PHẬT THÍCH CA NÓI KINH A DI ÐÀ 
NGÀI VÂN THÊ LÀM LỜI SỚ SAO 
---o0o---
QUYỂN THỨ NHỨT
(tiếp theo)
 
SỞ BI 
GIAI PHẨM (phân ra làm hai phần)
                             1. Liệu giản (So chọn)
                             2. Tổng thâu (Tóm thâu)
 
1. LIỆU 
GIẢN
 
CHÁNH 
VĂN: Ðã biết kinh Di Ðà đây văn dón, nghĩa đủ, lời gần, ý xa. Nhưng chưa 
rõ nó sẽ giúp cho căn khí nào và có bao nhiêu từng bậc?
Trước 
nói về cách (Liệu Giản) là so chọn để phân biệt, thì ban đầu (kế sau là 
giai cấp) là ba hạng người không phải căn khí: 1. Người vô tín; 2. Người 
vô nguyện; 3. Người vô hạnh; trái lại, đều là người có căn khí (căn cơ).
 
CHÚ 
GIẢI: Trước nói căn khí có phải, có quấy. Sau phân biệt giai cấp, có 
thắng (hơn), có liệt (thua), cốt yếu là muốn cho chúng sanh biết, đặng 
buông quấy, theo phải, bỏ liệt, dùng thắng.
          Tín  là tin rằng 
chúng sanh với Phật không hai; chúng sanh niệm Phật chắc đặng vãng sanh, 
rốt ráo thành Phật. Như trong kinh đã nói: "Các ngươi đều phải tin theo 
lời ta". Phải vậy!
          Nguyện là vì tin 
đây không phải chỉ tin suông. Mà phải như con nhớ mẹ, nhìn theo trìu mến, 
quyết muốn vãng sanh như trong kinh đã nói: "Nên phải phát nguyện, nguyện 
sanh về quốc độ kia". Thật thế!
          Hạnh là vì 
nguyện không phải chỉ nguyện suông, cần phải thường hành tinh tấn, mỗi 
niệm nối nhau không gián đoạn. Như trong kinh đã nói:  "Phải chấp trì danh 
hiệu để niệm cho được nhứt tâm bất loạn". Thật vậy.
          Ba việc nầy gọi 
là "ba món tư lương"; tư lương chẳng đủ, không mong gì đi tới trước. Lại 
nữa ba món này như cái đỉnh có ba chơn. Hoặc đều không, hoặc có một thiếu 
hai; hoặc có hai thiếu một, đều không thể đứng vững được.
          Lại dùng lời dụ 
để rõ: Ví như với năm giống lúa, người không tin là không tin ngay nơi hột 
giống lúa nầy, là bây giờ trồng bón giống đây, chắc sau đặng thành lúa.
          Người có tín mà 
không nguyện: Tuy có biết giống tốt mà không có tâm mong cầu gì đến lúa. 
Người có nguyện mà không hạnh: Tuy có mong cho được lúa, mà không cần mẫn 
cày cấy. Với ba món này, hoặc toàn không, hay lẫn thiếu một hoặc hai; xét 
theo văn nói trên, nên biết (là không được).
          Ba hạng người 
này, đều tỷ dụ như món đồ hư bể, không đựng được pháp vị cam lồ nên gọi là 
Phi Khí.
          Lại nữa, người 
đời tuy làm các việc từ thiện, nhưng đối với cõi Phật kia, họ không có 
Tín, Hạnh, Nguyện, cũng gọi là hạng người Phi Khí. Mặc dầu người có tội 
lỗi, nhưng đối với cõi Phật kia có đủ Tín, Hạnh, Nguyện cũng gọi là người 
phải căn khí.
          Với câu "Trái 
lại đều là căn khí", như văn sau sẽ nói rõ.
          
          CHÁNH VĂN:  
Trong những món đồ phải căn khí lại còn tùy mỗi căn cơ mà có ra từ "Bối" 
từ "Phẩm" thành ba, thành chín; chín lại nhơn chín; ba lại nhơn ba, phân 
tích nhiều lần từ ngành ra nữa thì phải nhiều đến vô lượng.  Như trong  
hai bộ nói rõ.
 
