PHẬT THÍCH CA NÓI KINH A DI ÐÀ
NGÀI VÂN THÊ LÀM LỜI SỚ SAO
---o0o---
QUYỂN THỨ TƯ
(tiếp theo)
CHÚ THÍCH
KINH A DI ÐÀ SỚ SAO
QUYỂN THỨ TƯ
1. "Tứ chúng":
1. Tỳ Kheo (Bhiksu). 2. Tỳ Kheo Ni (Bhiksuni) 3. Ưu Bà Tắc (Upasaka). 4.
Ưu Bà Di (Upasika).
2. "Thời nhơn tự
chẳng biết": Xưa nói: “Di Lặc thật Di Lặc, hóa thân nghìn trăm ức, mỗi giờ
hiện trước người, mà tự người không biết”.
3. "Hơi ấm": Cái
thân của người ta lúc chết,chỉ có nơi trái tim là còn hơi ấm rốt sau, vì
cái thức A Lại Da nó còn ở tại đó. Ðến chừng mà nơi đó lạnh là thức ấy lìa
khỏi xác, gọi bằng "khứ hậu, lai tiên" lúc chết thì nó đi rốt sau; lúc đầu
thai thời nó đến trước (trong luận Duy Thức có nói rõ).
4. "Ghét thương
cha mẹ": Sau khi thở hơi cuối cùng, thần thức nó bỏ cái thân tiền ấm (tử
thi), lìa ra, nó hóa sanh làm cái thân trung ấm ở giữa không gian. Bấy
giờ, đối với nó, cả vũ trụ toàn là đen tối, chỉ chỗ nào có nhơn duyên với
nó là nó thấy ánh sáng: Lửa dâm dục của cha mẹ đương hành dâm thì nó đến
liền nhanh hơn chớp; hoặc thương cha ghét mẹ nếu nó sắp đầu thai để sanh
làm con gái; hoặc thương mẹ ghét cha nếu nó sẽ là con trai; vì tình thân
ái khiến nó phải như thế; gọi là "nhơn ái tình làm giống". Kế đó, nó sanh
tâm niệm vọng tưởng: Chính nó hành dâm với giống đực nếu nó là giống cái.
Với vọng tưởng ấy, gọi là "tối sơ nhứt niệm điên đảo", vì nó tưởng chính
nó hành dâm, chớ không còn thấy có cha mẹ nữa, nên nói là điên đảo. Bấy
giờ nó đã đầu thai rồi gọi là" nạp tưởng thành thai" (xem bài tựa thứ nhứt
của bộ Duy Thức Tam Tự Kinh thấy rõ).
5. "Tiểu thánh
sơ tâm": 1. Ðối với Ðại thừa thì 4 quả Thánh Thinh Văn gọi là Tiểu Thánh;
2. Ðối với Phật thừa thì các Bồ tát trong Ðại thừa, gọi là Tiểu thánh vì
chỗ chứng ngộ còn cạn thấp Sơ tâm: Hoặc mới phát tâm cầu học đạo Bồ Ðề,
hoặc mới phát tâm học đạo Ðại thừa Bồ Tát. Tiểu thánh sơ tâm đây cũng chưa
biết được chỗ "sanh lai tử khứ" của mình vì lòng vọng hoặc còn nhiều,
đương dứt hoặc, chứng chơn chưa được mấy, nên có chỗ bảo: “Sanh bất tri
tùng hà xứ lai, tử bất tri tùng hà xứ khứ”, gọi là “Bồ Tát cách ấm hôn
mê”: Cái thân ngũ ấm hiện nay cách biệt với thân ngũ ấm đời trước nên nói
là hôn mê, không nhớ được quá khứ bởi còn vô minh (trừ bực Ðẳng Giác Bồ
Tát).
