PHẬT THÍCH CA NÓI KINH A DI ÐÀ
NGÀI VÂN THÊ LÀM LỜI SỚ SAO
---o0o---
QUYỂN THỨ
HAI
Ðất Cổ Hàng chùa Vân Thê Sa Môn Chu Hoằng
thuật lại.
Tổng Thích Danh Ðề (phân ra làm hai phần)
1. Ðề nghĩa: nghĩa của kinh này.
2. Dịch nhơn: người dịch ra chữ Tàu.
1. Ðề Nghĩa:
Như nghĩa tám môn trước đã kể
bày, được biết đại ý trong một kinh rồi. Bây giờ muốn giải thích lối văn,
trước phải nói tổng đề, làm cho mạch văn có lề liếp; nên kế đây tổng thích
danh đề.
PHẬT THUYẾT A DI ÐÀ KINH
Sớ: Ðề nghĩa có bốn: 1. Phật
năng thuyết; 2. Chính đương thuyết; 3. Phật bị thuyết; 4. Tổng kết tên ai
thuyết.
Nghĩa là đức Phật Thích Ca Mâu
Ni ở cõi này nói kinh này kể y báo, chánh báo trang nghiêm, tín, nguyện
được vãng sanh về nước Phật A Di Ðà ở cõi kia. Tổng quát đại ý, lần lượt
sẽ chia ra giải như sau đây:
Sao: "Tổng quát" là: Trước lược nêu toàn
văn, để cho mạch văn thông suốt, ý nghĩa đầy đủ, sau tuần tự mỗi mỗi giải
riêng. Ðầu đề chỉ nói tên Phật, mà sau đây lại nói cả y báo, chánh báo
v.v... là gì? Trong Quán kinh dạy: “Nói Phật là đủ, cho nên nói Phật là
gồm thâu tất cả”.
Sớ: Lần lượt chia ra giải: Chữ "Phật" nói
đủ theo tiếng Phạn là: Phật Ðà (bực đã giác ngộ), Tàu dịch là Giác Giả vì
đủ ba nghĩa Giác; lại dịch: Trí Giả. Bởi vì không chỗ nào mà ngài chẳng
biết. Lại chữ Phật là một hiệu trong mười hiệu (từ Như Lai, Ứng Cúng
v.v... cho đến Thế Tôn). Lại trong kinh Thập Ðịa nói: “Chữ Phật có
mười nghĩa”. Tổ Thiên Thai Trí Giả nói: “Chữ Phật có sáu nghĩa”; còn kinh
Hoa Nghiêm nói: “Phật có đủ mười thân”. Cho nên nói đức Phật là Trời trên
các hàng trời; Thánh trên các bực Thánh. Phàm chỗ nào nói riêng một chữ
Phật tức là chỉ ngay đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni vậy.
Sao: Chữ Phạn: nghĩa trong sạch. Ðối với
chữ Tàu nói Phạm là nghĩa văn chất đều có đủ.
Chữ "Cụ" là Cụ Túc. Nói đủ theo tiếng Phạn
(Brahma) thì nói Phật đà (Buddha). Nay không nói chữ "Ðà" là bớt văn. Nếu
dịch theo tiếng nước Tàu thì ta đọc là bực Giác, vì đối với chúng sanh mê
mà nói ngài là Giác.Song Giác có ba nghĩa: 1. Tự giác khác với phàm phu.
2. Giác tha khác với Nhị thừa. 3. Giác mãn khác với Bồ tát.
Ba giác đầy đủ nên nói Ngài là Tự, Tha,
Giác mãn.
Lại ly vọng tâm là Tự Giác; ly sắc trần là
Giác Tha; ly cả hai: vọng tâm, sắc trần, gọi là Giác Mãn cũng là nghĩa tam
giác. Lại nói là Trí Giả; Trí tức là nghĩa Giác.
Câu "không chỗ nào mà ngài chẳng biết" là
trong Luận Trí Ðộ nói: “Ngài biết tất cả chúng sanh và chẳng phải số
chúng sanh, thường và vô thường (1), vì cái trí của Ngài không chỗ nào mà
Ngài chẳng biết, nên xưng tụng Ngài là ông "Ðắc Nhứt Thế chủng trí", tức
là nghĩa Giác mãn....
Câu "Mười hiệu" là đức Thế Tôn đủ cả muôn
đức, không thể nói cho hết. Nay chỉ lược nói từ hiệu Như Lai cho đến hiệu
Phật cộng có mười hiệu, mà Phật chính là một hiệu trong mười hiệu. Vì có
đủ mười đức đây, là chỗ tôn chủ của cả thế gian và xuất thế gian nên gọi
là Thế tôn.
Nói Phật có mười nghĩa là: Ðủ hai trí căn
bản trí (2) và hậu đắc trí (3), đoạn hai chướng phiền não chướng (4) và sở
tri chướng (5). Giác chơn đế (6) và tục đế (7), đặng hai lợi: tự lợi và
lợi tha. Và hai ví dụ: Mộng giác và Hoa khai, hiệp làm mười nghĩa.
Chữ "Phật" có sáu nghĩa: Ðầu tiên là lý
tức Phật (nói tất cả chúng sanh sẵn có Phật tánh), rốt sau là cứu cánh tức
Phật (nói quả vị Diệu Giác). Số là ban đầu thì toàn giác, bị toàn mê
chặng giữa. Giác mà chưa thiệt Giác, rốt sau mới thiệt hoàn toàn không chỗ
nào mà không giác. Nay nói chữ Phật đây là chỉ ngay ông Phật cứu cánh toàn
giác vậy (8).
Phật có mười thân là: Thứ nhứt Chánh Giác
Phật đến thứ mười Tùy Nhạo Phật, rõ đủ trong phẩm Ly thế gian. Mười thân
Phật đây, duy trong kinh Hoa Nghiêm có nói (9).
Song tóm chỗ đại yếu, dầu mấy thân cũng
chẳng ra ngoài nghĩa Giác Mãn, cho nên nói mười thân được viên mãn, ngôi
Chánh Giác mới thành tựu, gọi là Viên Mãn Phật.
"Trời trên các hàng trời" là: Trời có bốn
cảnh giới: 1. Trời thế gian: Các vị vua trong nước. 2. Trời sanh Thiên:
Các Trời trong ba cõi: Dục giới, Sắc giới, và Vô Sắc giới. 3. Trời Tịnh
Thiên: Các thánh Tứ quả: Bích Chi Phật. 4. Trời Nghĩa Thiên: Các thánh
Thập Trụ Bồ tát.
Với bốn trời nói trên đây, Phật đều siêu
vượt hơn cả nên nói Phật là Trời trên các hàng Trời.
“Thánh trên các hàng Thánh” là: Thanh Văn,
Duyên Giác và Bồ Tát, tuy đã chứng quả Thánh mà chưa hơn. Duy có Phật là
quả cực điểm nên nói: Phật và Thánh trên các hàng Thánh.
Tức đức Thích Ca là: Với đời quá khứ, đời
vị lai, hãy nêu lên ông Phật chi? Tức đức Thích Ca hiện ngồi chốn đạo
tràng nên chỉ xưng một mình ngài vì trong một cõi không hai vị Phật, dụ
như: Ðế vương triều đại thời xưa, phải xưng gọi có một quốc hiệu, còn với
nhà cầm quyền thời nay thì chỉ xưng gọi ngay là đấng Chí Tôn, cũng bởi cớ
trong một nước không có hai vua, hay hai ông quốc chủ.
