PHẬT THÍCH CA NÓI KINH A DI ÐÀ
NGÀI VÂN THÊ LÀM LỜI SỚ SAO
*******
QUYỂN THỨ TƯ
(tiếp theo)
NAM
PHƯƠNG (phân ra làm ba phần)
1. Liệt danh hiển quảng.
2. Hiện tướng biểu chơn.
3. Pháp ngôn khuyến tín.
LIỆT DANH
HIỂN QUẢNG
Này Xá Lợi Phất!
Thế giới phương Nam có các đức Nhựt Nguyệt Ðăng Phật, Danh Văn Quang Phật,
Ðại Diệm Kiên Phật, Tu Di Ðăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật. Như vậy cả
thảy các vị Phật nhiều bằng số Hằng hà sa.
Sớ: Phật Nhựt
Nguyệt Ðăng là vì trí lớn vô cùng tận.
Sao: “Trí
lớn vô cùng tận” là kia như ánh của mặt nhựt chiếu ban ngày, mặt nguyệt
chiếu ban đêm, ánh của đèn chiếu vào những chỗ mà nhựt nguyệt chiếu không
tới, kế truyền sáng khắp, đều vô cùng tận. Trí lớn của Phật: ngang thời
suốt 10 phương, dọc thấu ba đời, cũng như ánh sáng của nhựt nguyệt thế
đấy.
Lại ánh sáng mặt
nhựt phá chỗ tối tăm có nghĩa Bát Nhã, gọi là Nhứt Thế Trí. Mặt nguyệt do
ánh mát mẻ chiếu ban đêm có nghĩa giải thoát, gọi là Ðạo Chủng Trí. Ánh
đèn tiếp nối để bổ khuyết cho nhựt nguyệt, chiếu suốt cả ngày đêm không
mắc hai bên như ngày và đêm chẳng hạn. Ðây là nghĩa đế Trung Ðạo đệ nhứt,
có nghĩa Pháp thân gọi là Nhứt Thế Chủng Trí. Vì ánh huệ sáng suốt.
Sớ: Phật Danh
Văn Quang là được tiếng khen khắp đồn, như ánh sáng chiếu xa.
Sao: Ðức Phật
lớn, tiếng rất to, cho nên có danh khen đồn khắp cả 10 phương vô lượng thế
giới như ánh sáng mặt nhựt chiếu không chỗ nào chẳng khắp.
Sớ: Phật Ðại
Diệm Kiên là: Chữ Kiên nghĩa hai vai, tiêu biểu hai trí; chữ Diệm là hực
hỡ dụ hai trí chiếu sáng.
Sao: “Hai trí”
là: Quyền trí để chiếu về sự tướng; Thật trí chiếu tâm. Lý, sự lý rõ ràng,
đều chiếu phá không mê muội, dụ như hai cái vai phát ra ánh sáng. Lại hai
trí nầy, gánh vác tất cả Phật pháp; cho nên có nghĩa là hai vai.
Sớ: Phật Tu
Di Ðăng là dùng núi Tu Di làm đèn để chiếu cả 4 châu thiên hạ; hào quang
của Phật rộng lớn cao chiếu cũng như thế.
Sao: “Núi Tu Di
làm đèn” là như nói: “Dùng núi Tu Di làm bút, dùng núi Tu di làm dùi”
v.v... là để nói cái lượng của đèn rất rộng và rất lớn.
Núi Tu Di ở
giữa, hào quang chiếu khắp bốn châu; Phật dùng trí lớn trung đạo mà chiếu
các chúng sanh như ánh đèn khổng lồ là đèn Tu Di (Tu Di là núi chúa vì lớn
nhứt thế giới vậy). Song kinh Duy Ma nói: “Có đức Tu Di Ðăng Vương Phật,
thân cao tám vạn bốn nghìn do tuần”; nhưng xét cõi nước của Ngài là ở về
phương Ðông cách đây ngoài 36 hằng hà sa thế giới. Mà nay Phật Tu Di Ðăng
nầy ở về phương Nam là do vì các Phật trùng tên với nhau rất nhiều vậy.
Sớ: Phật Vô
Lượng Tinh Tấn là: chữ “tinh tấn” giải thấy trong khoa tự phần trước,
nhưng khoa kia nói: “Thường tinh tấn”, còn văn đây nói: “Vô lượng tinh
tấn”.
Sao: “Vô lượng”
có hai nghĩa: 1. Thời vô lượng: tức là nghĩa thường; 2. Sự vô lượng là:
Tự lợi lợi tha; vì trí và hạnh vô biên cớ vậy.
Sớ: Xứng lý
thời tự tánh sáng suốt bất khả tận là nghĩa “nam phương có Hằng sa Phật”.
Sao: Nam phương
thuộc cung Ly, mà Ly là Bính Ðinh hỏa. Hỏa thời trong tối ngoài sáng;, ấy
là tịch mà thường chiếu. Tánh chơn tri bất muội, sự sáng suốt nào cùng.
Kinh Hoa Nghiêm phẩm Quang Minh Giác nói: “Hào quang đức Như Lai soi sáng
vượt khỏi một thế giới, 10 phương thế giới nhẫn đến bất khả thuyết thế
giới”. Ðấy là hào quang trong tâm của mình giác chiếu tất cả, chẳng do tự
ngoài mà đặng. Cho nên nói: “Ta thấy đức Ðăng Minh Phật, hào quang tốt của
ngài xưa cũng như thế”.
HIỆN
TƯỚNG BIỂU CHƠN
Các vị Phật, vị
nào ở nước nấy đều phóng ra tướng lưỡi rộng dài phủ khắp cả cõi Tam Thiên
Ðại Thiên thế giới.
PHÁT NGÔN
KHUYẾN TÍN
Nói lời thành
thật rằng: “Các ông và chúng sanh phải tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì
Công Ðức Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.
TÂY
PHƯƠNG (phân ra làm ba phần)
1. Liệt Danh Hiển Quảng.
2. Hiện Tướng Biểu Chơn.
3. Phát Ngôn Khuyến tín.
LIỆT DANH
HIỂN QUẢNG
Này Xá Lợi Phất!
Thế giới phương Tây có các đức: Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô
Lượng Tràng Phật, Ðại Quang Phật, Ðại Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh
Quang Phật, như vậy cả thảy Hằng hà sa số các vị Phật.
Sớ: Phật Vô
Lượng Thọ đây nhơn đồng một danh hiệu với đức Bổn Phật (Di Ðà), xưa có hai
thuyết cũng đều có lý.
Sao: “Hai
thuyết” là: Ông Linh Chi nói: “Các vị phật đồng danh nhiều lắm, quyết
chẳng phải một vị Phật do ngài Pháp Tạng tu thành. Bởi vì đức Bổn Phật đây
không lẽ tự khen mình”. Ông Từ Ân nói: “Dù cho tự khen mình, lý cũng không
hại, là do vì dẫn dắt chúng sanh khiến cho nó sanh tâm thích đẹp”. Nay
dùng cả hai thuyết nghĩa là: Cứ trong kinh Ðại Bổn qua khỏi vô biên cõi
Phật, có nhiều vị Phật đồng một danh với đức Phật Thích Ca Mâu Ni không
thể kể xiết.
Lại thầy đức
Quan Thế Âm cũng là Quan Âm Như Lai v.v...
Thế thời biết
danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ đâu những một vị Phật A Di Ðà mà thôi, mà còn
có cả trăm cả nghìn hằng vạn hằng ức không thể cùng tột các vị Phật đồng
danh hiệu nữa kia kìa.
Nếu cứ bên phần
sự của Phật; đâu đặng lấy việc phàm thường so sánh đó thì chi cho khỏi
khen mình chê người, phạm 10 tội trọng trong Bồ Tát giới ư? Kinh Pháp Hoa
Phật nói: “Ta là vị Pháp vương... đối trong các pháp đều được rảnh rang,
dọc ngang, cho, lấy, quyền, thiệt đều bày. Nếu có lợi ích cho chúng sanh
thì làm sao lại chẳng được!” Như câu "trên trời dưới trời, duy một mình ta
độc tôn"; khá đặng nói rằng: ngài tự khen mình chăng?!
Một thuyết trước
vì e người không biết các vị Phật số nhiều như bụi trần mà câu chấp một
bên như lối thành kiến!
Một thuyết sau
vì sợ người chấp chỗ không nên khen mình mà mờ ám pháp thần thông diệu
dụng của Phật nên hai thuyết đều phải lý, vốn không ngại.
Sớ: Phật Vô
Lượng Tướng là vì tướng hảo vô cùng tận.
Sao: “Tướng hảo”
là: Hoặc 32 tướng hoặc tám vạn bốn ngàn tướng (84000), hoặc vi trần tướng.