6. "Chưa biết
chỗ xuất nhập": Các Hiền Thánh trong pháp xuất thế gian cũng nhiều vị chưa
tự biết sự luân hồi của mình nếu chưa chứng ngộ pháp "thập nhị nhơn duyên"
và chưa chứng pháp túc mạng thông. Huống chi là các Hiền Thánh trong thế
gian thì làm gì biết được? Như các ngài: Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Châu
Công, Khổng Tử... đều được thiên hạ từ xưa nay tôn sùng là bực Thánh; thế
mà các Ngài cũng đều chưa tự biết kiếp trước là gì. Các ngài Trần Nhơn
Tôn, Trần Hưng Ðạo trở về già đều có đi tu cả mà cũng chưa chứng "túc mạng
thông". Chí như đức Thánh Tổ Hoàng Ðế là vua Khang Hy đã từng than rằng:
"Ngã bổn Tây thiên nhứt nạp tử, vân hà đọa lạc đế vương gia"? (Ta vốn là
một nhà sư của đạo Phật, thế sao sa vào nhà đế vương?) Cũng có hơi biết
nhưng mập mờ! Vì chưa được tự sáng suốt. Trừ các ngài và những bực đã có
chứng túc mạng thông và cả lục thông, từ bực La Hớn sắp lên.
7. "Nên gọi là
điên đảo": Khi trung ấm đến để đầu thai, với giữa cha mẹ nó, nó tư tưởng
là nó làm sự ái ân, chớ nó không còn nhận thấy sẽ là cha mẹ của nó. Ðó là
với cái thân ngày nay đây, gọi cái tương tự làm ái ân hồi đầu thai đó, là
tối sơ nhứt niệm đảo điên (xem ở số 4 trên).
8. "Bảy thú":
Bảy chỗ để đến (thú) đầu thai: 1. Ðịa ngục thú (narakagati); 2. Ngạ quỉ
thú (preta); 3. Súc sanh thú (tiryayoni); 4. Nhơn thú (manusya); 5. Thần
tiên thú (bsi); 6. Thiên thú (deva); 7. A Tu La thú (Asura). Kinh Lăng
nghiêm cuốn 9 nói: "Các thú: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, nhơn loại, thần
tiên, thiên loại và tu la, xét ra các thú ấy đều bị khổ tối tăm trầm nịch!
Về với các cái thân tướng hữu vi, chúng vọng tưởng để thụ sanh, chúng vọng
tưởng để theo nghiệp". Bảy thú ấy đều ở trong ba giới, đều chịu cái công
lệ luân hồi sanh tử mà không tự biết được cái kiếp đời sống thác của mình,
gọi là “túy sanh mộng tử” (sống say chết mộng).
9. "Ngài Tứ
Minh": Ðời Tống, ngài Trí Lễ pháp sư ở núi Tứ Minh (núi nầy ở phía Nam phủ
Khánh Nguơn, Ninh Ba tỉnh Chiết Giang) để chấn hưng chánh nghĩa của tông
Thiên Thai, nên gọi Tứ Minh tôn giả. Ngài Pháp Trí tôn giả, húy Trí Lễ, tự
ước ngôn; người đời sau nhơn chỗ ngài ở nên xưng là Tứ Minh đại sư. Ngài
xuất gia từ hồi 7 tuổi; 15 tuổi thụ Cụ Túc giới, chuyên tinh học bộ luật
Thiên Thai Tông, hậu học đa sùng tôn trọng.
10. "Trí đức,
đoạn đức": Soi rõ được chơn lý là Trí đức, dứt hết phiền não là Ðoạn đức,
tức là Bồ Ðề và Niết bàn. Luận Vãng Sanh lời Chú Giải rằng: "Luận về Trí
thì không nghĩa nào không thông; nói về đoạn thì bao tập khí cũng không
còn. Với Trí Ðoạn đều đủ mới có thể làm ích lợi cho đời".
11. "Việt, Ngôn,
Yên, Tần": Việt: Nước Việt, tức là giống U Việt, nay là tỉnh Chiết Giang.
Nước Ngô nay là địa phận đất huyện Vô Tích, tỉnh Giang Tô. Nước Yên, nay
là đất các tỉnh Phụng Thiên, Trực Lệ và Bắc bộ của nước Triều Tiên. Nước
Tần nay là các tỉnh Cam Túc, Thiểm Tây.