Như vậy thì đủ hiểu: Phàm chỗ nào nói một
chữ Phật tức chỉ ngay cho thái tử Tất Ðạt Ða tu thành Phật hiệu Thích Ca
là Phật thứ tư trong Hiền kiếp (kiếp hiện tại) này vậy.
Sớ: Chữ (Thuyết) là đẹp, là vui đẹp trong
lòng, vì bốn biện tài tuyên diễn từ 12 bộ kinh luôn đến bốn món Tất Ðàn
đều là nghĩa thuyết cả.
Sao: “Vui đẹp trong lòng” là gì? Bản
nguyện độ sanh của Phật nhằm cơ thuyết pháp vui đẹp trong lòng. Như trong
kinh Ðại Bổn nói: “Ðức Thế Tôn muốn thuyết kinh này, trước khi nói, các
căn đã ửng đỏ, gương mặt vui tươi khác thường”. Huống chi nay pháp trì
danh niệm Phật đây đã nhằm cơ mà thuyết, sự vui thích biết chừng nào.
Bốn pháp biện tài là: Nghĩa biện, Pháp
biện, Từ biện và Nhạo thuyết biện tài. Cả 4 món đều không ngần ngại nên
nói là thuyết.
Bộ Trung Luận nói: “Các đức Phật y hai Ðế
(Chơn đế và Tục đế) để vì chúng sanh thuyết pháp”. Có trí: Từ (lời) không
ngại, vì lấy trí thế gian để nói về sự sai biệt, có trí nhạo thuyết (thích
nói) không ngại vì lấy trí đệ nhứt nghĩa để nói về sự hay khéo.
Trong đây không nói hai điều: Nghĩa biện
và Pháp biện, là vì nói hai pháp sau này gồm luôn cả hai pháp trước. Bởi
Từ biện và Nhạo thuyết biện đã gồm nhiếp Nghĩa biện và Pháp biện rồi.
Mười hai bộ kinh (phần giáo) v.v... là
pháp bị thuyết.
Chữ "Tất Ðàn" hiệp cả tiếng Hoa và tiếng
Phạm là Biến Thí. Ðã dùng bốn môn: Thế giới; Vị Nhơn; Ðối Trị; và Ðệ Nhứt
Nghĩa làm bốn điều lợi ích chúng sanh là: Hoan hỉ, sanh thiện, diệt ác và
vào Ðạo.
Mười hai bộ kinh với tất cả các pháp, tùy trường hợp mà thuyết có vô lượng
phương tiện. Song tóm tắt cũng chẳng ngoài: thế giới, luôn bốn thuyết Tất
Ðàn làm cho người đặng hoan hỉ... bốn điều lợi ích mà thôi. Xem cơ trao
pháp, văn kia nhiều và rộng, lược nói không hết.
Sớ: Phật thuyết là: Vì lựa riêng giữa năm
người thuyết.
Sao: Năm người là Phật (1), Bồ Tát (2),
Trời (3), Tiên (4), hóa nhơn (5). Năm người đây đều thuyết kinh được.
Nhưng nay nói rõ kinh nầy là vị chí thánh lập lời, chính lời kim khẩu của
Ngài thuyết, chẳng đồng với các hàng Bồ Tát còn ở khoản tu nhơn. Trời
thuộc loại phàm, Tiên xen với ngoại đạo, hóa nhơn chẳng phải thiệt người.
Dụ như lời chiếu của vị thiên tử đâu có
đồng với hàng bá quan tể tướng cùng lời các ông vua trong các nước nho
nhỏ.
Sớ: A Di Ðà là nêu rõ đức Phật ở cõi kia.
Tiếng Phạm "A" dịch "Vô". Tiếng Phạm Di Ðà dịch "lượng". Nghĩa là, công
đức của Ngài không thể cùng tột. Cho nên nói rằng: Vô Lượng. Như trong
kinh nói: “Thọ mạng vô lượng, quang minh vô lượng” là trong những vô
lượng, chỉ nói vài việc, gồm các công đức kia vậy.
Sao: Vô lượng có hai nghĩa:
1. Ðông nhiều không có số
lượng.
2. Rộng lớn không có hạn lượng.
Lại có hai nghĩa:
a. Vô lượng là một trong 10 con số lớn
(kinh Hoa Nghiêm có đủ).
b. Vô lượng là lại vô cùng tận.
Chỉ nói có vài việc là: Với vô lượng chẳng
những thọ mạng và quang minh mà thôi. Rõ như trong văn sau có biện.
Sớ: Chữ kinh. Tiếng Phạm nói Sutra (Tu Ða
La), Tàu dịch: “Khế kinh”, có Thông và Biệt hai nghĩa. Chữ Khế cũng có hai
nghĩa. Chữ Kinh lại có nhiều nghĩa. Kinh tuy có nhiều nghĩa, nhưng chẳng
ngoài bốn nghĩa là: Quán, Nhiếp, Thường và Pháp.
Sao: Thông, Biệt là: Những giáo pháp bị
Phật thuyết chung kêu là: Tu Ða La, đó là nghĩa Thông. Nếu chia ra thời:
Kinh là Tu Ða La, Luật là Tỳ Nại Da, Luận là A Tỳ Ðàm; đó là nghĩa
Biệt.
Chữ "Khế", có hai nghĩa là: 1. Khế lý: Lời
nói hợp với đạo lý. 2. Khế cơ: Giáo pháp hợp với căn cơ. Nay bỏ chữ Khế
chỉ nói chữ Kinh là bớt văn vậy.
Chữ "Kinh", lại có nhiều nghĩa là: Kinh
Hoa Nghiêm, lời sớ dẫn tạp tâm có năm nghĩa: 1. Xuất sanh; 2. Hiển thị;
3. Dũng tuyền; 4. Thằng mặc; 5. Kiết man.
Luận Phật Ðịa nói có 2 nghĩa: 1. Quán
xuyến; 2. Nhiếp trì. Phương đây (Tàu) có bốn nghĩa: 1. Thường; 2.
Pháp; 3. Cảnh; 4. Ðiển, cho nên nói có nhiều nghĩa.
Câu “Không ngoài bốn nghĩa” là chỉ cho bốn
chữ Quán, Nhiếp, Thường và Pháp. Bởi vì chữ kinh, bên Tây Vức dịch là
Tuyến (sợi chỉ). Tuyến có nghĩa là Quán Trì. Quán là xâu xỏ, những giáo
lý bị thuyết. Trì là: Thâu giữ những chúng sanh được giáo hóa khỏi đọa.
Hai nghĩa đây gồm đủ năm nghĩa: Xuất sanh, Hiển thị v.v... nói trên.
Nhưng kinh điển phương này (Tàu) cũng kêu là Kinh. Kinh là nghĩa Tuyến.
Song nước Tàu không quý chữ Tuyến nên chỉ nhận chữ Kinh lại thêm chữ Khế.
Thường: Xưa cho vậy là đúng đắn. Lại chữ "Thường" là: Xưa nay không đổi.
Chữ Pháp là: Gần xa đồng tôn. Chữ "Thường" là: Lâu mà vẫn tuân hành theo,
có nghĩa chung nói, tức là Cảnh (con đường).
Chữ "Pháp" là: Pháp tắc chơn chánh có nghĩa nhứt định, tức kêu là Ðiển
(khuôn mẫu). Cũng có hai nghĩa: Thường và Pháp đây gồm đủ hết bốn nghĩa
kia (Thường, Pháp, Cảnh, Ðiển). Thế thời cõi kia (Ấn Ðộ) nói Quán và Nhiếp
cũng như phương này (Tàu) gọi Thường và Pháp; hiệp chung lại mà nói: “Ở
trong bốn chữ, đều đủ nghĩa Kinh vậy”.