Phước đức vô lượng thời tướng hảo cũng vô lượng vậy. Xưa ngài Chí Công
hiện tướng Quan Âm có 11 mặt, ông Tăng Do là một nhà họa sĩ khéo nhứt
đương thời còn không thể giở ngòi bút vẽ đặng, huống là tướng hảo của Phật
ư?
Sớ: Phật Vô
Lượng Tràng là vì công đức cao vọi, dụ đó như cây tràng phan tột chỗ cao
vọi kia, nên gọi là “vô lượng”. Lại nghĩa vô lượng là rộng nhiều.
Sao: Chữ “tràng”
là cây phướn thuộc về cái phan, lại nói: thuộc về cây cờ. Sách San Ðịnh Ký
nói tràng có bảy nghĩa, tóm lại còn năm: 1. Nghĩa cao vọi: Ví dụ vị Phật
là ngôi rất tôn trọng. 2. Nghĩa kiến lập: Ví dụ đức Phật dùng lòng bi,
trí, kiến lập cho chúng sanh với quả Bồ Ðề. 3. Nghĩa qui hướng: Ví dụ đức
Phật là chỗ tôn ngưỡng của tất cả chúng sanh. 4. Nghĩa bẻ dẹp: Vì hàng
phục tất cả ma quân. 5. Nghĩa hết sợ: Như trời Ðế Thích bảo các vị Thiên
chúng rằng: “Các ngươi lúc đánh nhau cùng Tu La, nếu có hãi sợ thì nên
niệm tràng thất bảo của ta thời cái điều sợ kia liền diệt”; dụ đức Phật
được pháp vô sở úy: Nếu chúng sanh niệm phật liền khỏi sự sợ sệt. Với
trong năm nghĩa, nay chỉ lấy một nghĩa “cao vọi” tức gồm hết các nghĩa kia
vậy.
“Rộng nhiều” là:
Cái tràng kia nhiều đến vô lượng. Như kinh nói “tràng phan, bảo cái khắp
đầy chốn hư không”, Phật lập vô lượng nghĩa mầu chỉ bày cho chúng sanh,
cũng lại như vậy.
Sớ: Phật Ðại
Quang là vì hào quang sáng chói rộng khắp.
Sao: Hào quang
là chỗ diệu dụng của đức Phật biến hóa dạy người. Các người trời thân cũng
có hào quang, không cần ánh sáng của mặt nhựt, mặt nguyệt. Nhị thừa là bực
quả nhỏ và nhơn địa của Bồ Tát cũng đều có hào quang sáng, nhưng sánh với
hào quang của phật thời nhỏ hơn vì hào quang của Phật ánh sáng che phủ tất
cả nên nói là “đại quang” vậy.
Sớ: Phật Ðại
Minh là vì nói đức Phật dùng đại trí phá hết những phiền não mê hoặc.
Sao: “Phá hết
những phiền não mê hoặc” là Phật dùng Nhứt Thế Trí phá hết kiến hoặc, tư
hoặc. Dùng đạo chủng trí phá hết trần sa hoặc; dùng nhứt thế chủng trí phá
hết vô minh hoặc, cũng như mặt trời sáng giữa hư không, không chỗ nào
chẳng chiếu; rứa là đại minh vậy.
Tuy Phật trước
tựa hồ như giác tha, còn đức Phật đây in tuồng chỉ tự giác; nhưng với mỗi
ngài chỉ nói một đức, chứ nói nghĩa thật lẫn đủ như trong lời tổng thuyết
văn trước đã biên rành.
Sớ: Phật Bảo
Tướng là vì tướng tốt lạ lùng như ngọc báu quí trọng.
Sao: “Tướng tốt
như ngọc báu” là vì Phật có vô lượng tướng tốt, nay chỉ nói một hai tướng
mà thôi. Với tướng con mắt như trong kinh nói: “Phật có tám vạn bốn nghìn
con mắt báu thanh tịnh”. Với tướng bạch hào như trong kinh nói: “Lông
tướng bạch hào như ống lưu ly”. Với tướng trước ngực như trong kinh nói:
“Sắc vàng tử kim”. Tướng nhục kế như trong kinh nói “ngọc Chân thúc Ca”;
đó là chỗ gọi rằng: bảo tướng vậy.
Sớ: Phật Tịnh
Quang là vì đức Phật thanh tịnh phát ra hào quang sáng, lại vì hào quang
kia thanh tịnh nên gọi là Tịnh Quang.
Sao: “Thanh tịnh
phát ra hào quang” là: Nếu trí có nhiễm thời không thể phát ra hào quang
nhiệm mầu.
Nay nói đức của
Phật thanh tịnh nên mới phóng ra hào quang sáng lớn. Ví như cái thể gương
thanh tịnh, nó hay soi các hình tượng.
Hào quang thanh
tịnh kia. Vì như lửa đốt ngoài đồng nội cũng có hào quang sáng, nhưng sánh
với mặt trời, mặt trăng chẳng gọi là tịnh vậy.
Sớ: Xứng lý
thời tự tánh thanh tịnh bất khả tận là nghĩa Tây phương có Hằng sa Phật.
Sao: Nghĩa Tây
phương đã thấy giải văn trước. Bởi do tự thể của chơn như nó lặng như hư
không, tuyệt điểm thuần thanh, đâu từng có bờ mé, nhưng mảy niệm trần
thoạt khởi, Phật diệt độ đã nhiều đời. Tâm trần vừa dứt, cổ Phật liền hiện
(Phật tánh bày ra).
HIỆN
TƯỚNG BIỂU CHƠN
Các vị Phật vị
nào ở trước ấy đồng hiện ra tướng lưỡi rộng dài phủ khắp cõi Tam Thiên Ðại
Thiên thế giới.
PHÁT NGÔN
KHUYẾN TÍN
Nói lời thành
thật: “Các ông và chúng sanh phải tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công
Ðức Nhứt Thế Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy”.
BẮC
PHƯƠNG (phân ra làm ba phần)
1. Liệt Danh Hiển Quảng
2. Hiện Tướng Biểu Chơn
3. Phát Ngôn Khuyến Tín.
LIỆT DANH
HIỂN QUẢNG
Nầy Xá Lợi Phất!
Thế giới Bắc phương có các đức: Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở
Phật, Nhựt Sanh Phật, Võng Minh Phật, như vậy hết thảy hằng hà sa số các
vị Phật.
Sớ: Phật Diệm
Kiên đã thấy giải ở văn trước.
Sao: Văn
trước có chữ Ðại, nhưng nghĩa không hơn kém.
Sớ: Phật Tối
Thắng Âm là vì tiếng đức Phật rất lớn tất cả các tiếng tăm, không tiếng
nào bì kịp.
Sao: Phật có tám
thứ tiếng: 1. Tiếng cực hảo. 2. Tiếng nhu nhuyễn; nhẫn đến tiếng thứ 8.
Tiếng không dứt. Nay cứ theo tiếng cực hảo để giải cái nghĩa tối thắng
cũng có thể gồm đủ 8 thứ tiếng, cho nên kêu là Tối Thắng Âm. Thế là tất cả
tiếng cõi nhơn thiên, tiếng Thanh Văn, tiếng Bồ Tát, không tiếng nào có
thể bì kịp vậy.
Sớ: Phật Nan
Trở là vì đức của Phật bền chắc không thể phá hoại.
Sao: Chữ Trở là
tên con sông và một nghĩa nữa là hoại. Vì Phật chứng pháp thân, đã đặng
thể kim cang bất hoại, không còn các cái dư hoặc là trần sa hoặc, vô minh
hoặc nên dù phiền não nhẩy tràn, cũng không thể phá hoại; cho nên gọi Nan
Trở. Người xưa nói: “Nước Ngô thành ao kia ư?” Cũng như nói không thể
thành ao vậy. Lại nghĩa chữ Trở thông dụng với chữ Trở là ngăn dứt.
Sớ: Phật Nhựt
Sanh là hào quang khi hiện ra, cũng như mặt trời mới vừa mọc, là nói gồm
hai việc lợi.
Sao: “Hai việc
lợi” là: 1. Tự lợi: Nghĩa là tánh bản giác Phật của chúng sanh vùi lấp
trong tánh vô minh, cũng như giữa đêm khuya, ánh sáng mặt trời không hiện.
Chừng phá vọng hoặc bày trí chơn thời tánh Thỉ Giác Phật mới tỏ chiếu, ví
như mặt trời mọc phương Ðông vậy.
