữa chẳng hơn nơi đây; tức nay đây một phen ngó, một phen nghe,
một khi nói, một khi làm, không một cái nào mà không thành thật. Suốt xưa,
suốt nay thường hộ, thường niệm, đi đứng, ngồi, nằm chẳng lìa cái ấy (tự
tánh), đâu đặng với lời thành thật của Phật mà không tin. Với Phật hộ ta
mà ta riêng bỏ? Ôi! Tại sao mình gạt mình, mình dối mình, mình tự trốn,
mình tự đi!?