          CHÚ GIẢI:  
Tiếp theo nói về giai cấp. "Bối" là trong kinh Ðại Bổn nói ba bối. Phẩm là 
trong Quán kinh nói chín phẩm. Cho nên nói là ba, là chín.
          Trong ba "bối", 
mỗi "bối" có ba thì thành ra chín "bối".
          Trong chín phẩm, 
lại mỗi phẩm có chín thì thành tám mươi mốt (81) phẩm. Bối đã không cùng. 
Phẩm cũng không tột thì thành ra trăm nghìn vạn ức "Bối" và "Phẩm", cho 
nên nói: “Cũng đến vô lượng”.
          Ðối với cái lẽ:  
Ðều gọi tu niệm Phật, đồng được vãng sanh. Sở dĩ có phân ra nhiều Bối, 
Phẩm như vậy là do giữa giới tu niệm có sự, có lý, công hành trì hoặc trễ 
hoặc siêng, thành thử tùy theo nhơn nào thì kết quả nấy, nên với ngôi bực 
nó phải sai khác. Cho nên kinh Niết Bàn nói: “Cũng một pháp thập nhị nhơn 
duyên từng không hai pháp, nhưng mà người bậc hạ trí quán tu thì được đạo 
quả Thinh Văn. Người bậc trung trí quán tu thì được đạo quả Duyên Giác; 
người bậc thượng trí quán tu thì được đạo quả Bồ Tát.  Người bậc thượng 
thượng trí quán tu thì được đạo quả Phật”.
          Cũng như câu: 
“Ðồng một thức ăn trong một bát, chư thiên thọ dụng có ngon dở khác nhau; 
cùng một dòng sông, 3 thú lội qua có sâu cạn không đồng” (117) đâu có dối 
được.
          Vả lại ta tự phụ 
là người lợi căn (sáng suốt), nghe nói pháp niệm Phật, hoặc đem lòng khinh 
dễ, đâu biết Bối và Phẩm có cao có thấp là cốt ở nơi người mà thôi. Nếu 
quyết không niệm Phật thì phần ngu dốt để lại cho người vậy. Còn kẻ hiếu 
kỳ ỷ giỏi, xin bình tâm suy nghĩ lại!!
 
2.  TỔNG 
THÂU
 
          CHÁNH VĂN: 
Tổng thâu là cứ niệm danh hiệu Phật ắt được vãng sanh về nước kia: Thì ra 
hoặc cao, thấp, hoặc thánh, phàm; cho đến hoặc tin, nghi, khen, chê, miễn 
biết có đức Phật kia là thành được thiện căn rồi, dù lâu đến nhiều kiếp, 
nhiều đời, đều nhờ đó sẽ được giải thoát.
          
          CHÚ GIẢI: 
“Hoặc cao, hoặc thấp” là do sanh phẩm thượng liền được quả Phật, còn sanh 
ở phẩm hạ, phước cũng hơn cung trời (118).
          Thế thì phẩm vị 
tuy khác, nhưng cũng đều được bậc bất thối cả.
          “Hoặc Thánh, 
hoặc phàm” là dù hạng phàm phu đủ điều ràng buộc (119) nhưng miễn được 
vãng sanh thời đồng ngôi với các vị Bồ Tát cu hội một nơi rồi, thế nào 
cũng sẽ thành quả Thánh. Ðây là nói theo lối thuận.
          Dưới đây nói 
tin, nghi, khen, chê gồm cả thuận và nghịch không một hạng nào mà chẳng 
được lợi ích.
          Hỏi: Người tin, 
người khen được như thế là phải, còn người nghi, người chê vì sao cũng nói 
có căn lành?
          Ðáp: Ông Thường 
Bất Khinh Bồ Tát thọ ký cho mỗi người được làm Phật. Người nghi không tin 
đến nỗi đánh mắng ông, nhơn đó chúng bị đọa vào địa ngục. Từ trong địa 
ngục ra rồi, rốt cuộc cũng được thành đạo. Ðây đâu chẳng phải đánh, mắng 
là từ nghi sanh ra? Nghi từ biết sanh ra? Biết từ nghe sanh ra? Vì nghe 
biết có Phật rồi mới sanh nghi. Nếu không nghe biết thì nghi từ đâu mà có? 
Nhơn vì nghe biết thì một chữ Phật, đã chứa trong tạng thức, như gieo 
giống xuống đất bỗng gặp mưa, sương thấm nhuần sẽ có ngày nứt mầm, mọc 
mộng. Người chê Phật cũng nghĩa như thế. Nên nói hễ biết có Phật đều thành 
thiện căn, rồi rốt cuộc cũng được giải thoát; nếu không nghe, không biết 
thì không thành hột giống lành.
 