2. Lợi tha: Kinh
Hoa Nghiêm quyển 23 nói: Ví như ông Nhựt Thiên Tử (cũng là mặt trời mà nói
bằng tên khác) chẳng vì cớ thằng mù không thấy mà ẩn không hiện (mọc);
chẳng vì cớ thành Càn Thát Bà áng, tay thần A Tu La che, cây Diêm Phù Ðề
che khuất, cùng là gộp cao, hang thẳm, bụi mù, khói mây v.v... các vật phủ
che ẩn mà không hiện; chẳng vì cớ thời tiết đổi dời ẩn mà không hiện”.
Dụ như Phật mới
thành ngôi chánh giác thuyết pháp lợi đời, hào quang trí tuệ khắp soi cũng
như mặt trời mọc phương Ðông vậy.
Sớ: Phật Võng
Minh là vì trí như lưới báu khắp soi tất cả chúng sanh.
Sao: Chữ Võng
tức là cái lưới nghìn hột châu của trời Phạm Thiên. Ánh tia của ngàn hột
châu đều chiếu nhau, sáng lạng rỗng suốt như trí của Phật phủ khắp cả
chúng sanh, không chỗ nào mà chẳng chiếu. Lại mỗi pháp môn lẫn nhau dung
suốt vì giác ngộ cho kẻ quần mê.
Sớ: Xứng lý
thời tự tánh hàm nhiếp bất khả tận, là nghĩa: “Bắc phương có hằng sa các
vị Phật”.
Sao: Bắc phương
(Nhâm Quí thủy) thuộc về mùa Ðông. Ðông là chủ về việc thâu chứa, Ðông là
mùa rốt sau của vạn vật trưởng thành mà cũng là đầu tiên của vạn vật sanh
thành vậy. Thế nay trăm nghìn pháp môn cũng đồng về trong vuông tấc (tự
tánh); không ngằn đức dụng đều ở trong nguồn tâm.
Tìm đó thời
không tướng không hình, buông đó cũng vô cùng vô tận. Xưa nay sẵn đủ,
chẳng cần tìm đâu. Thế cho nên trong tâm của chúng sanh, tức là Như Lai
tạng tánh.
HIỆN
TƯỚNG BIỂU CHƠN
Các vị Phật,
ngài nào tự ở nước nấy, hiện ra tướng lưỡi rộng dài khắp trùm cả cõi Tam
Thiên Ðại Thiên thế giới.
PHÁT NGÔN
KHUYẾN TÍN
Nói lời thành
thật: “Các ông và chúng sanh, phải tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công
Ðức Nhứt Thế Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.
HẠ PHƯƠNG
(phân ra làm ba phần)
1. Liệt Danh Hiển Quảng
2. Hiện Tướng Biểu Chơn
3. Phát Ngôn khuyến Tín.
LIỆT DANH
HIỂN QUẢNG
Nầy Xá Lợi Phất!
Thế giới Hạ phương có các đức: Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật,
Ðạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, như vậy hết thảy Hằng hà sa
số các vị Phật.
Sớ: Sư Tử
Phật là dụ như con sư tử dẹp các thú vậy.
Sao: Sư tử có
hai nghĩa: 1. Sư tử là chúa trong các loài thú dạo đi không sợ; dụ như đức
Phật là bực độc tôn trong 6 cõi phàm, 4 cõi Thánh, ra vào trong ba cõi tự
tại không ngăn ngại. 2. Sư tử rống lên một tiếng thời trăm thú đều ghê sợ;
dụ như Phật thuyết pháp thời chúng thiên ma, bọn ngoại đạo thảy đều tín
phục.
Lại Phật không
có năm món sợ và đủ bốn món vô úy đều là nghĩa “sư tử”.
Sớ: Danh Văn
Phật giải nghĩa đồng như trước.
Sao: Văn trước
Danh Văn Quang, văn đây thiếu chữ Quang. Bởi do Danh Văn là Ðức, Quang là
dụ. Tuy Phật đây không dụ như kia, nhưng mà không khác với đức của Phật
kia.
Sớ: Danh
Quang Phật là cái danh của Phật như mặt nhựt sáng, không chỗ nào mà chẳng
khắp, cũng có thể xưng luôn; do vì cái danh tỏ rạng thời ánh sáng chói xa.
Sao: Nghĩa chữ
Quang đồng như văn trước. “Danh tỏ rạng” là như Phật A Di Ðà cái danh khen
đồn khắp 10 phương 3 đời, không đời nào chẳng chiêm bái và tưởng niệm.
“Ánh sáng chói
xa” là như Phật A Di Ðà hào quang khắp soi 10 phương 3 đời, không chỗ nào
ngăn che được.
Sớ: Ðạt Ma
dịch là Pháp, cũng gồm hai lợi.
Sao: Chữ Pháp là
nghĩa phép tắc, giữ gìn. Dùng phép tắc giữ gìn đức của mình; dùng phép tắc
giữ gìn thân chúng sanh, đều chứng đặng pháp thân.
Sớ: Pháp
Tràng là vì chữ Pháp là phép tắc, dụ như cái tràng (cây cờ nêu cao).
Sao: “Phép tắc
như tràng” là: Phật pháp cao vọi, người trời thấy đó tôn trọng; tà ngoại
trông đó kính phục, thời rõ như văn trước nghĩa Vô Lượng Tràng.
Sớ: Trì Pháp
là có hai nghĩa. 1. Giữ nghĩa trung đạo gọi là trì. 2. Giữ gìn pháp niệm
cũng gọi là trì.
Sao: “Giữ trung
đạo” là không sa về bên có, chẳng mắc về bên không, vì khéo giữ pháp mầu
của trung đạo.
“Giữ gìn” là vì
giữ phép mầu đây, khắp truyền ba đời không cho dứt mất.
Sớ: Xứng lý
thời tự tánh lượng đó càng sâu không thể tột; ấy là nghĩa “Hạ phương có
hằng hà sa các vị Phật”.
Sao: Với việc
lấy bình bát, đức Văn Thù thòng cánh tay bên hữu đưa xa xuống khỏi cõi Hạ
phương bốn mươi hai hằng hà sa thế giới; nay kinh này lại nói: “Khỏi cõi
Hạ phương bất khả thuyết Hằng hà sa thế giới”. Mà tìm trong tự tánh ví như
cầm sào thọc biển, muốn tột đáy kia rốt cuộc không thể được.
HIỆN
TƯỚNG BIỂU CHƠN
Các vị Phật,
ngài nào ở nước nấy hiện ra tướng lưỡi rộng dài khắp trùm cả cõi Tam Thiên
Ðại Thiên thế giới.
PHÁT NGÔN
KHUYẾN TÍN
Nói lời thành
thật: “Các ông và chúng sanh phải tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công
Ðức Nhứt Thế Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.
THƯỢNG
PHƯƠNG (phân ra làm ba phần)
1. Liệt Danh Hiển Quảng.
2. Hiện Tướng Biểu Chơn.
3. Pháp Ngôn Khuyến Tín.
LIỆT DANH
HIỂN QUẢNG
Nầy Xá Lợi Phất!
Thế giới Thượng phương có đức Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng
Phật, Hương Quang Phật, Ðại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân
Phật, Ta La Thọ Vương Phật, Bảo Hoa Ðức Phật; Kiến Nhứt Thiết Nghĩa Phật,
Như Tu Di Sơn Phật, như vậy hết thảy Hằng hà sa số chư Phật.
Sớ: Phạm Âm
Phật là vì tiếng của Phật thanh tịnh không tạp nhiễm.
Sao: “Không tạp
nhiễm” là: Như Phật Ngài thuyết pháp cho các thừa kia (tam thừa) đều còn
là tạp nhiễm vì pháp chưa được cứu cánh thanh tịnh. Nay Phật chỉ dùng một
pháp Nhứt Thừa dạy bảo các chúng sanh, gọi bằng thuần nhứt bất tạp, hoàn
toàn cái thể thật tướng thanh bạch phạm hạnh; cho nên nói là Phạm Âm Phật
(Phạm Âm: tiếng trong sạch).
Sớ: Tú Vương
Phật là: Một nghĩa rằng: mặt trăng là Tú Vương (sao chúa), một nghĩa nữa
chính là ngôi sao lớn nhứt giữa các ngôi sao; ví như ngôi sao Bắc thần;
hai nghĩa đều đặng.
Sao: Mặt trăng
là ngôi sao chúa, chỗ gọi rằng: Muôn ngôi sao chung sáng, chẳng bằng một
ánh chiếu của mặt trăng mà trăng thời phi đồng loại với sao. Dụ rằng Phật
là bực đại giác mà giác thời chẳng phải đồng loại với mê vì hơn tất cả các
loài bởi mọi loài còn mê, cho đến các thánh, Bồ Tát cũng chưa cứu cánh
giác!