12. "Dao giết
trâu": Sách Luận Ngữ nói: “Ðức Khổng Tử qua ấp Vũ Thành nghe tiếng cầm,
sắt và ca xướng, ngài chúm chím mỉm cười rằng: "Với việc cắt cổ gà đâu lại
dùng đến cái dao thọc cổ trâu"! Lời chú Vũ Thành là cái ấp nhỏ, hà tất
dùng đến cái dao lớn? "Cát kê": Cắt cổ gà, tỷ dụ: Với cái tài năng lớn
lại đem sử dụng vào việc nhỏ, nên nói: "Cát kê yên dụng ngưu dao".
13. "Nước Ngô
thành ao": Người xưa là ông Ngũ Tử Tư, tổ quán nước Sở, đời Xuân Thu. Ông
nói: "Nước Việt nó sanh nở, sống chung chừng 10 năm, giáo dục huấn luyện
lối 10 năm, sau 20 năm đó, nó sẽ đánh nước Ngô thành ao vũng mà chớ". Lời
chú: Cả cung thất thành lũy của nước Ngô đều thành ao nước nhơ đục!
14. "Sáu thù":
24 thù là 1 lượng, 16 lượng là 1 cân. Phía Nam nước Ấn Ðộ, có hòn núi tên
là Ngưu Ðầu vì hình núi giống cái đầu trâu. Núi ấy nó sản xuất thứ cây
Chiên Ðàn đỏ có kết tinh hương quí giá ấy.
15. "Tố pháp
thân": Pháp thân suông. Chữ Tố nghĩa là không trơn. Như không thật sự làm
việc mà có ăn lương bổng gọi là "tố xan". Không chức tước phẩm vị gì cả mà
giàu có gọi là "tố phong". Ðời Tấn, ông Ðỗ Dự xưng tụng đức Khổng Tử là
"Tố Vương" do vì kẻ thất phu mà làm thầy cả muôn đời, bởi không nương cậy
nơi uy quyền mà thế lực cũng đồng bực với Ðế Vương. Tố pháp thân chỉ có
cái hiện thể của pháp thân mà chẳng đủ những công đức của pháp thân. Ngài
Thiên Thai bảo là "Lý tức Phật" chính là cả chúng sanh giữa 3 ác đạo. Sách
Tứ Giáo Nghi nói: "Nay dù rằng Tức Phật; đây là "Phật bằng lý" cũng là ‘Tố
pháp thân’ thì Phật ấy có quan hệ gì với công tu chứng đâu, vì chưa có
phước đức công hạnh để trang nghiêm thân thể”. Lời chú giải rằng: Không
việc rõ công đức trang nghiêm, thể pháp thân trống không, là chỗ bị Thiên
Long Bát bộ khinh hèn.
16. "Cây thụ
vương": Lớn nhứt giữa các loại cây trên thế giới nên gọi Thụ vương (cây
chúa). Tự phẩm kinh Pháp Hoa nói: "Cõi nước tự nhiên xinh đẹp lạ lùng, như
bông nở rộ của cây chúa trên trời". Cây lớn nhất thế giới đây tức là cây
Ba Lợi Chất Ða ở trên cung trời Ðao Lợi mà trong kinh Khởi Thế cuốn thứ 6
và kinh Trường A Hàm cuốn 20 đều có nói.
17. "Nhứt Thế
Nghĩa Thành": Gọi đủ là "Nhứt Thế Nghĩa Thành Tựu" tức tên hồi còn làm
Thái Tử của Phật, mà dịch nghĩa bởi danh"Tát Bà Hạt Thích Ca Tất Ðạt" (đời
Ðường dịch Nhứt Thế Nghĩa Thành Tựu), cựu dịch Tất Ðạt là sai. Với nghĩa
trên, thấy trong cuốn 7 bộ Tây Vực Ký. Kinh Hoa Nghiêm cuốn 12 nói: "Với
giữa 4 châu thiên hạ, đức Như Lai hoặc là "Nhứt thế nghĩa thành tựu" hoặc
tên là "Thích Ca Mưu Ni". Vì "Nhứt thế nghĩa thành tựu" là: “Trọn nên tất
cả nghĩa".