NĂNG 
THUYÊN THỂ TÁNH (Phân ra làm bốn phần)
                             1.  Tuỳ tướng: Theo tướng văn tự....
                             2.  Duy thức: Chỉ có thức biến...
                             3.  Qui tánh: Ðều về tự tánh...
                             4.  Vô ngại: Sự lý vô ngại... 
 
1.  TÙY 
TƯỚNG
 
          CHÁNH VĂN: Ðã 
biết kinh Di Ðà này trùm khắp các cơ, nhưng chưa rõ lý năng thuyên lấy gì 
làm thể tánh? Y theo xưa lần lượt chia ra làm mười môn. Xét tận gốc, tóm 
lại thành bốn môn. Trước nói Tùy tướng, trong ấy lại chia ra làm hai:
                   1.  
Thinh, Danh, Cú, Văn.
                   2.  
Nghĩa sở thuyên
          Do vì văn với 
nghĩa đều thuộc về tướng văn tự.
 
          CHÚ GIẢI: 
Lần lượt chia ra mười môn (121) rõ thấy trong lời Huyền Ðàm của kinh Hoa 
Nghiêm. Ngài KHUÊ PHONG đối trong ấy tóm ghép lại làm thành bốn môn:
          1. Thinh, Danh, Cú, Văn, là cứ theo kinh 
giáo Ðại thừa, Tiểu thừa, hoặc có kinh dùng Thinh làm giáo thể; hoặc có 
kinh dùng Danh, Cú và Văn thân để làm giáo thể.  Nay theo Ngài Thanh Lương 
đại sư dùng hết bốn món. Lấy Thinh làm giáo thể; Danh là thứ lớp, hàng ngũ 
để giải tự tánh của pháp; Cú là thứ lớp sắp đặt để giải sự sai biệt của 
pháp; Văn là thứ liên hợp, kết làm chỗ nương cho hai món trên. Danh, Cú, 
Văn ba món đây tráo trở cho tiếng nói hình dung tỏ rõ ra. Bởi chỉ có một 
Thinh thì không thể giải rõ nghĩa được; còn riêng Danh, Cú, Văn thì không 
có tự thể; cho nên gồm cả bốn món nầy mới đủ làm giáo thể, do gồm cả giả, 
thật, thể, dụng giúp nhau vậy.
          2. Nghĩa sở 
thuyên là:  Thinh, Danh, Cú, Văn bốn món này nếu không có nghĩa gì để làm 
chỗ sở thuyên (bị nói) thì đồng như thiên vận (122) suông, chớ không có ý 
vị chi cả. Còn nếu chỉ có nghĩa suông mà không có văn tự thời lý mầu do 
đâu để được hiển bày. Bởi thế cho nên văn tự tùy theo nghĩa, nghĩa tùy 
theo văn tự. Văn nghĩa lẫn giúp mới thành giáo thể.
          Vì vậy cho nên 
kinh này từ câu "Như thị ngã văn" đến câu "Tác lễ nhi thối", đó là cái thể 
của Thinh, Danh, Cú, Văn mà trong đây nói những y báo, chánh báo, tín, 
nguyện, vãng sanh v.v... là những nghĩa sở thuyên vậy.  Dùng cả hai món 
này (văn nghĩa) nương lẫn nhau để làm giáo thể.
          
          CHÁNH VĂN:  
Lại nếu cứ mỗi pháp để hiển nghĩa thì không một pháp nào không phải là 
Phật sự, như cơm thơm, hào quang v.v... Nên biết mỗi pháp đều làm giáo thể 
được cả.
 
          CHÚ GIẢI:  
Pháp hay hiển nghĩa thì mỗi pháp tự bày, chẳng đợi văn tự. Như kinh Hoa 
Nghiêm nói đài mây, lưới báu, mao khổng (lỗ chơn lông) hào quang đều có 
thể thuyết pháp cả.  Kinh Tịnh Danh nói có thế giới Phật dùng cơm thơm làm 
Phật sự (123), có thế giới Phật dùng hào quang làm phật sự, cho đến một 
sắc, một cử, một động, không có một pháp nào mà không phải Phật sự v.v... 
Nay kinh Di Ðà này thì nước, chim, cây, rừng, đều diễn tiếng pháp (pháp 
âm) vi diệu. Thế thì tùy lấy một pháp mà dùng cũng đều thành giáo thể cả.
 
2.  DUY 
THỨC
 
          CHÁNH VĂN:  
Duy thức là văn đây, nghĩa đây đều do thức biến hiện mà có bổn ảnh cả bốn 
câu.
 