“Chính là ngôi
sao chúa giữa các ngôi sao” là sách Luận Ngữ nói: “Ví như ngôi sao Bắc
thần ở tại chỗ nào thời các ngôi sao kia đến chầu theo đó”. Rằng dù Bắc
Thần cũng loài sao nhưng siêu hơn đồng loại để dụ rằng: Phật tức cũng
chúng sanh mà sáng suốt cao thâm hơn chúng sanh, lại làm chỗ để cho chúng
sanh qui y vì lẽ được giác ngộ giải thoát.
“Hai nghĩa đều
đặng” là: 1. Do ngôi sao với mặt trăng đối nhau, vì ánh sáng hơn nên xưng
là vương (chúa). 2. Chính trong các ngôi sao, riêng một ngôi sao này (Bắc
Thần) là hơn hết nên xưng là Vương (sao chúa).
Nay nói: Phật ở
trong dị loại thì tự tại hơn cũng như làm chúa trong dị loại vì đã giác
ngộ hơn mọi loài; Phật ở trong đồng loại và các Thánh đã giác ngộ cũng làm
pháp vương như chúa trong đồng loại vì vô thượng cứu cánh giác. Cho nên
hai nghĩa đều dùng đặng là như thế.
Sớ: Hương
Thượng Phật: Vì Phật là bực thánh sư giữa các hàng thánh như thứ hương
thơm nhứt giữa các loại hương thơm, vì trên hết cả không bực nào sánh kịp.
Sao: “Hương bực
nhứt trong các loại hương” là như hương chiên đàn; hương nầy nặng chừng
sáu thù (14) giá đáng bằng ba nghìn đại thiên thế giới.
Lại nói: Hương
nầy một phen đốt lên, ngoài 40 dặm không người nào chẳng nghe mùi thơm của
nó; ấy là hương rất trên hết vậy.
Ðức Phật chứng
đặng hương ngũ phần Pháp thân. Hương nầy khắp xông tới vô lượng thế giới;
tất cả hương của trời, người, thần A Tu La, kẻ ngoại đạo, bực nhị thừa
không thể bì kịp nên nói là Hương Thượng Phật.
Sớ: Hương
Quang Phật là: Hương kia phát ánh sáng như đoạn và trí hai đức vậy.
Sao: Ðoạn Ðức
là: Mùi hương thơm có thể trừ được mùi hôi hám, có nghĩa diệt uế; các mùi
hôi sạch hết, gọi đó là “hương”. Trí Ðức là ánh sáng hay phá được các tối,
có nghĩa trí huệ; tỏ sáng rộng soi, gọi đó là “quang”.
Lại mùi hương
thường chỉ thơm nội lỗ mũi thôi: trong hương phát ra ánh sáng thơm tới con
mắt nữa. Dụ như hàng Thanh Văn chỉ hay diệt được điều ác; có thể mà không
dụng; Phật diệt được tất cả ác nên hay đủ tất cả việc lành. Ðoạn và Trí
đều cụ túc như hương đă thơm mà lại phát ra ánh sáng nữa vậy.
Sớ: Ðại Diệm
Kiên Phật là giải nghĩa đồng như văn trước.
Sao: Tên Diệm
Kiên Phật thường có nêu ra. Chính do vì đức Phật nầy đồng danh trùng hiệu
tới vô lượng vô biên.
Sớ: Tạp Sắc
Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật là vì nhơn tu đủ nhiều hạnh tốt như hoa đẹp để
kết quả làm trang nghiêm Pháp thân thanh tịnh.
Sao: “Muôn hạnh
trang nghiêm” là: bực nhị thừa tuy chứng đặng pháp thân, nhưng nếu không
tu muôn hạnh, gọi là pháp thân suông (15); còn Phật xưng là bực nhứt thế
chủng trí là đã cần tu pháp Tứ Ðẳng, pháp Lục Ðộ, món món hạnh môn, không
môn nào chẳng nhóm đủ; chứa công dồn đức để giúp rõ pháp thân như muôn món
quí báu để trang nghiêm sắc thân. Do vì pháp thân sẵn đủ hằng sa tánh lành
đức tốt.
Sớ: Ta La Thọ
Vương Phật là: Ta La dịch là Kiên Cố, cũng dịch Tối Thắng. Vì đức của Phật
không dời đổi, là bực độc tôn giữa ba cõi dụ như cây thọ vương (16) vậy.
Sao: “Kiên cố”
là cây này gặp năm lạnh không úa tàn, búa rìu không hại nổi, có nghĩa
“kiên cố”. Như Phật chứng Pháp thân: tâm mê hoặc không thể lay, hoàn cảnh
không thể động.
Tối Thắng là cây
này cao lớn, tất cả rừng cây không thể sánh kịp. Như Phật vượt khỏi ngoài
3 cõi, là bực độc tôn giữa các thánh. Ðủ hai đức này (tối thắng và kiên
cố) gọi là cây thọ vương vậy.
Sớ: Bảo Hoa
Ðức Phật là vì đức của Phật như hoa báu.
Sao: Văn trước
nói Nghiêm Thân Phật vì chữ Nghiêm có nghĩa của Nhơn hoa.Văn đây nói Bảo
Hoa Phật, ý lấy hoa đẹp dụ đức tốt, nghĩa là: Phật đủ muôn đức, quí trọng
xinh tốt, cũng như hoa đẹp rất quí báu vậy.
Một thuyết khác
nói: Phật có bốn đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Ðức chơn Thường như hoa bằng
chất báu vì không tàn rụng.
Ðức chơn Lạc như
hoa rất quí báu vì đẹp ý người
Ðức chơn Ngã như
hoa báu vì không đối đãi với hoa ngoài
Ðức chơn Tịnh
như hoa báu vì thể nó ngời sạch, giàu có muôn đức, quí trọng xinh tốt. Khá
so đó để biết vậy.
Sớ: Kiến Nhứt
Thiết Nghĩa Phật là vì đối tất cả nghĩa của các pháp, không nghĩa nào mà
Phật chẳng biết.
Sao: “Tất cả” là
pháp thế gian và pháp xuất thế gian. Các pháp vô lượng thời nghĩa cũng vô
lượng. Có người biết nghĩa gần mà không biết nghĩa xa; có người biết nghĩa
lệch mà không biết nghĩa tròn; có người biết nghĩa chung mà không biết
nghĩa riêng; có người biết nghĩa thiệt mà không biết nghĩa quyền. Còn Phật
thì không có nghĩa nào mà ngài chẳng thấy, chẳng biết.
Như ông thái tử
Tất Ðạt Ða tên là Nhứt Thế Nghĩa Thành (17), tức là ý đây vậy.
Sớ: Như Tu Di
Sơn Phật là vì núi Tu Di là chúa các núi. Ðức của Phật vượt hẳn lên trên
các thánh tam thừa như núi Tu Di kia.
Sao: Văn trước
nói: Phật Tu Di Tướng, quyết chỉ về tướng hảo; văn đây không chỉ tướng là
vì chuyên theo đức mà nói. Hiệp lại cả muôn đức để tổ thành như núi Tu Di
kết tinh bằng các thứ báu hiệp thành nên gọi là "Diệu". Phật ở trong thiên
hạ mà tự tại độc lập như núi Tu Di cao lên trên hết, gọi là "Cao". Núi Tu
Di là chúa trong các núi, cũng như đức Như Lai là pháp vương trong ba cõi;
nghĩa ấy cũng đồng như một.
Sớ: Xứng lý
thời tự tánh ngước đó càng cao, chẳng khá tột, là nghĩa “Thượng phương có
hằng sa các vị Phật”.
Sao: Ðối với cái
đạo của Khổng Phu Tử, thầy Nhan Uyên tán thán rằng: “Ngước đó càng cao”,
nay muốn dùng để dụ: Cái tâm linh vượt khỏi, thể bặt vướng vin; ngước đó
càng gần, cao đó càng lắm.
Ngày xưa ông
Tịnh Danh qua khỏi thế giới Thượng phương cách với Ta Bà 42 hằng sa thế
giới để lấy cơm thơm (đem về làm Phật sự). Nay kinh nầy nói: lại còn qua
khỏi thế giới Thượng phương bất khả thuyết hằng sa thế giới mà tìm nơi tự
tánh. Ví như nối tre thọc trời, muốn tột trên đảnh kia rốt cuộc chẳng thể
được.
HIỆN
TƯỚNG BIỂU CHƠN
Các vị Phật,
ngài nào ở nước nấy hiện ra tướng lưỡi rộng dài khắp trùm cả cõi Tam Thiên
Ðại Thiên thế giới.
PHÁT NGÔN
KHUYẾN TÍN
Nói lời thành
thật: “Các ông và chúng sanh phải tin kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công
Ðức Nhứt Thế Chư Phật Sở Hộ Niệm nầy.
Sớ: Nhẫn trên
6 phương Phật mà sở dĩ tán thán và hộ niệm đó cũng là do vì sức bản nguyện
Phật A Di Ðà.