Sớ: Lại chữ "kinh" còn có hai nghĩa Thông
và Biệt. Một chữ "Kinh" gọi là Thông (chung). Còn năm chữ "Phật Thuyết A
Di Ðà" gọi là Biệt (riêng). Chí như Giáo, Hành và Lý, Thông và Biệt cũng
thế. Ba chữ đây (Giáo, Hành, Lý) tức phối với ba đức (Pháp thân, Bát Nhã,
Giải thoát) viên dung cụ túc. Như Ngài Thiên Thai nói: “Vừa nghe đầu đề
tên kinh, công đức đã vô lượng”. Bằng phối với ba đại, thời Phật là thể
đại, Vô Lượng Thọ là tướng đại, Vô Lượng Quang là dụng đại như trong phần
giáo đã nói.
Sao: Giáo, Hành, Lý là gốc do nơi Lý mà
lập Giáo; y nơi Giáo để tu hành, nhờ tu hành mà rõ được Lý. Các kinh đều
đủ cả ba: Giáo, Hành, Lý, nên gọi là "thông" (chung). Bằng chuyên chỉ
riêng kinh này thì hai chữ: "Phật thuyết” là Giáo. Bốn chữ "chấp trì danh
hiệu" là Hành. Ba chữ: "A Di Ðà" là Lý. Theo đây khác với trên nên gọi
kinh này là "Biệt" (riêng).
Phối với ba đức là. 1. Lý tức là Pháp
thân; 2. Giáo tức là Bát Nhã; 3. Hành tức là Giải Thoát.
Lại Lý thông cả Hành và Giáo thì Pháp thân
tức là Bát Nhã và Giải Thoát, cho đến hành thông cả Lý và Giáo, hay theo
Giáo thông cả Lý và Hành chẳng hạn. Nói một tức là ba; so trên nên biết.
Thể, Tướng và Dụng: Chữ Thể là Tổng Thể,
nghĩa là nói Phật thì đủ biết, cho nên lấy chữ "Phật" làm thể.
Chữ Tướng là trong Thể sẵn đủ các Tướng.
Thể vô tận, Tướng cũng vô tận, cho nên lấy ba chữ "Vô Lượng Thọ" làm
Tướng.
Chữ Dụng là trong Thể phát sanh Dụng. Thể
chiếu tới đâu Dụng cũng chiếu tới đó, cho nên lấy ba chữ "Vô Lượng Quang"
làm Dụng, hoặc Thông hoặc Biệt cũng so như trên.
Sớ: Các kinh lập danh đề, phần nhiều lấy
cả ba món Nhân, Pháp và Dụ. Hoặc có kinh dùng một, hoặc có kinh dùng hai.
Kinh này riêng dùng một Nhân (người). Người lại có hai, vì người chứng quả
trong hai cõi, thiệt ra thời cả ba: Nhân, Pháp và Dụ đều dung thông.
Sao: Một hai là như kinh "Ðại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm" đầy đủ cả ba: Nhân, Pháp và Dụ. Kinh Ðại Phương Tiện Phật
Báo Ân có Nhân và Pháp, không Dụ. Kinh "Diệu Pháp Liên Hoa" có Pháp, Dụ mà
không Nhân. Kinh "Bồ Tát Anh Lạc" có Nhân, Dụ mà không Pháp. Kinh “Ðại Bát
Nhã" có Pháp mà không Nhân, Dụ. Kinh "Phạm Võng" có Dụ mà không Nhân và
Pháp. Nay kinh này đây chỉ có Nhân mà không Pháp và Dụ. Các kinh khác đều
so theo đây, sẽ rõ.
Người chứng quả trong hai cõi là Bồ Tát
tại Nhân, Như Lai tại Quả, nên Phật gọi là quả nhân. Nay đức Phật Thích Ca
ở phương này (Ta Bà) giới thiệu Phật A Di Ðà ở nước kia (Cực Lạc).
“Dung thông” là vì nói một tức ba. Như
kinh Di Ðà này mặc dầu riêng thuộc một nhân. Nhưng có Nhân mới nói Pháp,
có Nhân mới lập Dụ. Tuy rằng lời thiên, nhưng nghĩa viên, chung đồng lẫn
suốt lý cố nhiên như vậy.
Sớ: Nguyên kinh nầy tên là "Xưng Tán Bất
Khả Tư Nghì Công Ðức Nhứt Thế Chư Phật Sở Hộ Niệm". Nay, ngài La Thập cải
đính lại có hai nghĩa: 1. Phật nhiếp vô tận nghĩa cố. 2. Bỉ Phật nhơn sở
nhạo văn cố.
Sao: “Nhiếp vô tận” là như văn trước nói
Phật là đủ, thời tất cả công đức đều từ Phật mà ra, vì Phật là bất khả tư
nghì. Lại Di Ðà là vạn đức hồng danh, tất cả chúng sanh trong mười phương
ba đời đều ưa thích. Trên từ chư Phật đều tán thán, dưới đến ngạ quỉ súc
sanh cũng đều ham mộ quy y; chính là bất tư nghì công đức.
Sớ: Sớ sao là gì? Lời sớ để giải nghĩa
kinh; lời sao để giải lại nghĩa của lời sớ cho dễ hiểu.
Sao: "Sớ": Xưa nói có hai nghĩa: Riêng bày
và ghi nhớ. Nay nói nghĩa kinh đây được rõ bày mà khuất ẩn, ghi nhớ mà
chẳng sót và quên. “Sao" xưa nói có hai: Tóm lấy và biên chép. Tóm lấy
thời riêng bày chỗ thiết yếu. Biên chép tức ghi nhớ cho rõ ràng. Chữ "ký"
là trông mong. Phàm nghĩa kinh khó hiểu, nhờ lời sớ giải thông. Lời sớ khó
hiểu, nhờ lời sao nói ra rành mạch, trông mong mỗi người hiểu rõ nghĩa
kinh!
Sớ: Xứng lý thời tự tánh Giác là nghĩa chữ
"Phật". Tự tánh giác vô lượng là nghĩa "A Di Ðà". Tự Bổn, Thỉ đều giác là
nghĩa hai người chứng quả trong hai cõi. Tự tánh thể giác khắp soi là
nghĩa thuyết kinh, sau cũng lệ theo đây.
Sao: Xứng lý là do tức sự tức lý, chỗ gọi
rằng gồm thâu muôn loài, tức là nhứt tâm, thời y báo, chánh báo đâu chẳng
phải tự tánh? Lại tức lý là sự y nơi lý mà thành. Như kinh "Tịnh Danh"
nói: "Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh". Nay kinh này nói: “Nhứt tâm bất
loạn” tức tự tánh Di Ðà, duy tâm Tịnh Ðộ, là tông chỉ trong bộ kinh này,
nói tóm hiệp với lý, nên gọi là xứng lý.
Chữ Giác là nghĩa tổng. Trong thể chữ Giác
rộng lớn thênh thang vô cùng tận là nghĩa biết Bổn, Thỉ có hai nghĩa. Luận
theo trước sau mà nói: Thời Phật A Di Ðà là cổ Phật, đức Thích Ca là Phật
mới thành, thế thì Phật kia là Bổn, Phật đây là Thỉ; tức tự tánh bản lai
sẵn có Phật là "Bổn', bị vô minh che lấp nay mới phá hoặc chứng trí là
'Thỉ'. Luận về nhơn quả mà nói: Thời Phật đây (Thích Ca) dạy bảo vãng
sanh mới được thấy Phật A Di Ðà, là đây Bổn kia Thỉ, tức là tự tánh sẵn có
trí thành Phật là Bổn. Y nơi Bổn trí mà tìm Phật trí mới đặng thành Phật
là Bổn, Thỉ lẫn Thông, thường giác bất muội, sáng cả trời, chói soi cả
đất, xưa suốt nay, thường nói kinh trăm ngàn muôn ức pháp hội, như
vậy.