18. "Dịch địa
giai nhiên": Ðương thuở thái bình mà ông Vũ, ông Tắc đã 3 lần đi ngang qua
cửa ngõ đều chẳng vào nhà mình, vì cần với bổn phận đương làm việc nên
được đức Khổng Tử khen ngợi. Ðương thời loạn lạc mà thầy Nhan Uyên ở nơi
xóm hẻm nhỏ, trong lều tranh chỉ có một đảy cơm, một bầu nước mà thôi.
Theo người ta thì chẳng xiết nỗi âu lo mà thầy Nhan vẫn không đổi chí vui
nên cũng được đức Khổng Tử khen ngợi. Thầy Mạnh nói: “Hạ Vũ, Hậu Tắc và
Nhan Uyên đồng một đạo thể”. Lại nói: "Các ngà: Vũ Tắc, Nhan Tử, đổi địa
vị thì đều thế". Vì vẫn vui với bổn phận dù cảnh ngộ, trường hợp có khác,
chứ tâm địa vẫn đồng.
19. "Tự thệ tam
muội": Như tiền thân của Phật Thích Ca là ngài đại thần Bửu Hải phát
nguyện tương lai ở cõi Kham Nhẫn uế độ thành Phật để tế độ chúng sanh; mà
nay lời thệ nguyện đó Ngài đã chứng đặng rồi nên nói: “Riêng một mình Ngài
chứng đặng tự thệ tam muội”, đủ thấy trong Như Lai Ðộc Chứng Tự Thệ Tam
Muội kinh".
20. "Phạm vương
tên Nhẫn": Kiếp sơ là ban đầu. "Kiếp thành” nghĩa là bắt đầu mới thành cái
thế giới Kham Nhẫn này. Trước nhứt Trời Phạm vương đọa xuống làm người, do
lấy tên người đặt tên cho cõi nên nói là Kham Nhẫn thế giới. Vì người tên
Nhẫn, cõi phải tên Nhẫn, người, cõi Kham chịu với nhau nên gọi Kham Nhẫn.
Sách Huyền Tán cuốn 2 nói: "Các khổ khốn ngặt mà chúng sanh vẫn kham chịu
nhọc nhằn; các Bồ Tát ra làm lợi lạc cho, lại bị nhiều ganh ghét mà Bồ tát
cũng kham chịu được, nên chung lập thành tên cho cõi này là Kham Nhẫn".
21. "Ðời ác thế"
là cái thời kỳ mà loài người làm việc ác rất thạnh hơn hết. Sách Tán Thiện
Nghĩa gọi là ngũ trược ác thế. Trong kiếp "Trụ" từ cái thời kỳ mà loài
người mỗi người còn sống được 2 vạn tuổi (kiếp giảm) là bắt đầu sanh 5
điều ác trược. Kiếp trược là phần chung, 4 trược kia là phần riêng vì giữa
kiếp trược nó có 4 trược ấy. Bởi có 4 trược đó nên gọi là kiếp trược.
Trong kiếp trược, từ mỗi người sống còn được 2 muôn tuổi thì cả thế giới
đã bắt đầu xảy ra 5 trược nhưng còn nhẹ ít; dần dần theo thời đại biến
giảm xuống thì cái trình độ 5 trược càng tăng kịch lên cao. Mà đức Thích
Ca ra đời nhằm cái thời mỗi người chỉ sống còn có trăm tuổi thì trược nó
lại quá ư kịch liệt! Huống nữa lại giảm xuống đến thời mà mỗi người chỉ
còn 10 tuổi là kiếp giảm đã cực điểm thì trược nó lại càng không thể tưởng
tượng được! Hiện nay mỗi người còn sống được trong ngoài 70 tuổi, trược
nó đã quá với thời Phật ở đời (100 tuổi), vậy từ nay bắt một kể đi... thì
còn 9.000 năm nữa mới đến cái thời mà con người chỉ còn có 10 tuổi là một
đời (hết tiểu kiếp thứ 9). Thế thì giữa thời kỳ "chín ngàn năm" đó, ở thế
giới này, chúng sanh làm gì có những đại đồng, tự do, hạnh phúc? Vì ngũ
trược còn kịch liệt kia mà!