Sao: “Bản
nguyện” là: Kinh Ðại Bổn, ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Khi ta thành Phật,
danh đồn khắp cả mười phương vô ương số thế giới, các Phật mỗi ngày đều ở
trong đại chúng khen công đức ta với cùng cõi nước” v.v...
Nên nay Ngài
thành Phật được y như lời sở nguyện kia.
Sớ: Có người
chấp kinh Lăng Nghiêm nói: “Pháp Nhĩ Căn của đức Quán Âm hợp với giáo thể
phương nầy, còn pháp niệm Phật của đức Thế Chí chẳng dự vào bực Viên
Thông. Vì sao ngày nay khắp xa gần đều dạy pháp niệm Phật?”
Do đấy mà
nghi, chính bởi không hiểu 6 phương Phật đồng khen pháp môn niệm Phật.
Sao: Người nghi
cho rằng: Pháp môn niệm Phật đã chẳng hợp với cơ người phương nầy, lại
chẳng dự vào hội chọn lựa Viên Thông, đã ở cõi nầy hà tất niệm Phật làm
chi? Nay xem 6 phương các đức Phật đều khen kinh nầy; còn pháp niệm Phật
thời hợp cả các căn cơ trong 10 phương thế giới vậy. Kinh Ðại Bổn nói:
“Mười phương chúng sanh, hễ xưng danh hiệu ta, ắt sanh về nước ta”, phải
vậy.
Pháp Nhĩ Căn là
riêng hợp với trình độ nhơn loại mà thôi, còn pháp niệm Phật thời đều hợp
cơ cả 6 đường chúng sanh.
Kinh Ðại Bổn
nói: “Ðịa ngục, quỉ, súc sinh cũng sanh về trong cõi của ta”, thật thế.
Thế thời pháp Nhĩ Cãn chẳng gồm pháp niệm Phật mà pháp niệm Phật hay gồm
pháp Nhĩ Căn. Cho nên pháp Nhĩ Căn đây chỉ phương nầy một đức Thích Ca Như
Lai khen mà thôi; còn pháp niệm Phật kia cả 10 phương hằng sa các đức Như
Lai đều khen ngợi. Nay theo lời khen phần nhiều cớ vậy.
Và nay khắp cả
trong thiên hạ kẻ tăng, người tục, kẻ nam, người nữ, tự nhiên niệm Phật
như văn trước đã nói; thế thời pháp niệm Phật hợp cơ rất nhiều, lại còn
nghi chi nữa?
Thử lập lời dụ:
Như trong nước ta đây có trăm nghìn ấp mà kẻ sĩ tử ở trong đó phân nhau để
tập học ngũ kinh. Hoặc có một ấp kẻ sĩ phần nhiều tập học kinh Thi, hoặc
có một ấp kẻ sĩ phần nhiều học kinh Lễ; nhưng mà hiệp hội các kinh (ngũ
kinh) so chung cả nước thời sự tập học nhiều hơn hết là không chi hơn kinh
Dịch.
Nay pháp Nhĩ Căn
đây ví như kinh Thi, kinh Lễ, còn pháp niệm Phật đây ví như Châu Dịch vậy.
Sớ: Hỏi: Ðã
sáu phương các đức Phật đồng khâm khen cõi Tây phương. Vì lẽ gì đức Lục Tổ
chẳng tùy theo các đức Phật để khâm khen; trái lại tuồng như chê rằng
không có; các cớ ấy tại đâu?
Ðáp: Ðây có 4
ý: 1. Vì chỗ lập môn chẳng đồng. 2. Vì tuồng như chê, nhưng thiệt ra là
khen. 3. Chẳng vì kẻ sơ cơ. 4. Vì người biên chép có sai lầm.
Sao: Trong Lục
Tổ Ðàn kinh nói: “Người phương Ðông tạo tội niệm Phật cầu sanh phương Tây;
người phương Tây tạo tội niệm Phật cầu sanh về nước nào?” Lại nói: “Người
ngu nguyện Ðông, nguyện Tây”, người đời sau chấp theo đây rồi sanh nghi
ngờ Lục Tổ nói không có cõi Tây Phương, cho nên làm lời biện đây:
1. Câu ban đầu
“vì chỗ lập môn chẳng đồng” lại có hai nghĩa: Một là: Vả cứ sự, lý hai
môn, lời đức Lục tổ nói là môn dùng lý đoạt sự, nghĩa là chỉ dùng lý tánh;
còn về môn dùng sự đoạt lý thì thời trong các pháp môn Phật sự, không bỏ
một pháp nào. Vì chỉ dùng sự là hơn lý thì đâu đặng bác bỏ đi mà cho rằng
không có cõi Tịnh Ðộ.
Hai là đời Tấn,
đời Tống sắp về sau, người tu Phật đều đua nhau lấy việc Thiền định quán
tưởng làm cao thượng hơn làm cho ý “trực chỉ đơn truyền” gần đến mờ lấp.
Bây giờ tổ Ðạt Ma mới xướng ra cái lý đoạt sự ấy, các Tổ kế tiếp chấn hưng
thêm, chỉ muốn đạo lý ấy (trực chỉ thiền) phóng đại quang minh ra mà đạo
lý ấy không phân biệt có Phật có chúng sanh gì cả, nghĩa là chỉ một lý
tánh mà thôi. Nay pháp môn Tây phương đây chính là vì mở bày cho chúng
sanh thú hướng về Phật. Ðạo lý ấy tâm và cảnh đều tịch tịnh. Nay pháp môn
Tây phương đây chính là vì lấy nước Phật làm cảnh, phát tâm cầu sanh. Thế
tuy lý không hai nẻo nhưng các môn đình thi thiết chẳng đồng. Vì theo
thời, theo cơ, phép nó sẽ phải vậy.
Giả sử mới vừa
mở pháp Trực Chỉ lại tiếp khen pháp Tây phương, thời ý Trực Chỉ rốt cuộc
không do đâu tỏ đặng. Cho nên, biết rằng: đức Lục Tổ bên Thiền tông cùng
với các Tổ bên pháp môn Tịnh Ðộ dù rằng lập môn có khác; chớ nếu đổi lại
thì cũng đồng nhau, gọi bằng “dịch địa giai nhiên” (18).
2. “Tuồng như
chê, thiệt ra khen”: Ðức Lục Tổ ngài nói cái thuyết Ðông, Tây chỉ là để
khuyên người cốt yếu phải thiệt tâm làm lành là hơn, đừng nguyện suông vô
ích, chớ nào ngài nói không Tây phương?
Dụ như: Ðức
Khổng Tử sanh ở nước Ðông Lỗ. Người nước Tề làm ác, trong đó có kẻ ngưỡng
mộ đức Khổng Tử nên kẻ ấy cầu tản cư qua nước Lỗ. Còn như người nước Lỗ
làm ác trong đó có kẻ mộ đức Khổng Tử thì cầu tản cư qua nước nào?
Số là nói: “Hễ
làm lành là thiệt học với đức Khổng Tử”, chớ nào từng nói không nước Ðông
Lỗ?
Lời đức Lục Tổ
nói đó, lý đó chính như trong kinh nầy nói: “Ắt dùng đa thiện căn mới đặng
sanh về nước kia”, thế thời đâu đặng nói rằng ngài chê!
3. “Chẳng vì kẻ
sơ cơ” là đức Lục Tổ ngài nói: “Giới, Ðịnh, Huệ của Ta chỉ tiếp người bực
tối thượng thừa”, mà nay kẻ sơ tâm hạ phàm chỉ tự hào có chút mảy thế trí
(trí thế gian) đã coi rẻ pháp Tây phương, quấy bàn lý Bát Nhã chẳng những
vô ích mà lại hại thêm.
Cho nên quyển
Pháp Bửu Ðàn Kinh, dè chớ đưa cho kẻ sơ cơ xem đọc. Nếu trao cho người
không phải căn trí Ðại thừa thời họ liền lạc vào loài cuồng ma, thiệt đáng
thương tiếc!
4. “Biên chép có
sai lầm” là: Trong Ðàn kinh lại nói Tây phương cách đây 10 muôn 8 nghìn
dặm; thiệt là nhận lầm lấy cõi Ngũ Thiên Trúc đồng cho là nước Cực Lạc
vậy.
Ngũ Thiên Trúc
với nước Chấn Ðán (Tàu) đồng là cõi Ta Bà uế độ, nào cần phân biệt nguyện
Ðông nguyện Tây. Mà nước Cực Lạc tự cách xa Ta Bà đây đến 10 muôn ức cõi
Phật.