Hỏi: Lời sớ sao kinh này chính là phát huy
công đức trì danh, khắp khuyên mỗi người cầu sanh về cõi kia, thế sao cứ
mỗi mỗi tiêu qui về tự tánh, thế là phương pháp trì danh trở thành lời cực
tắc (quá cao), rõ ràng Tịnh Ðộ là tâm, hà tất bỏ đây nguyện về kia làm
gì?
Ðáp: Ðây chính là trùm cả hai căn, phá cả
hai hoặc như trong bài tự trước đã rõ. Bởi do độn căn chấp nơi sự tướng mà
cho là đủ. Xem kinh này khiến cho họ biết 'sự ' còn có 'lý', chớ chấp sự
mà bỏ lý. Người lợi căn chuộng lý tánh mà chấp không, xem kinh này khiến
cho họ biết lý còn ở trong sự, chớ nên bỏ sự chỉ tìm lý.
Lại kinh này vốn vì mượn hai chữ danh hiệu
của Phật kia để chỉ rõ tự tâm của mình, cũng đồng ý với kinh Thập Lục
quán. Thời những người muốn ngộ tâm mình, chính phải niệm Phật cầu vãng
sanh.
Lại, vị Bồ Tát còn phải gần Phật như trong
khoa Giáo Khởi trước đã nói. Thế thời người đã ngộ tâm mình, cũng chính
phải niệm Phật cầu sanh, có chi phải nghi vậy?!
Lại, kinh 'Duy Ma' nói: “Tuy biết cõi nước
của chư Phật cùng với chúng sanh là không, vì nhơn duyên giả có, nhưng
thường tu Tịnh Ðộ và giáo hóa chúng sanh” cho nên lo là lo với tâm mình mà
mình chẳng ngộ vậy thôi. Nếu tâm mình mà mình đã tỏ ngộ rồi thời không có
một Pháp nào ra ngoài tự tâm. Bấy giờ tức tâm là cảnh, tức cảnh là tâm,
vãng sanh về Tịnh Ðộ, ra mắt Phật Di Ðà, đã chẳng ngại chi với duy tâm, mà
cũng không hệ gì với tự tánh!
Lại hỏi: Người xưa nói kinh Hoa Nghiêm là
kinh cực giáo tối thượng thừa, đều có thể tu theo phép quán hạnh để rõ các
pháp môn thì chẳng nói chi; còn từ kinh Phương Ðẳng sắp xuống (trong Tiểu
thừa) cũng bảo tu pháp quán hạnh làm sao được?
Cổ đức đáp: Các kinh liễu nghĩa (Ðại thừa)
cùng kinh bất liễu nghĩa (Tiểu thừa) cũng đều là liễu nghĩa cả vì chỉ có
một cái tâm mà thôi.
Căn cứ theo đây, thời bực viên cơ đối với
các kinh giáo, kinh giáo nào mà chẳng viên; những bậc đã nhận được lý tâm
khi gặp sự thì sự gì chẳng đúng lý?
2.- Dịch Nhơn
Ðời Dao Tần, ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu
Ma La Thập dịch
Sớ: Dao Tần là nêu cái đời. Tam Tạng là rõ
cái đức, La Thập là tên ngài. Một chữ 'dịch' là kết thành người năng
dịch.
Sao: Chỗ xuất sư: từ đầu chí cuối đã đủ ở
văn trước, đây không chép lại nữa. Xưa nói ngài La Thập đã làm pháp sư
dịch kinh từ bảy đức Phật đến nay. Song đây cũng nói lược và lấy bảy đức
Phật mà nói tóm thôi. Nếu luận cho đúng thời từ Phật Tỳ Bà Thi cho đến
Phật Thích Ca, trước sau chỉ trải có hai đại kiếp Trang Nghiêm (quá khứ)
còn trên chín kiếp, đã trải biết mấy muôn vị Phật, và chư Phật trong 6
phương không vị nào mà chẳng tán thán kinh này. Thế thì từ một muôn vị
Phật trở lại đây, chắc cũng đều có nói kinh này và chắc cũng đều có người
dịch (?)
Mà trong kinh nói 'Mẹ Phật' là nói mỗi đời
vị Phật nào giáng sanh, ta (bà Ma Gia) đều làm mẹ đấy. Con Phật thì nói:
“Mỗi đức Phật ra đời, ta (La Hầu La) đều làm con đấy”. So đó, thời biết
ngài La Thập làm pháp sư dịch kinh, chẳng những bảy lớp Phật! Mà kinh này
lưu thông lâu xa, đối với đây càng thêm tin.
Sớ: Xứng lý thời tự tánh dung thông rỡ rỡ,
là nghĩa tiếng Trung Hoa dịch nơi tiếng Phạn.
Sao: Tức Phạn dùng thành Trung Hoa, thời
Hiển chẳng ngoài Mật. Chính Hoa chưa từng chẳng phải Phạm là nghĩa Mật
vẫn ở bên Hiển. Ngay trong tối có sáng, ngay trong sáng có tối, tối sáng,
lẫn nhau lớp lớp, xen vào thể mầu dung thông, không đồng và chẳng khác
(bất nhứt bất dị).
Riêng Giải Văn Nghĩa (phân ra làm ba
phần)
1. Tự phần (phần tựa của
kinh).
2. Chánh tông phần (phần chánh của
kinh).
3. Lưu thông phần (phần lưu
thông).
1. Tự Phần (phân ra làm hai phần)
A. Ngũ cú chứng (5 câu làm chứng
tín).
B. Liệt chúng chứng (kể chúng làm
chứng).
Ngũ Cú Chứng.
(Lời ông A Nan thuật giữa chúng hội)
Chính ta nghe như vầy: Một thuở nọ đức
Phật ngự tại nước Xá Vệ, nơi rừng cây Thái Tử Kỳ Ðà và vườn ông Cấp Cô
Ðộc.
Sớ: Riêng giải văn nghĩa: Ðã biết cái ý
chung của đề rồi, nhưng chưa biết trong đó từ đầu chí cuối, lối văn như
thế nào? Nay mới phân từng bài, giải từng câu khiến nghĩa văn tự Bát Nhã
thông thấu lý thật tướng Bát Nhã. Bởi vì tạm dùng lời hữu tận lược bày lý
vô tận. Ở trong ba phần, nay thuộc về Tự phần nghĩa phần của kinh
này.
Chữ Tự là kể bày và mối mang vậy. Nghĩa
là: Chưa vào chánh văn, trước kể bày cái mối mang của kinh này. Có hai lời
tự: Chứng Tín và Phát Khởi. Nay duy có lời tự chứng tín. Phàm Chứng Tín
đều đủ sáu món thành tựu. Nay thuận theo văn, cân chỗ nhiều và ít, lại
phân làm hai; trước nói Ngũ Cú Chứng, sau nói Liệt Chúng Chứng, hiệp lại
thành sáu. Ðây lại lệ theo trước tổng quát đại ý; sau mới chia ra để
giải.