22. "Ngũ thanh":
Năm điều thanh tịnh: 1. Kiếp thanh là bên cõi nước Thanh Thái chẳng có cái
kiếp giảm, xảy ra 4 trược như cõi uế độ nên gọi Kiếp thanh; 2. Kiến thanh:
Nhận thấy không mê lầm như Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến của cõi này; 3.
Ý thanh: Ý thức không tham, sân, si.... phiền não mê tín tu lầm luyện sái
như cõi này; 4. Mạng thanh: Thọ mạng vô lượng, không tăng lên 8 vạn 4
nghìn tuổi, không giảm xuống còn chỉ 10 tuổi, mà phải chịu cái khổ thọ
mạng rút ngắn bằng sanh, lão, bệnh, tử; 5. Chúng sanh thanh: toàn chư
thiện nhơn cu hội nhứt xứ, đều là bực Thánh; chứ chẳng phải như nhơn gian
này: cái thân quả báo sút kém, cái tâm tối dốt khiếp nhược; khổ nhiều
phước ít như chúng sanh cõi này. Vì đều được kết quả bởi đa thiện căn
phước đức nhơn duyên bằng cái tu nhơn trì danh niệm Phật đã thanh tịnh.
23. "5 thống, 5
thiêu, 5 ác": Tạo tác 5 điều ác là: Sát sanh, thâu đạo, tà dâm, vọng ngữ
và ẩm tửu đó thì khi còn sống bị lấy pháp luật của nước nhà làm hại. Lúc
chết sa vào ác đạo gọi là 5 điều thống khổ làm cho thân tâm bị đau khổ như
lửa cháy nên dụ là “5 điều thiêu đốt”. Kinh Vô Lượng Thọ nói: "Ta nay làm
Phật giữa thế giới này ở trong 5 thống 5 thiêu rất là kịch khổ để giáo hóa
chúng sanh khiến chúng sanh bỏ 5 ác, trừ 5 thống, lìa 5 thiêu. Thế mà
chúng sanh không bỏ, cứ say sưa trong biển hồ sanh tử, Phật rất đau lòng
khác nào người con bất hiếu không nghe lời, cứ tạo nghiệp, cha mẹ lòng
thương lo lắng!”
24. "Tưởng diệt
Nam": Trên hội Linh sơn, Phật thuyết kinh Pháp Hoa, bấy giờ bực thượng đức
Thinh Văn nghe chẳng nổi pháp Nhứt Thừa thật tướng, đứng dậy lạy Phật rồi
lui về, kể có 5.000 người, gọi bằng “Ngũ thiên thối tịch”. Và trên hội Hoa
Nghiêm, những chúng chẳng thấy được cái thân tốt của Phật Xá Na cũng là
đồng một hạng nghe pháp không hiểu nổi, đành chịu thua lui về, như quân sĩ
bại trận nên bảo là “bại Bắc”. Ngài Ðức Sơn, hiệu là Châu Kim Cang, chẳng
tin cái thuyết đơn truyền trực chỉ của Nam Tông, ngài chép ra bộ "Thanh
Long Sao" để làm tài liệu đem qua phương Nam, đặng đánh đổ Nam Tông. Ðến
gần biên cảnh, ghé vào quán nước để dùng điểm tâm. Mụ quán hỏi: “Ngài mang
thứ chi đó?” “Kim Cang Thanh Long Sao”. “Kinh Kim Cang nói 3 tâm chẳng thể
có, vậy ngài điểm tâm nào?” Ðức Sơn Ngài không trả lời được! Sau đến nơi
ngài Long Ðàm gạn hỏi đôi phen, bỗng đặng giác ngộ, bèn than rằng: “Lẽ mầu
đã biện tột rồi, bộ Thanh Long Sao như mảy lông để giữa không; cả lý do
của thế gian dường như một nhễu nước thả xuống biển thẳm, có ăn nhập vào
đâu?” Rồi ngài đốt luôn bộ Kim Cang Thanh Long Sao. Ba tâm: Quá Khứ tâm,
Hiện Tại tâm và Vị Lai tâm.