Số là với bổn
Ðàn kinh đều là người hậu học biên chép, đâu giữ khỏi sai lầm. Chẳng thế
thời Tổ ngài mượn cõi Tây Vức để dụ cõi Tây phương kia vậy thôi. Người xưa
nói: “Tận tín thơ, bất như vô thơ” là ý đây vậy. (Mỗi việc gì cũng đều
tin theo sách cả thì đừng có sách còn hơn, là cái bệnh cũng như đây vậy).
Huống chi với
cõi Tây Phương, nghìn Phật đồng khen. Nay lại nghi lời nghìn Phật mà tin
lời của một vị Tổ! Ôi! Với lời Phật còn không đủ tin, huống nữa là lời của
Tổ ư!??
Vậy ai là người
minh trí, hãy vì người đời giải quyết giùm tâm nghi để cho họ phát khởi
tâm chánh tín. Nơi nơi chỗ chỗ tùy ở đến đâu cũng rộng ra khen ngợi khắp
truyền tới đó; tức là thay thế cho các đức Phật ra tướng lưỡi rộng dài,
tức là trả ơn sâu cho Phật. Bằng ai trái cãi lời Phật, cố làm lời ma
thuyết thời mắc tội ngay, đâu thể nói cho hết!!!
Nay dùng một lời
dụ cho rõ: Như ở đây có người, mỗi ngày nói ra một vạn lời để chê bai một
vạn vị Phật; như thế chứa đủ một nghìn năm, người ấy tội nghiệp thiệt vô
lượng vô biên. Lại có người nói ra một lời ác bác rằng không cõi Tịnh Ðộ,
cản trở người niệm Phật, người đây tội nghiệp quá hơn người trước gấp
trăm, gấp nghìn, hàng vạn phần hơn nhẫn đến không còn số tính. Vì sao thế?
Bởi vi trần chư Phật đều tán thán cõi Tây Phương, chỉ muốn cho mỗi người
đều thành Phật. Nay riêng một mình người ấy sanh tâm phỉ báng, tức là phỉ
báng tất cả vi trần các đức Như Lai, hãm hại cho tất cả chúng sanh thường
chìm trong bể khổ chẳng đặng thành Phật. Cho nên mắc tội mới nặng như thế!
Rất phải cẩn thận lời nói cho lắm!
Sớ: Xứng lý
thời tự tánh khắp soi là nghĩa “6 phương Phật đồng khen”.
Sao: Ánh linh
thiêng tự sáng, xa tuyệt chính giữa và hai bên, Phật chiếu không riêng,
nào phân đây đó; cho nên đặng một không ngại với nhiều, chủ bạn lẫn thành
không ngại thời ngàn sai tuy cách mà chẳng khác nhau, lẫn thành thời muôn
pháp chẳng hẹn mà tự hợp hội. Thế thời 6 phương chẳng lìa nơi gang tấc
(tâm niệm); các Ðức Phật đều hiện trong đầu mảy lông. Thế thời, nay kinh
nầy đây sẽ ở chỗ nào?
THÍCH
KINH ƯNG TÁN (phân ra làm hai phần)
1. Trưng Danh (gạn danh đề)
2. Thích Nghĩa (giải thích nghĩa)
TRƯNG
DANH
Nầy Xá Lợi Phất!
Trong ý ông nghĩ sao? Cớ gì tên là "kinh Nhứt Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm"?
Sớ: Có tên ắt
có nghĩa. Nay tỏ bày nghĩa đó mới đáng vưng làm, không chỗ nghi vậy.
Sao: Ðề mục 16
chữ nay chỉ gạn 8 chữ sau là do 4 chữ "bất khả tư nghì", Phật Thích Ca
Ngài khen, nghĩa kia đã rõ.
Phật phương khác
khen, thêm 8 chữ nầy nên gạn nghĩa đó: Thế nào là Phật hộ? Và Phật niệm
bằng cách nào? Bởi vì văn trước dạy phải tin kinh nầy. Văn đây rằng: Với
nghĩa đã rõ rồi vậy sau mới tin chắc được.
THÍCH
NGHĨA (phân ra làm ba phần)
1. Văn Trì (nghe rồi giữ)
2. Lợi Ích (được lợi ích)
3. Miễn Tín (gắng sức tin)
VĂN TRÌ
Nầy Xá lợi Phất!
Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn nào nghe kinh này và nghe danh hiệu các
Ðức Phật rồi, đều phải thụ trì.
Sớ: “Nghe
kinh này” là: Lặp lại văn trước nói y, chánh, tín, nguyện và trì danh được
vãng sanh v.v... “Người nghe thọ trì” tức văn trước nói pháp tam huệ và
pháp tam tư lương, cớ vậy.
Sao: “Nghe” tức
Văn Huệ; Thọ tức Tư Huệ; Trì tức Tu Huệ. Văn tức nghĩa Tín; Thọ tức nghĩa
Nguyện; Trì tức nghĩa Hành. Rõ thấy văn trước đã giải.
Sớ: Nghe danh
hiệu chư Phật tức là lặp lại trên: “Nghe danh hiệu chư Phật ở 6 phương”.
Vì nghe kinh đã thọ trì thì nghe danh hiệu Phật cũng phải thọ trì.
Sao: Hỏi: Kinh
này “nghe danh hiệu Phật A Di Ðà làm cái nhơn vãng sanh” cũng đủ rồi, nào
lại gồm nghe danh hiệu chư Phật làm chi nữa?
Ðáp: Công đức
của Phật A Di Ðà được Hằng sa chư Phật đồng khen thời nghe danh hiệu chư
Phật, biết chư Phật khen mới tín thọ kinh nầy càng thêm thân thiết; cho
nên đều nêu vậy.
Kinh Hoa Nghiêm
quyển thứ 6 bài văn Hồi Hướng nói: “Lại ở chỗ Phật, được nghe danh hiệu
Phật, càng thêm gặp gỡ vô số chư Phật” tức là ý nghe kinh nầy và nghe danh
hiệu của chư Phật vậy.
Sớ: Kinh Ðại
Bổn nói: “Có nhiều vị Bồ Tát muốn nghe kinh này, mà không được nghe”.
Lại trong
kinh nói: “Thà ở dưới địa ngục mà được nghe danh hiệu Phật” thời biết nghe
kinh này và nghe danh hiệu chư Phật rất chẳng phải là sự dễ.
Sao: Vị Bồ Tát
muốn nghe mà chẳng được nghe thời với bực nhị thừa kẻ phàm phu ta khá biết
vậy.
Lời kệ kinh Ðại
Bổn: “Nếu đời trước chẳng tu Phước Huệ thời đối với chánh pháp đây không
đặng nghe”. Ðã từng vâng thờ các đức Như Lai nên mới có nhơn duyên được
nghe nghĩa kinh này.
“Ở dưới địa ngục
được nghe danh hiệu Phật” là: Kinh Hoa Nghiêm lời kệ nói: “Thà chịu khổ
trong Ðịa ngục mà được nghe danh hiệu chư Phật; chớ chẳng muốn sanh trong
cõi trời mà chẳng đặng nghe danh hiệu Phật”.
Nên biết kinh
nầy, với danh hiệu Phật chẳng dễ gì nghe vậy.
Nay được nghe
đó, khá chẳng tin thọ hay sao?
Sớ: Xứng lý
thời tự tánh tự giữ lấy kiểu mẫu là nghĩa nghe kinh này. Tự tánh tự giác
Bổn Phật, Thỉ Phật là nghĩa nghe danh hiệu chư Phật.
Sao: Tự tánh tự
giữ gìn lấy qui tắc của nó thời “đức tôn giả (Tu Bồ Ðề) không thuyết pháp,
ta (Ðế Thích) cũng không nghe”; thế thiệt là lý Bát Nhã. Tự tánh tự giác
chiếu lấy bổn thỉ của nó thời không danh, không tự, không thể, không tướng
thế gọi là Như Lai. Vậy thời với pháp mầu khó tin giữa thế gian đây dù
không nghe mà được đành rành tỏ rõ; với hồng danh của hằng sa chư Phật bặt
thinh mà vẫn ầm ầm bên tai. Nên nói: Với những kinh chưa nghe, tin đó
không nghi; vưng thờ chư Phật không bỏ qua vậy.
LỢI ÍCH
Các thiện nam
tử, thiện nữ nhơn đều được tất cả các đức Phật đồng hộ niệm, đều đặng bực
bất thối chuyển nơi quả a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Sớ: Vì chư
Phật hộ niệm nên đặng bực bất thối chuyển bồ đề. Nghĩa bất thối đã thấy
giải văn trước.
Sao: Văn trước
gạn hỏi: “Thế nào là hộ niệm?”, văn đây chỉ ra căn do ấy. Ý nghĩa là người
nào thụ trì kinh nầy và được nghe danh hiệu chư Phật thời được chư Phật hộ
niệm cho khiến không thối tâm.