Nghĩa là: Với pháp như thị (như vậy) ta
theo Phật để nghe. Một thuở kia, đức Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp nơi
Kỳ Viên tại nước Xá Vệ. Vì lời đây là Phật dạy ông A Nan nói như
vậy. Câu: “Như thị ngã văn' có 3 nghĩa: 1. Nghĩa đoạn nghi. 2.
Nghĩa tức tránh (dứt sự tranh cãi). 3. Nghĩa giản tà (để hiển chánh).
Sao: “Văn tự Bát Nhã” nghĩa là đối với
thật lý Bát Nhã không thể nói được, nhưng nay nhờ lời nói mà rõ đặng nên
đức Phật dùng văn tự nói kinh. Nay mượn văn tự mà giải thích. Song văn tự
nó vốn không; tức là Chơn Như thật tướng. Cho nên ba món Bát Nhã văn tự,
quán chiếu, thật tướng đều là dung thông lẫn nhau, không ngại gì với văn
tự vậy.
Lược bày là lời nói không hết ý, nên nói
rằng: “lược sáu món thành tựu”. “Phân phối hai khoa” là lệ như: ngũ uẩn và
lục căn, hoặc hiệp sắc khai tâm, hoặc hiệp tâm khai sắc, tùy theo chỗ hợp
không nhứt định một Pháp nào. “Phật dạy” là: trong bộ luận Trí Ðộ nói:
“Khi Phật sắp nhập Niết Bàn, Ngài có dạy ông A Nan rằng: “Tất cả đầu kinh
đều để câu: 'Như thị ngã văn, nhứt thời Phật tại' nước nào xứ nào”. Ðó là
do ông A Nan vì vâng theo lời trối dạy của Phật.
“Ðoạn nghi” là khi ông A Nan kiết tập,
trong chúng khởi ba điều nghi: 1. Nghi Phật sống trở lại. 2. Nghi ông A
Nan thành Phật. 3. Nghi Phật ở phương khác đến nhập cho ông. Nay nghe nói
câu: 'Như thị ngã văn' ba điều nghi liền dứt hết.
“Tức tránh” là: Nói chữ “ngã văn” là không
phải tự A Nan bịa nói ra. “Giản tà” là nói chữ “như thị” là để khác với
chữ A Ưu của ngoại đạo. Như trong Luận Phật Ðịa nói pháp như thị. Ta
trước từng nghe ý lánh sự lỗi lầm, tăng giảm, riêng khác, cũng là nghĩa
ngăn dứt việc tranh cãi với nhau.
Sớ: Chữ Như Thị là Tín thành tựu, như
trong Luận Trí Ðộ nói: “Hai chữ 'Như thị' lại làm hai nghĩa”. Có nhiều
cách giải: Nếu cứ theo tông lựa nghĩa nhứt định; luận đứng về tông đây
(Tịnh Ðộ tông) như: Nhứt tâm bất loạn là Như; cứ thế mãi không sai là
Thị.
Sao: Luận Trí Ðộ nói: “Biển cả Phật pháp,
tin là vào được”. Với việc tin thì nói việc ấy như thế (như Thị); với điều
không thể tin thì nói: việc ấy không phải như thế (bất như thị).
Ngài Triệu Công Giản nói: “Như Thị là lời
tín thuận vậy”. Cho nên người đời tin chịu, cũng nói rằng Như Thị. “Lại có
hai nghĩa” là chia hai chữ “như thị” ra đều có giải thích riêng. “Có nhiều
cách giải”: Có chỗ nói vị “Thánh nhơn thuyết pháp rõ bày lý chơn là Như,
duy lý chơn như là Thị” như ngài Lưu Cầu đã nói. Có chỗ nói: “Chữ Như là
lời đúng lý, chữ Thị là lời không quấy” như ngài Sanh Công đã nói. Có chỗ
nói: “Ðức Như Lai thuận theo căn cơ mà ứng hiện là Như, tất cả chúng sanh
đều cảm mến là Thị” như ngài Dung Công đã nói. Có chỗ nói: “Lý thật tướng,
trước sau chẳng khác là Như; đúng như lý mà thuyết là Thị” như ngài Thiên
Thai đã nói. Có chỗ nói: “Chữ Như là lý chơn không, chữ Thị là lý diệu
hữu, để chống phá hai lối chấp Thường và Ðoạn của ngoại đạo như ngài Thanh
Lương Chiết Trung và lời của các nhà giải đã nói. Còn các thuyết nữa sợ
phiền không dẫn. Hai chữ "Như Thị" giải như trên đều có ý nghĩa, đại khái
thì đồng, tiểu tiết có khác hẳn, nhưng không trái nhau.
Do theo Tông để định nghĩa của hai chữ
"như thị" là tùy Tôn mà định. Nay kinh này, lấy chữ nhứt tâm làm tông.
Bởi do chấp trì danh hiệu nhứt tâm bất
loạn, nhứt tâm thời không sanh, không diệt, không tới không lui, vắng lặng
trong trẻo thường còn nên gọi là Như. Lại nhứt tâm ấy, lìa bốn lỗi (10)
diệt trăm điều quấy (11) nên gọi là Thị. Nếu nói khác với đây, không được
gọi là Thị.
Sớ: Chữ Ngã văn là Văn Thành Tựu vậy. Chữ
Ngã là Tự Ngã, chữ Văn là Thân Văn. Tự Ngã Thân Văn, vì chẳng phải riêng
lành với người khác và chẳng phải đọc suông lời của người xưa (12).
Sao: “Tự Ngã Thân Văn”: Chữ Tự là để lựa
riêng không phải mình, chữ Thân là không phải vắng mặt, nghĩa là chính
thân mình hiện diện để vâng lãnh lời vàng của đức Thế Tôn truyền dạy.
Chữ “riêng” là ông Mạnh Tử nói: “Ta chưa
được cái hân hạnh làm học trò đức Khổng Tử. Ta chỉ riêng học đạo lành với
các người khác thôi”. Giải rằng: Vì ông Mạnh Tử chẳng phải là thiệt
thấy đức Khổng Tử. Ông thọ học với người cháu nội của đức Khổng Tử thầy
Tử Tư mà riêng vâng lãnh đạo kia, để tu thân ấy vậy.
“Ðọc suông lời của người xưa” là: Chúa Tề
Hoàn Công đọc sách ở nhà trên, người thợ đẽo bánh xe bình phẩm rằng chỗ
chúa đọc bất quá nhai bã xác của cổ nhơn thôi.
Giải rằng: Vì chúa Hoàn Công chẳng phải
chính mình đối trước mắt cổ nhơn. Cổ nhơn đã chết lâu rồi, bây giờ chỉ đọc
suông lời để lại kia vậy thôi.
Nay ông A Nan chính thân gặp mặt vị Chí
Thánh, không phải riêng lãnh với ai hết. Ðây là hiệp với hai chữ Tự Ngã ở
đoạn trên.
Chính tai ông A Nan nghe lời chí giáo, chớ
chẳng phải ông đọc suông lời cổ nhơn, hiệp với hai chữ "Thân văn", ai cũng
phải tín thọ không ai dám nói gì nữa (vì A Nan được trực tiếp với Phật).
Sớ: Thánh nhơn là vô ngã, sao nay lại xưng
ngã? Luận Trí Ðộ nói có ba nghĩa: 1. Vì tùy thuận theo thế gian. 2. Vì
phá tâm tà kiến. 3. Vì không chấp là vô ngã.
Do ba nghĩa đây đều có nói ngã cũng chẳng
ngại gì. Lại pháp thân Phật là Chơn Ngã, cũng có thể xưng ngã được.
Sao: Sau đây lại phân hai chữ "ngã văn" ra
làm hai. Giải riêng như trước.