25. "A Tu La có
4 loại": Kinh Pháp Hoa, phẩm Tự kể 4 loại A Tu La: 1. Bà Trĩ A Tu La
vương ; 2. Khư La Khiên Ðà A Tu La vương; 3. Tỳ Ma Chất Ða La Vương; 4. La
Hầu A Tu La vương đều có hàng trăm hàng ngàn quyến thuộc. Kinh Khỉ Thế
chép rằng: “Giữa loài A Tu La có một nhóm rất liệt nhược ở trong chốn núi
sâu cõi nhơn gian, tức giữa núi phương Tây có một cái hang đá rất sâu, ở
đó có rất nhiều cung điện A Tu La”. Kinh Pháp Hoa Văn Cú cuốn năm nói:
“Thứ A Tu La thuộc về quỉ đạo thì ở bên đại hải, thứ A Tu La thuộc về súc
sanh đạo thì ở dưới đáy biển”.
26. "Qua đời
tương lai" là nói về khoản: Cuối tiểu kiếp thứ 9 và đầu tiểu kiếp thứ 10.
Kinh La Hán Hộ Pháp chép rằng: “Cuối tiểu kiếp thứ 9 này, lúc mà cả nhơn
loại mỗi người chỉ sống còn có 10 tuổi là mãn đời đó, bấy giờ cả thế giới
đều nổi lên cái tai đao binh. Chỉ trong 7 ngày, toàn cả loài người tàn sát
lẫn nhau. Lúc đó (hết tiểu kiếp thứ chín) giáo pháp của đức Thích Ca phải
tiêu diệt lần. Sau cái tai đao binh 10 ngày, bắt đầu qua cái tiểu kiếp thứ
10” v.v...
27. "Kinh Thủ
Lăng Nghiêm diệt trước": Vì nghĩa lý quá ư sâu xa cao thượng mà tâm trí
của nhơn loại bấy giờ lại cực kỳ đơn giản tối tăm nên không tu học nổi
kinh pháp ấy! Ðã chẳng học nổi thì còn ai đâu hoằng truyền pháp Thủ Lăng
Nghiêm tam muội nữa, thành thử nó phải tiêu diệt trước là vậy.
28. "Thời chánh
pháp đã diệt": Kể từ ngày mà Phật nhập diệt về sau đủ một ngàn năm là cái
thời kỳ chánh pháp. Trong đời chánh pháp đó, hễ người xuất gia thụ giới
đức hoàn toàn, thuộc lòng cả 3 tạng, nhứt là tạng Luật nên giới hạnh dễ ấn
tâm truyền khẩu với nhau về cái quan điểm "giải thoát kiên cố", nên gọi là
chánh pháp; nghĩa là chánh thức giữ đúng phép của Phật. Mà ở đây nói đời
“chánh pháp đã diệt” là đã qua khỏi một ngàn năm nói trên rồi, tức là
thuộc về đời Tượng pháp: nó tương tợ chớ không được chánh thức. Vì kẻ xuất
gia phần nhiều không thuộc lòng tam tạng, chẳng giữ trọn hạnh giới, chỉ
chuyên về văn tự ngữ ngôn hơn tu chứng.
29. "Sức Tổng
Trì": Ðà La Ni (Dharani) dịch là Tổng Trì gồm giữ nghĩa là: Với việc lành
giữ không cho mất, với việc ác giữ chẳng cho gây. Thể nó là Niệm, Ðịnh và
Huệ, là chỗ của Bồ Tát tu đủ công đức. Tổng trì có bốn: 1. Pháp tổng trì
cũng gọi là Văn tổng trì: Với giáo pháp của Phật, nghe nhớ giữ không quên.
2. Nghĩa tổng trì: Với nghĩa lý của Pháp gồm giữ không cho mất. 3. Chú
tổng trì: Bồ Tát y nơi tâm định rồi khởi niệm để trì tụng thần chú, trì
chú đã được thần lực linh nhgiệm, trừ được tai nạn bịnh hoạn cho nhân dân.
4. Nhẫn tổng trì: Trí chơn thật của Bồ Tát nhẫn chịu giữ được thật tướng
của Pháp mà không cho mất. Trong Chơn Ngôn tông, Ðà La Ni đây tức là Chú
tổng trì đây vậy.