Lại bản kinh của
nhà Ðường dịch nói: “Ắt được 10 phương 10 số Căng Già hà sa các đức Phật
đồng nhau thâu nhận”, thời chẳng phải chẳng những 6 phương mà cũng chẳng
những một số hằng sa mà thôi.
Sớ: Chữ A,
dịch: Vô. Nậu-đa-la, dịch: Thượng. Tam-miệu dịch: Chánh Ðẳng; Tam-Bồ-đề,
dịch: Chánh Giác, tức là bực Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác; nghĩa là bực
đã giác ngộ chân chánh, bình đẳng không còn bực nào hơn nữa.
Sao: Với quả vị
cứu cánh cực điểm gọi là “vô thượng”, vì đối với bực hạ nên nói không còn
bực nào cao hơn nữa. Chính xét được chân lý chắc thật nên gọi là Chánh; vì
đối với tà. Xem xét Tục đế bằng tâm bình đẳng nên gọi là Ðẳng; cũng gọi là
Biến Mãn vì không thiên lệch không phân biệt giai cấp. Chữ Giác là sáng tỏ
trong tâm mình. Chánh Giác là gồm có hai nghĩa: Vô Thượng và Chánh Ðẳng.
Nói chữ Giác đây là bực Chánh Giác Vô Thượng Chánh Ðẳng vậy.
Bởi loài xuẩn
động hàm linh đều có tánh Phật thời quả Bồ Ðề đây Phật cùng chúng sanh xưa
nay không hai. Nhưng bị vô minh là nghiệp chướng che phủ mới thành mê vọng
chấp trước phân biệt ngã, nhơn. Ðó là tà giác, chẳng kêu là Chánh. Tất cả
lục phàm đều như thế. Hàng Thanh Văn, Bích Chi chỉ phá được kiến hoặc, tư
hoặc; tuy cũng đặng đạo quả Bồ Ðề nhưng Ðạo kia chưa được trung chánh vì
chỉ tự giác. Ấy là thiện giác, không kêu là Ðẳng. Tất cả Bồ Tát đã hết
trần sa hoặc, nhưng chưa hết vô minh hoặc; tuy đặng bực chánh đẳng bồ đề,
nhưng đối với bực Phật còn kém xa, không gọi là vô thượng!
Duy một
mình Phật vọng hết giác mãn như mặt trăng đêm rằm, không còn có bực Giác
nào hơn nữa nên gọi là bực Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác vậy. Nay chỉ
trì danh hiệu Phật, nhờ Phật hộ niệm, đối với bực Giác như thế tức đặng
bất thối chuyển, nghĩa là thẳng đến đạo tràng, trọn không còn đọa trong 3
cõi và lưng chừng nơi hóa thành, quyết định thành Phật.
Kinh Ðại Bổn
ngài Pháp Tạng nguyện rằng: “Nghe danh hiệu ta rồi, với quả a nậu đa la
tam miệu tam bồ đề mà có thối chuyển ấy thời ta không thủ ngôi chánh
giác”.
Lại nói: “Do vì
đối với pháp đây, không chịu nghe nên có một ức Bồ Tát thối chuyển nơi quả
a nậu đa la tam miệu tam bồ đề”.
Sớ: Văn trước
nói: “A Bệ Bạt Trí”, chính là văn đây nói nghĩa bất thối Bồ Ðề vậy. Nhưng
trước khi vãng sanh và sau vãng sanh, ý có hơi sai khác.
Sao: A Bệ Bạt
Trí mà gọi rằng Bất Thối đó, chính là nói đối với quả Vô Thượng Bồ Ðề
không thối chuyển vậy.
Song văn trước
nói: “Người sanh nước kia đều đặng bực bất thối”.
Văn đây nói:
“Nghe kinh này và nghe danh hiệu Phật, thế đều đặng bực bất thối” thời
chẳng đợi sanh về nước kia mà trước khi chưa sanh về, tức đã đặng thành
tựu, thiện căn Bồ Ðề không thể hư hoại; huống lại sanh về kia rồi mà có
thối chuyển hay sao!
Lại có hai
nghĩa: 1. Hiện thời không thối như trên đã nói. 2. Dầu người kia ít tuổi
thọ, nhiều nghiệp chướng, chẳng đặng vãng sanh, nhưng nhờ sức chấp trì của
mình đây và sức Phật hộ niệm, ắt qua đời sau với thiện căn Bồ Ðề cũng
chẳng tan mất, rốt ráo đặng sanh về cõi Phật kia.
Người xưa nói:
“Ðời nay đã gieo các hột giống Bát Nhã này, dầu nay chưa tỏ ngộ, nhưng qua
đời sau vừa ló đầu ra, mặc dầu ở trong tánh Bát Nhã sẵn sàng thọ dụng”,
chính là nghĩa đây vậy.
Sớ: Xứng lý thời tự tánh
thường giác là nghĩa Bất Thối Bồ Ðề.
Sao: Tánh khôn
thiêng riêng chiếu, rỡ rỡ thường tri, không giảm không tăng, không đắc,
không thất, Bồ Ðề tức ta, ta tức Bồ Ðề, tấn còn không có làm gì có thối?
MIỄN TÍN
(phân ra làm ba phần)
1.
Nhơn văn tín thọ (nhơn nghe tin chịu)
2.
Tùy nguyện đắc sanh (theo nguyện sanh về)
3.
Tổng kết tín nguyện (gồm kết nguyện tin)
NHƠN VĂN
TÍN THỌ
Thế cho nên, này
Xá Lợi Phất! Các ông đều phải tin chịu lời của ta và lời nói của chư Phật.
Sớ: “Ðều phải
tin thọ”: ấy là lời khuyên lần thứ ba. Có người phân cho đoạn văn đây
thuộc về phần lưu thông, nhưng nay cũng để thuộc về phần Chánh Tông vì do
nương văn trên, chính khuyên người tín thọ khiến đặng vãng sanh. Hai văn
trước đều khuyên phát nguyện. Văn đây lại khuyên tín thọ.
Sao: “Khuyên lần
thứ ba” là: Văn trên nói: “Nghe lời nói ta đây, chỉ phải trì danh thời
đặng sanh”, nhưng chưa rõ: thối hay là không thối. Văn đây nói: “Chẳng
những đặng vãng sanh mà với quả Vô Thượng Bồ Ðề ắt hằng không thối
chuyển”.
Như thế thời
nguyện càng thêm thiết, cho nên nói ba lần khuyên chưa thuộc phần lưu
thông là do Tín, Nguyện, Vãng Sanh là cang yếu trong bộ kinh này. Văn sau
trùng trùng khuyến tín, khuyến nguyện, phân thuộc phần Chánh Tông đối với
nghĩa là đúng.
“Các ông” là
chính chỉ ông Thân Tử nhẫn đến đại chúng hiện tiền và gồm tất cả các chúng
sanh đời vị lai v.v..
Bởi vì với một
vị Phật ngài nói đã tin chắc, huống chi chư Phật đồng khen, lại còn nghi
chi. Tín, Hạnh, Nguyện ba món, không đặng thiếu một, cho nên văn trước
khuyến nguyện, văn đây lại khuyến tín.
Lại khuyến là
gì? Văn trước, trong văn 6 phương Phật đã khuyên phải tin kinh này.
Văn đây lại nói
rành: “Phải tin lời ta”. Bởi vì không nguyện là do trong tâm không tin.
Không tin thời không do đâu khởi hạnh tu. Cho nên đối với trong kinh này,
Phật Ngài trùng trùng khuyến tín.
Như kinh Ðại Bổn
nói: “Người không tin lời Phật nói chính người đó trong ác đạo mới tiến
hóa ra, tội thừa chưa hết, ngu si, bất tín, chưa đặng giải thoát”.
Lại ngài Pháp
Tạng nguyện rằng: “Hết lòng tin mến muốn được về cõi của ta, 10 tiếng niệm
Phật ắt được sanh về, duy trừ tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp”. Báng
chánh pháp là nghĩa “bất tín” vậy.
Lại kinh Văn Thù
Bát Nhã như văn trước đã dẫn, rốt sau cũng nói rằng: “Duy trừ người bất
tín”. Lại kinh Hoa Nghiêm nói: “Tin là gốc của Ðạo, tin là mẹ sanh ra công
đức” mà Phật lại nói mãi không thôi, đâu luống vậy ư?
Ngài Thanh Lương
Ðại Sư nói: “Ông Cao Tề Ðại Hạnh Hòa thượng tôn sùng pháp niệm Phật dùng 4
chữ dạy bảo, nghĩa là: hai chữ “tin nhớ” không lìa trong tâm, hai chữ
“kính niệm” không lìa nơi miệng. Sanh về Tịnh Ðộ cần yếu phải có tâm tin.