1. Tùy thuận theo thế gian, nghĩa là trong
phương diện thế gian pháp nói ngã đó, chẳng phải nói cái Chơn Ngã trong Ðệ
Nhứt Nghĩa. Nay tùy thuận theo thế gian mà nói, vốn không có thật thể,
thời chẳng trái với cái ngã của Ðệ Nhứt Nghĩa.
2. Phá tâm tà kiến, nghĩa là tà ngã và
danh tự ngã. Người thế tục đủ hai ngã trước. Kẻ học đạo có hai ngã sau.
Thánh nhơn chỉ còn một ngã chót. Vì thuận theo thế tục mà xưng ngã (ta),
chỉ là cái ngã bằng danh tự, thật không phải tà và mạn, nên không lỗi lầm
gì!
3. Không chấp là vô ngã. Vì các vị thánh
nhơn biết tất cả pháp đều không, lý thật tướng là vô ngã, nhưng chẳng chấp
không, chẳng chấp vô ngã. Lại trong luận Du Già có bốn nghĩa; chỗ đại khái
đồng như đây. Nghĩa thứ ba nói: “Nếu quyết định là vô ngã thời còn có ai
tu học và người ắt sanh tâm sợ” cho nên không chấp là vô ngã, mà cứ nói
ngã.
Lại trong Quán kinh lời sớ nói: “Vô ngã
thời vô văn; vô văn thời việc hóa đạo phải tuyệt”. Vì muốn truyền hóa bất
tuyệt nên mượn cái danh giả mà tạm nói rằng ngã (ta).
Pháp thân Phật chơn ngã. Ðứng theo phương
diện Bản Giác mà luận thời ông A Nan cũng thông với cái ngã pháp thân vậy.
Bởi vì trong pháp vô ngã có cái chơn ngã, tức là cái ngã của pháp thân.
Như cái ngã trong bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của kinh Niết Bàn thì đối
với hai chữ vô ngã có ngại chi?!
Sớ: Chữ Văn là: Nhĩ căn phát ra nhĩ thức,
bỏ biệt theo tổng, nên nói là “ngã văn” (ta nghe).
Trong kinh Ðại Thừa có ba nghĩa: 1. Nghĩa
Thỉ giáo thì không nghe. 2. Nghĩa Chung giáo nghe mà không chấp là nghe.
3. Nghĩa Ðốn giáo không nghe mà không chỗ nào là không nghe.
Nếu luận theo đúng tông chỉ thời vị thánh
nhơn truyền pháp dùng cái chơn ngã và vô ngã không hai. Cái diệu nhĩ bằng
chẳng phải đồng hay khác giữa căn và cảnh để nghe pháp môn vô chướng ngại
giữa Ta Bà và Cực Lạc vậy thôi.
Sao: Bỏ biệt theo tổng đó là do không nói
nhĩ văn (lỗ tai nghe) mà lại nói là ngã văn (ta nghe). Bởi do nói "ta"
thời tổng thâu hết các căn, các thức, v.v... lấy tổng gồm biệt, cho nên
nói: Ngã văn.
Câu “Thỉ giáo” v.v... là như nói Ta đã
không phải là ta thì dầu nghe cũng chẳng ai nghe. Ðây là đại ý của Thỉ
giáo về Ðại Thừa sơ môn.
Như nói: “Từ các nhơn duyên giả hợp, cho
nên không”. Không hoại các giả danh; tức không nghe mà nghe, nghe mà không
chấp là nghe. Ðây là đại ý của Chung giáo về Ðại thừa.
Như nói: “Năng, sở đều yên lặng; người
nghe và pháp bị nghe đều vắng lặng”. Không nghe mà không chỗ nào là chẳng
nghe, lìa nghĩ tưởng, mà tự rõ bày đại ý của Ðại thừa Ðốn giáo.
Câu: "Ngã vô ngã" là sanh mà chẳng tính
nơi sanh, chẳng tính sanh mà có sanh cùng khắp, ấy tức là pháp thân.
"Căn và cảnh" là nghe nói Phật A Di Ðà,
năng văn (người nghe) và sở văn ( Phật bị nghe). Không hai và cũng chẳng
phải đồng và khác.
"Ta Bà và Cực lạc" là nói y báo và chánh
báo cõi Ta Bà toàn là ở tự tâm của nước Cực Lạc vì do kinh này có phần
thuộc về Viên giáo, nên phải qui về pháp tánh.
Sớ: Có người hỏi: Phật thành đạo đã lâu,
ông A Nan mới xuất gia, đâu đặng nói “ngã văn”?
Xưa đáp có bốn nghĩa cho nên nói "Văn"
cũng không ngại. Lại A Nan có ba ông. Nếu ông này không nghe thì ông kia
nghe cũng chẳng ngại chi.
Sao: Người nghi rằng: Phật thành đạo nói
pháp trước đã trải qua hai mươi năm thì ông A Nan mới xuất gia, lại mười
năm sau, Phật mới dạy làm thị giả (hầu Phật). Mặc dầu được hầu gần Phật,
nhưng mà những kinh Phật thuyết ba mươi năm về trước, ông làm sao nghe
đặng mà đều gọi Ngã Văn?
Xưa đáp có bốn nghĩa là:
1. Lần lựa nghe: như kinh Báo Ân nói: “Với
những kinh ông chưa nghe thời ông theo các thầy Tỳ Kheo để nghe lại”, hoặc
các vị Thiên tử nói lại, như lời lưu thông cho hàng Hoằng Quảng Bồ Tát mà
Phật đã dẫn trong kinh Niết Bàn.
2. Phật nói lại: Như Kinh Báo Ân chép:
“Ông A Nan nhơn Phật dạy làm thị giả, ông yêu cầu ba việc, mà việc thứ ba
là kinh nào ông chưa nghe, ông thỉnh Phật nói lại”...
3. Ông A Nan tự thông, như kinh Kim Cang
Huệ nói: “Ông A Nan đã chứng pháp Tánh Giác Tự Tại tam muội, cho nên những
kinh ông chưa nghe có thể tự ông nhớ thuộc”. Như kinh Niết Bàn cũng nói.
Hoặc có khi ông ở trong pháp hội, hoặc có khi ông không ở trong pháp hội,
tự nhiên, ông cũng hiểu rõ được cả.
4. Ngài Thanh Lương chiết trung phê bình
ba thuyết trên, nói: “Ông A Nan chính là bực Ðại Quyền Bồ tát ảnh hưởng
hoằng truyền”. Như kinh Bất Tư Nghì Cảnh Giới nói: “Ông Xá Lợi Phất, ông
Mục Kiền Liên nhẫn đến ông A Nan v.v... đều là bực Ðại Quyền bồ tát hiện
thân Thinh Văn”. Chấp chi danh tích nhỏ mà nói không nghe!
Ba ông A Nan là:
1. Tên Hoan Hỷ. Ông này kiết tập tạng kinh
Thinh Văn.
2. Tên Hỷ Hiền. Ông này kiết tập tạng kinh
Duyên Giác.
3. Tên Hỷ Hải. Ông này kiết tập tạng kinh
Bồ Tát.
Thế thời ông A Nan dùng sức đại thần diệu
để tùy cơ dạy bảo chúng sanh. Vậy nên biết nhứt đại thời giáo của đức Như
Lai, ông A Nan này không nghe thời ông A Nan kia nghe, có chi mà phải chấp
rằng nghe cùng không nghe mà làm chướng ngại?
Sớ: Chữ "nhứt thời" là thời thành tựu.