(A) "Riêng để
kinh này một trăm năm": Tức là kinh Vô Lượng Thọ cũng là kinh A Di Ðà: Về
tiểu kiếp thứ 10, trong thời kỳ tăng, bấy giờ từ 10 tuổi đó, tăng lên, đến
chừng mà mỗi người sống được 8 vạn tuổi thì kinh pháp của đức Thích Ca đều
diệt hết, chỉ còn lại A Di Ðà cũng như pháp "trì danh niệm Phật" còn lại
một trăm năm độ sanh, vì chỉ có 6 tiếng dễ học dễ tu với trình độ của
chúng sanh. Trong thời gian đó tăng đến mỗi người sống đủ 8 vạn 4 nghìn
tuổi là thời tăng đã mãn, trở lại giảm xuống đến lúc mà mỗi người sống còn
8 vạn tuổi. Bấy giờ đức Di Lặc ra đời v.v...
30. "Nguơn gia":
Niên hiệu của Văn Ðế (dương lịch 424, trước Dân quốc 1488 năm) đời Lưu
Tống miền Nam bên Tàu bấy giờ (theo dương lịch thì trong khoảng: 420 -
476).
31. "Nam Bắc
Triều": Từ đời Ðông Tấn Nguơn Ðế (317) về sau, gọi là Nam Bắc triều:
Chiếm cứ về khu vực phương Nam gọi là Nam triều, có 4 triều là: Tống, Tề,
Lương, Trần đều là Hán tộc; chiếm cứ về miền Bắc là Bắc Ngụy, Bắc Tề, Bắc
Châu. Cả Nam Bắc triều khởi từ năm Canh Thân (420) đến năm Ất Dậu (589) là
hết vì Tùy văn Ðế thống nhứt nước Tàu, lên ngôi năm ấy kỷ hiệu là Khai
Hoàng nguơn niên.
32. "Lưu Tống":
Gọi riêng về Tống Nam triều, bởi ông Lưu Dũ làm vua xưng Tống, nên gọi Lưu
Tống, để cho riêng biệt với triều Tống là ông Triệu Khuông Dẫn làm vua sau
này cũng xưng Tống.
33. "Tiên đà
bà": Với danh từ "Tiên đà bà" đủ có bốn nghĩa là: 1. Muối. 2. Nước. 3.
Ngựa. 4. Ðồ vật dụng. Chỉ có một bề tôi đủ trí thức mới có thể hiểu được.
Nghĩa là: Như lúc mà nhà vua dùng bữa, Ngài gọi rằng: Tiên đà bà thì vị
trí thần hiểu ngay là vua cần dùng muối. Lúc nhà vua tắm gội, gọi “Tiên đà
bà!”, trí thần biết liền là hoàng thượng cần dùng nước. Khi nhà vua làm
công chuyện, bảo: “Tiên đà bà!”, vị trí thần ấy rõ ngay là thánh thượng
ngài cần dùng đồ đạc gì đó. Lúc nhà vua, ngài muốn ra dạo chơi, gọi rằng:
“Tiên đà bà!” thì quan trí thần ấy tức hiểu là Thiên Tử Ngài cần dùng
ngựa.
34. "Diêm Phù
Ðề": Ðọc đủ là Diêm Phù Ðề Bệ Ba (Jampudvipa): châu Diêm Phù, nghĩa là
giữa trung tim châu này có rừng cây Diêm Phù, dùng tên cây để đặt tên cho
châu này; lại ở về phía Nam núi Tu Di nên gọi là Nam Diêm Phù Ðề bệ ba,
tức là cái châu mà loài người chúng ta ở đây. Luận Cu Xá cuốn 11 chép
rằng: “Phía Bắc núi Ðại Tuyết có núi Hương Túy, khoảng giữa 2 núi ấy, có
cái ao nước lớn, tên là Vô Nhiệt. Bên ao ấy có rừng cây Thiệm Bộ tức Diêm
Phù, hình cây rất cao lớn, trái rất ngon ngọt. Nhơn danh rừng cây ấy nên
đặt tên cho châu này là Thiệm Bộ Châu, cũng như Diêm Phù Châu”.
HẾT
--o0o---