          CHÚ GIẢI:  
Bốn câu là:  
1. Duy có 
bổn chất, không có ảnh tượng (124) tức là Tiểu thừa giáo. Vì hàng Tiểu 
thừa không biết giáo pháp đều do thức biến hiện nên nhận rằng đức Như Lai 
có thuyết pháp.
          2. Cũng bổn 
chất, cũng ảnh tượng, tức là Thỉ giáo. Vì do đức Phật tự diễn giảng nào 
văn, nào nghĩa đều từ nơi Diệu Quán Sát trí (125) của tịnh thức thứ sáu 
hiện ra gọi là "bổn chất giáo” (126). Người nghe thì từ trên thức biến ra 
nghĩa, gọi là "ảnh tượng giáo" (127). Vì chư Phật và chúng sanh lẫn nhau 
làm tăng thượng duyên (128).
          3. Chỉ có ảnh 
tượng, không có bổn chất, tức là Chung giáo. Vì lìa tâm chúng sanh, thì 
không có Phật, duy dùng lòng đại bi, đại trí làm tăng thượng duyên, khiến 
trong tâm chúng sanh căn cơ đã thuần thục kia, hiện ra Phật thuyết pháp. 
Thế nên Phật giáo toàn là ảnh tượng trong tâm chúng sanh.
          4. Không phải 
bổn chất, không phải ảnh tượng, tức là Ðốn giáo.  Chẳng những ngoài tâm 
không Phật, mà ảnh tượng trong tâm chúng sanh cũng không; do vì chơn tánh 
vốn dứt hẳn văn tự, ngôn thuyết, tức là giáo mà không có giáo. Như câu: 
“Tôn giả (Tu Bồ Ðề), không thuyết pháp; tôi (Ðế Thích) cũng không nghe” 
(129). Kẻ thuyết và người nghe đều không, chỉ có duy thức mà thôi.  Nên 
lấy thức làm giáo thể vậy.
          Nay kinh này căn 
cứ theo hai giáo Chung và Ðốn thì trong tâm chúng sanh ưa xuất ly cõi khổ, 
tự trong tâm thấy có Phật giảng thuyết nào y báo, chánh báo, tín, nguyện, 
vãng sanh, Cực Lạc mà kỳ thuật không thuyết, không nghe, nên dùng thức làm 
giáo thể.
 
 
3.  QUI 
TÁNH
 
          CHÁNH VĂN:  
Qui tánh là trước lấy môn cảnh nơi sở biến để qui về tám thức nơi năng 
biến. Nay đem tám thức sở hiện qui về nhứt tâm năng hiện. Thế là lấy tánh 
làm giáo thể.
 
          CHÚ GIẢI: 
Nhứt tâm là gì? Tức là tự thể Chơn Như. Vậy từ Chơn Như đây lưu xuất ra 
các giáo pháp nên hội các tướng về một tánh (Chơn Như). Thời chỗ gọi rằng: 
Phần Trùng Tụng vẫn Chơn Như, phần Thọ Ký cũng Chơn Như, luôn 12 phần giáo 
tất cả đều Chơn Như. Sắp về trên lần lựa xét tầm giáo lý chơn thật, rốt 
ráo tột đến nơi đây. Ví như cảnh vật không lìa chiêm bao, chiêm bao không 
lìa người ngủ.
          Lời Sớ kinh Viên 
Giác nói: “Chúng sanh và giáo pháp vốn không. Tất cả duy có thức biến; 
thức lại như huyễn thuật, như mộng mị, chỉ là nhứt tâm”.  Thế là dùng tự 
tâm làm giáo thể.
          Nay kinh này, Y, 
Chánh, Nguyện cả các pháp, nào văn, nào nghĩa rốt ráo đều về lý "Nhứt Tâm 
Chơn Như". Cho nên bực cổ đức nói: “Các kinh đại thừa đều dùng một "Thật 
Tướng" để ấn chứng làm giáo thể của kinh”.  Kinh này dùng "nhứt tâm bất 
loạn" tức là Thật Tướng tức là Chơn Như. Thế thì hiệp lại hai môn (Tùy 
Tướng, Duy Thức) trước lại hội qui về Nhứt Tâm để làm giáo thể.
          
4.  VÔ 
NGẠI
 
          CHÁNH VĂN: Vô 
ngại là Tâm, Cảnh, Sự, Lý vốn tự thông suốt lẫn nhau. Cảnh và Sự gọi là 
Tùy Tướng. Tâm là Duy Thức. Lý là qui tánh, đều giao triệt với nhau.
 