Thầy trò hợp nhau, đương khi kẻ nói, người nghe xong rồi tức gọi là một
thời. Do vì kẻ nói, người nghe không nhứt định nên không nói năm, tháng,
ngày, giờ nào; bởi mười phương thời giờ bất nhứt, hai cõi (Ấn Ðộ và Trung
Hoa) ngày mùng một tháng giêng chẳng đồng nhau. Luận đúng tông chỉ kinh
nầy thời trong khi kẻ nói, người nghe, tâm cảnh bặt dứt, thánh và phàm hợp
nhau, y báo, chánh báo dung thông, một và nhiều bằng bực; đây là cái thời
mà các pháp còn đối đãi đi đôi, như thế đều thông nhứt làm Một, thì gọi là
“nhứt thời” vậy.
Sao: "Kẻ nói người nghe không nhứt định"
là: Hoặc người nói là người đã chứng pháp "Ðà La Ni" (pháp tổng trì) thời
trong một phút thông một chữ, có thể nói hết tất cả pháp môn. Hoặc người
nghe là người đã đặng nhĩ căn thanh tịnh, ở trong 1 phút, nghe một chữ, có
thể nghe suốt hết cả, bao nhiêu cũng chẳng chướng ngại. Hoặc kẻ nói chỉ ít
thời người nghe thành nhiều thời. Hoặc kẻ nói nhiều thời, người nghe thành
ít thời. Kẻ nói thần lực dài ngắn tùy chỗ thích hợp; người nghe căn khí
lợi độn chẳng phải một. Người xưa nói: Ðối với 3 thừa, 6 phàm, 4 thánh
chỗ thấy biết: pháp thân, báo thân và hóa thân cùng năm, tuổi dài, vắn,
thành Phật đã lâu hay mau mỗi mỗi chẳng đồng, cho nên nay chỉ lấy trong
khi Phật và đệ tử, thầy trò cơ cảm gặp nhau, kẻ nói người nghe xong rồi
thì gọi đó là "nhứt thời" thôi.
"Mười phương thời giờ": Hễ nói mười phương
là khắp cùng ngang dọc. Dọc thời thấu đến cõi trời (cõi Tứ Thiên một ngày
bằng dưới cõi người năm mươi tuổi). Ngang thời rộng khắp cả bốn châu (canh
ba của châu Nam Thiệm Bộ bằng khi giờ ngọ của châu Bắc Cu Lô) nên không
nhứt định là thế.
“Hai cõi ngày chánh sóc” là: Ngày đầu năm
kêu là ngày “chánh sóc”, nước Chấn Ðán (nước Tàu), cõi Ngũ Thiên (Ấn Ðộ)
không thống thuộc nhau. Nhà Châu lập tháng giêng vào tháng Tý (tháng 11 âm
lịch). Nhà Hạ lập tháng Giêng vào tháng Dần (tháng Giêng ta).
Hồi đó nước Chấn Ðán thuộc nhà Châu (1134
-247 trước Tây lịch) mà Phật ở nước Xá Vệ (Ấn Ðộ). Xá Vệ lập tháng Giêng
vào tháng Dần, lại nhằm tháng Giêng nhà Hạ (2205 - 1786 trước T.L) thì ra
tháng Giêng cõi Ngũ Thiên thành ra tháng ba nước Chấn Ðán; tháng hai của
Ấn Ðộ nhằm tháng tư của nhà Châu. Nước Tàu thuở đó cũng không thể nhứt
định được, cho nên chỉ nói nhứt thời thôi.
Y và chánh là: Vì Phật cùng tâm và cảnh là
nhứt tâm bất loạn, vì không tâm năng niệm, sở niệm. Phàm Thánh là cùng
những bậc Thượng Thiên Nhơn đồng hội về một chỗ, nước, chim, cây rừng đồng
thuyết diệu pháp.
Một và nhiều là: Vì một Phật thuyết kinh
thì sáu phương Phật đồng khen ngợi (tán thành).
Như trên, mỗi món bằng hai pháp đối đãi
đều hiệp thành một mùi thanh tịnh, tức lấy thời ấy làm nhứt thời.
Sớ: Chữ Phật là chủ thành tựu. Nghĩa chữ
Phật giải thấy rõ ở văn trước. Do vì một thời kỳ đó chúng sanh cùng nhau
sùng bái nên gọi là ông chủ. Lại làm chủ trên địa vị trọng yếu giữa sáu
món thành tựu.
Sao: “Cùng nhau sùng bái” là Phật ra đời
là một thời kỳ. Trong một thời kỳ đó, sáu cõi phàm, ba bực Thánh và tất cả
chúng sanh, cùng nhau sùng bái tôn Phật làm ông Pháp Chủ, cũng như vạn
dân, bá quan, qui đầu về một ông quốc chủ trong nước.
“Ông chủ trong sáu món thành tựu”: Trông
về trước thì trong buổi dự hội của ông chủ là "Thời thành tựu". Nghe lời
của ông chủ là "Văn thành tựu"; lãnh lời dạy của ông chủ là "Tín thành
tựu". Trông về sau: Chỗ ở của ông chủ là "Xứ thành tựu". Những người do
ông chủ giáo hóa là "Chúng thành tựu", là sáu món thành tựu, nhưng cũng
qui trọng về nơi Phật, cũng là cái ý nói Phật là đủ hết.
Sớ: Câu “tại Xá Vệ Quốc Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc
Viên” là xứ thành tựu". Chữ "tại" là Ngài Thiên Thai giải chữ "tại" cũng
như ý chữ trụ, phân ra có bốn: 1. Thiên trụ 2. Phạm trụ 3. Thánh trụ 4.
Phật trụ. Tùy chỗ hợp, chỗ Phật ở là trụ, nhẫn đến Thiên Trụ (ở trên cõi
trời) thiệt thời thân Phật không nhứt định ở một chỗ nào mà không chỗ nào
là không ở.
Sao: “Tại”, tức ý “Trụ”: Trong luận Ðại
Phàm nói: “Phật ở chỗ nào dầu tạm hay ở lâu, đều thành ý tại”. Nay không
luận ở lâu hay ở tạm, cứ ngay chỗ đức Phật thuyết kinh tức gọi là “tại”.
Dụ như trong đời, vị quốc chủ đi tới đâu, tức gọi là tại chỗ đó vậy. Có bốn trụ là: Phật độ chúng sanh, tùy
theo chỗ thích hợp mà trụ, hoặc hiện thân trụ trên cõi Trời. Nghĩa là: Cái
nhơn về cõi Trời Lục Dục, tức là đem dạy pháp bố thí trì giới thiện tâm mà
trụ, hoặc hiện thánh trụ cõi Phạm Thiên. Nghĩa là: Cái nhơn về cõi Sơ
Thiền đến cõi Phi Tưởng, tức là đem dạy pháp Tứ Vô Lượng Tâm (13) mà trụ.
Hoặc hiện thân trụ ở cõi thánh. Nghĩa là: Cái nhơn về hàng tam thừa thì
đem dạy ba pháp tam muội mà trụ. Hoặc hiện thân trụ ở cõi Phật thì dùng
định Thủ Lăng Nghiêm, 100 pháp tam muội mà dạy bảo pháp thập lực, tứ vô
úy, thập bát bất cộng để mà trụ.
Với ba cõi trên là tùy theo ý người khác
cảm mà ngài trụ (ứng) còn mỗi cõi sau, tùy ý Phật ngài tự trụ.
Hỏi: Phật sao còn trụ cõi trời?