Nghìn người tin thời nghìn người được sanh về, muôn người tin thời muôn
người được sanh về. Tin danh hiệu Phật thời chư Phật liền cứu, chư Phật
liền hộ niệm. Tâm thường nhớ Phật, miệng thường niệm Phật, thân thường
kỉnh Phật mới gọi là thâm tín. Mặc ý sớm hay muộn gì quyết không có phép
nào lại trụ trong cõi Diêm Phù Ðề này”. Văn đây khuyên người đời phát tín
tâm rất là thiết yếu.
Sớ: Tín là
nghĩa “không nghi”, Thọ là nghĩa “tin rồi lãnh nạp không quên”. Tín mà
không Thọ cũng như không Tín vậy.
Sao: “Tín mà
không thọ lãnh”: Ví như có người đem cho vật báu rất tin không nghi, song
mà cứ cự mãi không nhận lấy, dầu tin cũng chẳng ích gì! Cho nên nói “cũng
như không tin” vậy.
Sớ: Lại chữ
tín tức là tâm thanh tịnh như trong bộ Duy Thức đã nói.
Sao: Trong Thành
Duy Thức Luận nói: “Ðức Tín tánh cách nó là tâm tịnh”, nghĩa là đối với
chỗ thật đức hay thâm nhẫn ưa muốn (bởi có trí huệ tin hiểu thấy được lý
chân đế, nên gọi chỗ thật đức). Thế nào là tâm tịnh? Vì tâm thù thắng
vậy. Như ngọc Thủy Thanh hay làm cho nước đục được trong.
Lại trong các
món nhiễm, mỗi món đều có hình tướng; chỉ có tâm bất tín tướng nó vẩn đục,
lại hay khuấy đục đến các tâm vương, tâm sở. Tỷ như vật rất nhơ vì nó đã
làm nhơ mình lại nhơ lây người khác. Nếu tâm tín chính là đổi được cái
tướng nhơ kia, nên lấy tâm tịnh làm tướng.
Nay người tu
Tịnh Ðộ chủ về tâm tịnh; tâm tín là việc gấp cũng rõ lắm rồi.
Sớ: Xứng lý
thời tự tánh bản lai vẫn là Phật là nghĩa “tín thọ”.
Sao: Kinh Hoa
Nghiêm nói: “Bực Thập Tín toàn dùng quả Phật làm tín tâm của mình” (mỗi
bực giữ 10 tín).
Bởi do Phật tức
là tâm, cho nên trong tâm chúng sanh, mỗi niệm mỗi niệm thường có tánh
Phật thành ngôi chánh giác. Nên người mà dấy lòng tin như vậy thì đối với
ý mầu chốn Kỳ Viên, lời nhiệm của nghìn vị Phật, chỉ một thời người ấy đã
thụ trì tất cả.
TÙY
NGUYỆN ÐẮC SANH
Nầy Xá Lợi Phất!
Nếu có người trước đã phát nguyện, nay đương phát nguyện, hoặc sau sẽ phát
nguyện để muốn sanh về nước Phật A Di Ðà kia thì các người đó đều đặng bực
bất thối chuyển đối với quả a nậu đa la tam miệu tam bồ đề nơi cõi nước
kia, hoặc đã vãng sanh, hoặc nay vãng sanh, hoặc về sau sẽ vãng sanh.
Sớ: Văn trước
nói: “Tín, Thọ”, văn đây nói: “Tin rồi phát nguyện vãng sanh” vậy. Ðã
nguyện, nay nguyện và sau nguyện là phối với ba thời quá khứ, hiện tại và
vị lai.
Nói ba thời
kỳ đó để rõ rằng: Hễ có nguyện, không một người nào mà chẳng vãng sanh.
Sao: “Ðã phát
nguyện, đã vãng sanh” là: Thì trước khi Phật nói kinh này, đã có người cầu
nguyện sanh về nước kia, đã được vãng sanh rồi.
“Nay nguyện, nay
sanh” là chánh thời kỳ Phật còn tại thế vậy.
“Sau nguyện, sau
sanh” là: Nghe kinh này vừa rồi, mãi cho đến ngày nay, ngày sau và đời sau
nữa....
Văn trước nói:
“Bất thối Bồ đề”, văn sau nói người đặng vãng sanh đó rõ ràng: “Hễ người
phát nguyện thời ngay đương đời đây đã thuận theo đường Chánh Giác rồi,
huống đã đặng vãng sanh ư?”
“Không một người
nào chẳng được sanh” là: Rõ nói những người vãng sanh rất nhiều đến vô
lượng.
Hỏi: Người được
sanh đã nhiều vô lượng, nay sao tình cờ mới thấy có một người?
Ðáp: 10 phương
thế giới đông như số vi trần, những người vãng sanh kia nào ai biết được
số hạn. Nay ngươi chỉ thấy cõi Ta Bà chớ không thấy nhiều cõi như số vi
trần trong 10 phương.
Lại hỏi: Người
sanh đã nhiều vô lượng; cõi kia làm sao mà chứa cho hết?
Ðáp: Biển cả
chứa trăm sông mà chẳng tràn, gương sáng trùm muôn tượng còn có dư, huống
cõi Tịnh Ðộ ư? Tức tâm là tịnh độ, tức độ là tâm vì lẽ lấy qui về tâm thì
nào lại chẳng chứa hết?
Sớ: Xứng lý
thời tự tánh nó chẳng phải quá khứ, vị lai và hiện tại là nghĩa “đã sanh,
nay sanh và sau sanh”.
Sao: Muôn năm
thâu vào trong một niệm thì xưa nào mà chẳng phải nay? Một niệm suốt đến
muôn năm thì nay nào chẳng phải xưa? Thế thời mỗi niệm mỗi niệm dạo đi
nước Cực Lạc, mỗi giờ mỗi giờ ra mắt Ðức Từ Tôn, đâu chẳng phải vãng sanh
đấy? Tâm quá khứ không thể đặng. Ðã không tâm ấy còn ai nữa mà vãng, mà
sanh, nhưng không sanh mà sanh. Ðó là cái nghĩa “đã sanh, nay sanh và sau
sanh”.
TỔNG KẾT
TÍN NGUYỆN
Thế nên này Xá
lợi Phất! Các gã thiện nam tử, thiện nữ nhơn, nếu có người tin cần phải
phát nguyện để nguyện sanh về cõi nước kia.
Sớ: Văn trước
nói: “Có nguyện thời ắt có sanh” thời nhơn quả rõ ràng, chỉ e người không
tin cùng người tin mà không nguyện sanh, cho nên tổng kết tâm tín và
nguyện, nghĩa là nếu ai không tin thì thôi, còn nếu có người tin thì nên
phát nguyện sanh về nước kia. Ðây là lần khuyên thứ tư.
Sao: “Lần khuyên
thứ tư” là: Từ lần khuyên ban đầu đến lần khuyên thứ hai đều nói: “ Phát
nguyện cầu sanh”, đến trong lần khuyên thứ ba lại nói rõ ràng: “Nguyện là
từ tâm tín mà khởi”. Như trên ba lần nói chỉ là khuyên nói cần phải phát
nguyện, nhưng chưa nói rõ công đức phát nguyện.
Văn đây nói:
“Ðời quá khứ, đời vị lai và đời hiện tại, hễ có người nguyện, không một
người nào mà chẳng được sanh”, mới biết cái nguyện lực rộng lớn như thế,
đâu đặng không tin, đâu đặng không nguyện? Nên nói bốn lần khuyên và nói
lời tổng kết.
Ngài Trí Giả
nói: “Ngục Hỏa xa hiện tướng còn đặng vãng sanh”. Huống chi giới, định
ròng tu, công chẳng luống uổng. Ðây là lòng tin rất tột vậy.
Ngài Vĩnh Minh
nói: “Kiếp đá còn có thể mòn, chớ nguyện ta không bao giờ thay đổi”; đây
là lời nguyện rất rộng vậy.
Sớ: Xứng lý
thời tự tánh Như và Trí thầm hiệp, ấy là nghĩa “trí và nguyện đều thành”.
Sao: Thuần nhiên
chơn thật mà không luống là nghĩa “tự tánh chơn như” vậy. Thế nên gọi là
Tín. Xí nhiên tưng bừng sanh ra mà không cùng tận ấy là nghĩa “tự tánh trí
huệ” vậy; thế gọi là Nguyện.
Như hiệp với
Trí; Trí hiệp với Như. Ngoài Trí không Như, ngoài Như không Trí. Văn Thù
là bực Tín Thủ sẵn đủ trong nhứt tâm, Phổ Hiền là bực Nguyện Vương, cũng
không rời trong nhứt niệm.