          CHÚ GIẢI:  
“Giao triệt” là do một tâm vẫn có; hai môn là sanh diệt và Chơn Như, vì 
Chơn Như tức là sanh diệt, cho nên Lý nó không ngại gì với Sự, cảnh và tâm 
sanh diệt tức là Chơn Như, cho nên Sự, Tâm và Cảnh không ngại gì với Lý.
          Nay kinh nầy nói 
Tâm tức là Ðộ, thời vẫn một niệm vô vi mà không ngại gì với Ao, Lầu, Chim, 
Cây khắp bày, bủa giăng, hễ chúng sanh tin ưa, tùy nguyện vãng sanh. Ðộ 
tức là Tâm thì đủ cả thất bảo trang nghiêm mà cũng không ngại với toàn thể 
không tịch (vắng lặng), chẳng dính mắc một mảy trần, thật không có chúng 
sanh, sanh về nước kia. Thế là dùng cả tâm, cảnh, sự, lý dung nhiếp lẫn 
nhau làm giáo thể. 
 
TÔNG THÚ 
CHỈ QUI (phân ra làm ba phần):
                             1.  Tổng trần (Chung bày tông thú)
          
                   2.  Dị giải (Giải riêng tông thú)
                             3.  Chánh ý (Chính tông thú kinh nầy)
 
1.  TỔNG 
TRẦN
 
          CHÁNH VĂN: Ðã 
biết kinh đây về cái thể Năng Thuyên của nó bao trùm như thế, nhưng chưa 
biết chỗ tông thú của kinh như thế nào?  Luận rằng: Chỗ trọng của lời nói 
gọi là tông, chỗ qui về nơi tông gọi là thú, nhưng có Thông (chung) và 
Biệt (riêng). Luận về Thông thời Phật giáo lấy chữ nhơn duyên làm Tông.  
Biệt, thời y theo xưa chia ra mười môn (130): 1. Từ môn "Ngã pháp cu hữu" 
đến môn thứ mười là "Viên dung cụ đức". Sau lại sau; trước; thứ lớp có cao 
và thấp, cho nên kinh nào cũng đều có Tông và Thú.
 
          CHÚ GIẢI: 
“Trọng” là chuộng. Vì thánh nhơn lập giáo lời lẽ trong một bộ kinh, chuộng 
trọng về chỗ nào thì chỗ chuộng trọng ấy là Tông. Qui là đến, đến chỗ lập 
ra Tông (lập trường) đây để cầu việc gì? Xét chỗ về đến của Tông gọi là 
Thú.
          Nhơn duyên là 
lựa khác với không nhơn và tà nhơn. Giáo pháp của đức Phật nói ra trong 49 
năm không ngoài hai chữ “nhơn duyên”. Như nói:  “Vì nhơn duyên nên sanh 
diệt; vì nhơn duyên nên tức không, vì nhơn duyên nên tức giả, vì nhơn 
duyên nên tức trung”. Vậy biết với tông chỉ của Phật giáo duy có hai chữ 
“nhơn duyên” đã bao gồm hết cả nên gọi là Thông (phần chung).
          Mười môn là: 
1. Tông 
"Ngã pháp cu hữu". Trong chấp có ngã ngoài chấp có pháp (131) gọi là tông 
của ngoại đạo nương theo Phật Pháp (132).  
2.  Tông 
"pháp có, ngã không" thời khác với ngoại đạo, tức là tông của Tiểu thừa.
Do đây từ 
trước đến sau; từ thấp đến cao, nhẫn đến tôn thứ mười là  "viên dung cụ 
đức". Mười môn phân biệt rõ đủ trong lời Huyền Ðàm kinh Hoa Nghiêm. Nếu 
tóm lại thời thành năm môn, song không ngoài những Tông: Hữu, Vô, Pháp 
Tướng, Pháp Tánh và Viên Dung.
          Nay kinh nầy tôn 
trọng về Pháp. Do y báo, chánh báo, tín, nguyện, vãng sanh về Tịnh Ðộ 
v.v... đều qui về Lý Nhứt Tâm. Vì nhứt tâm bất loạn tức là pháp tánh.
 
DỊ GIẢI
 
          CHÁNH VĂN:  
Kinh Di Ðà đây xưa có nhiều nhà giải; có nhà nói dùng Tín, Nguyện làm 
Tông; có nhà nói vượt khỏi ba cõi, hai món đều thanh tịnh làm Tông, khiến 
cho chúng sanh đặng quả vị "bất thối chuyển" là Thú.
          