Ðáp: Ẩn thân cao quí ở chỗ thấp hèn là vì
cớ độ sanh. Không ở mà không chỗ nào không ở là vì bản thể không chỗ nào
là không ở; vì bản thể viên thông nên không chỗ nào là không ở. Kinh Hoa
Nghiêm nói: “Thân Phật không đến, nhưng không chỗ nào mà không đến. Vì
sao? Bởi vì hư không không có thân. Ðức Như Lai cũng thế. Khắp tất cả các
pháp, khắp tất cả các cõi nước của tất cả chúng sanh, chẳng đến, nhưng
không chỗ nào mà không đến”. Vì thể cũng như tâm thanh tịnh, vắng lặng, dụ
như hư không nên chỗ nào cũng đều có đầy đủ. Song mặc dầu Phật ở nước Xá
Vệ mà hiện thân Liệt Ứng để độ hàng liệt cơ, nên nói thiên trụ (ở cõi
trời). Nhưng đúng như thật mà luận, tức ngay nước Xá Vệ cũng có thể gọi là
“Phạm trụ”. Thánh trụ hay Phật trụ nào lại chẳng được?
Sớ: Tiếng Phạm Sravasti cũng nói "Thất La
Phiệt Tất Ðể", dịch theo tiếng Trung Hoa là Văn Vật. Vì lấy đức đặt tên
nước. Hoặc nói là Văn (nghe, đồn) vì dùng tên người để đặt tên
nước.
Sao: Ðức, là: Do nước giàu đủ bốn đức: 1.
Trần đức: Vì cảnh ngũ trần có nhiều món mỹ lệ. 2. Tài đức: Vì thất bảo,
trân kỳ, không món nào mà chẳng có. 3. Thánh đức: Vì ba tạng thánh pháp
đều đầy đủ. 4. Giải thoát đức: Vì nhiều người được giải thoát, không
nhiễm ngũ dục. Do đấy tiếng khen ngợi rung động khắp cùng 5 cõi Thiên Trúc
nên gọi là nước Văn Vật.
“Lấy tên người đặt tên nước” là gì? Vì
nhiều người hiền đức cho nên trong nước lấy tên người làm trọng.
Sớ: Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc Viên là tiếng Phạm
(Jeti hay Jeta) Kỳ Ðà cũng nói Thệ Ða. Nói Kỳ không nói chữ Ðà là bớt văn.
Hai chữ Kỳ Ðà Tàu dịch Chiến Thắng. Chữ Cấp Cô là nêu cái đức, tức là ông
Tu Ðạt Ða. Chữ Viên dịch âm theo tiếng Phạm “Tăng già lam ma”, Tàu dịch
là: “Chúng Viên” cũng như tiếng Việt “chỗ chúng tăng ở”.
Số là thái tử Kỳ Ðà cúng rừng cây, ông Cấp
Cô mua miếng vườn, gồm cả hai tên người nên nói: Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc
Viên.
Sao: “Chiến Thắng” là vua Ba Tư Nặc, khi
sanh thái tử, vua cùng ngoại quốc giao chiến được thắng trận, vui mừng nên
đặt tên (Chiến Thắng) đó cho con.
Tu Ðạt Ða là tiếng Phạm, Tàu dịch là “Nhạo
Thí”, quan đại thần của vua Thắng Quân (quân đánh giặc được thắng trận).
Vì ông ưa làm việc bố thí nên được thành tên tốt (Nhạo Thí).
Chữ “Cấp Cô Ðộc” là: kẻ nhỏ không cha mẹ
là "cô" (mồ côi), người già không con cái là "độc" (trơ trọi). Nay những
người không có chỗ nương, không ai nuôi, tức gọi là Cô Ðộc.
Riêng luận hai chữ Cô Ðộc, đức Khổng Tử
nói: “Người quân tử ra ơn khắp giúp là cần gấp”. Thầy Mạnh thuật: “Vua Văn
Vương làm việc chánh trị ở ấp Kỳ, giúp kẻ mồ côi trước hết; thế đâu chẳng
phải lòng tự phổ cập. Nhưng với kẻ gấp thì giúp trước, huỡn thì giúp sau
vậy”.
Chỗ chúng ở mà nói rằng "vườn" là vì rừng
rậm mát mẻ, những người học đạo nên nương đỗ nơi đó.
“Kẻ cúng cây, người mua vườn” là: Kinh
Niết Bàn nói: ông Trưởng giả tên Tu Ðạt, gốc người ở nước Xá Vệ, ban đầu
chưa biết Phật. Nhơn dịp đi cưới dâu, vào thành Vương Xá, ghé nhà ông San
Ðà Na thấy Phật sanh lòng tin, mới thỉnh Phật về nước Xá Vệ. Phật sai ngài
Thân Tử (Xá Lợi Phất)đi lựa chỗ chúng ở. Lựa đặng vườn cây của thái tử Kỳ
Ðà. Ông trưởng giả hỏi giá, thái tử nói chơi rằng: “Ông đem vàng trải giáp
đất, tôi sẽ bán cho”. Ông trưởng giả y lời, chở vàng đến lót. Thái tử cảm
mến và khen ngợi, liền bán đất, còn cây trong vườn là vật sở hữu của thái
tử cúng luôn cho Phật để lập tinh xá. Trưởng giả và thái tử đua nhau phát
tâm, lập thành việc tốt ấy, cho nên đồng nêu tên của hai ông.
Sớ: Bằng nói rõ theo giáo lý của kinh này
đều có chỗ nêu, lệ thường như lối thích kinh Pháp Hoa và Hoa Nghiêm.
Sao: “Nói rõ theo kinh” này là: Như nước
Xá Vệ là nước rất tốt, là nêu pháp môn Tịnh Ðộ này rộng rãi thênh thang vì
pháp rất tối thượng. Chính ngài Từ Ân nói: “Thành Vương Xá là thành rất
tốt, thành này vì tốt hơn các thành kia, vì kia nêu kinh Pháp Hoa là pháp
thù thắng hơn các pháp”. Sau cũng lệ (so) theo đây.
Kỳ Thọ là cây rất đẹp, để tiêu biểu cõi
Tịnh Ðộ bóng mát, che chúng sanh thường khỏi nóng nực.
Vườn ông Cấp Cô là vườn rất xinh để tiêu
biểu cõi Tịnh Ðộ an ổn chúng sanh, hằng hưởng những sự vui. Thái tử Kỳ Ðà
là dòng giống tốt để tiêu biểu cõi Tịnh Ðộ hễ người sanh về đó rốt ráo
thành Phật, nối thạnh dòng Phật.
Ông Trưởng giả Tu Ðạt là người rất tốt để
tiêu biểu cõi Tịnh Ðộ ai sanh về đó, được vào nhóm người chánh định, cu
hội với một hạng người thượng thiện. Như kinh Hoa Nghiêm món món nêu pháp
có nhiều cách rõ lý nhứt tâm đều là ý đây vậy.
Sớ: Xứng lý thời tự tánh rổng suốt 10
phương là nghĩa ông A Nan nghe Phật thuyết pháp. Tự tánh không lìa tự tánh
là nghĩa Phật trụ tại rừng Thái tử Kỳ Ðà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Sao: Tâm nghe suốt mười phương là ông Khánh Hỷ (A Nan) hiện nay đương kết
tập. Chơn Phật ngồi trong nhà (trong tâm) là đức Thích Ca vốn chẳng chỉ ỡ
cõi Tây Càn (Ấn Ðộ), quày sự nghe để nghe lại tánh mình, quày ông Phật lại
để thành ông Phật của mình, mới biết: Một hội Kỳ Viên nghiễm nhiên chưa
giải tán, đâu những hội Linh Sơn!?