          CHÚ GIẢI:  
Tín, Nguyện làm Tông là các nhà giải phần nhiều đồng ý với nghĩa đây. Do 
vì trong kinh thường nói:  "Nếu có người tin, nên phải phát nguyện, nguyện 
sanh về cõi nước kia".
          Hai món thanh 
tịnh là gì? Như trong luận nói: “Cực Lạc thế giới, y, chánh hai báo (133) 
thanh tịnh trang nghiêm, chẳng phải y, chánh hai báo trong ba cõi nầy bì 
kịp” nên lấy hai món thanh tịnh đây làm Tông, mà cốt yếu chỗ về của nó là 
vì khiến cho chúng sanh sanh về cõi nước Cực Lạc thanh tịnh kia. Sanh về 
nước kia rồi liền đặng quả vị Bất thối chuyển. Lấy đây làm Thú.
 
CHÁNH Ý 
(phân ra làm hai phần):
                   1.  
Tổng cử: Tông thú chung của kinh nầy
                   2.  
Biệt minh: Tông thú riêng của kinh nầy
 
TỔNG CỬ
 
          CHÁNH VĂN: 
Kinh đây trọng về Pháp Tánh, với trong Pháp Tánh lại chia có Tổng và Biệt, 
gồm hiệp chung lại thì là "Y chánh thanh tịnh” và “Tín, Nguyện vãng sanh" 
lấy đó làm Tông Thú.
 
          CHÚ GIẢI: 
Dùng cả hai thuyết trước, hiệp lại thuyết sau để nói đó, chung làm Tông 
Thú vì thuyết trước không gồm y báo, chánh báo, thuyết sau chưa rõ Tín, 
Nguyện, nên phải hiệp chung lại mới khỏi thiếu sót. Bởi vì do cả y, chánh, 
tín, nguyện, gồm giúp lẫn nhau mới được vãng sanh mà cũng không ngoài một 
cái tự tâm.
          Chung làm Tông 
Thú là gì?
          So theo như kinh 
Hoa Nghiêm vì kinh kia cũng gồm chung cả các thuyết "nhơn quả, duyên khởi" 
và "Thật lý pháp giới", lấy đó làm Tông và Thú. Nếu muốn phân ra thì câu 
trên làm Tông, câu dưới làm Thú; nghĩa cũng tự rõ. Bằng muốn thêm thì kinh 
Hoa Nghiêm kia thêm câu "bất tư nghì", kinh Di Ðà đây cũng thế.
 
BIỆT MINH
 
          CHÁNH VĂN: 
Lại phân biệt mà nói, thì thành năm pháp đối:
                   1.  
Giáo nghĩa;  2.  Sự lý;  3.  Cảnh hạnh;  4.  Hạnh tịch;  5.  Tịch dụng.
          Dùng làm Tông 
và Thú, (mỗi một đối là một tông thú, cả 5 đối là 5 tông thú).
 
          CHÚ GIẢI: 
Một: "Giáo nghĩa một pháp đối" là sao? Là dùng Giáo làm Tông, để cho rõ 
Nghĩa làm Thú. Nói cái giáo tôn trọng pháp niệm Phật vãng sanh đây, ý đó 
ra sao? Chính là vì muốn cho chúng sanh hiểu rõ lời nói trong kinh đây là, 
y báo, chánh báo của Phật A Di Ðà rất thanh tịnh trang nghiêm, đặng sanh 
lòng tin niệm Phật và phát nguyện sẽ được sanh về nước kia. Trong kinh 
giáo có nghĩa như thế, đó là Thú; chớ không phải chỉ là ngôn ngữ văn tự 
suông mà thôi.
          Hai: "Sự lý một 
pháp đối" là gì? Là dùng Sự làm Tông, khiến người ngộ Lý làm Thú.  Nương 
nơi văn trên lời nói dạy trong một bộ kinh đều ước về nghĩa sở thuyên, mà 
trong nghĩa ấy lại có sự và lý. Rằng tôn trọng những sự y báo, chánh báo, 
tín, nguyện v.v... ý đó ra sao? Chính là muốn rõ bày trong sự có đủ lời 
chí lý, đó là Thú; chớ không phải chỉ nói những tích sự duyên suông mà 
thôi.
          Ba: "Cảnh và 
Hạnh một pháp đối" là gì? Dùng Cảnh làm Tông, khiến ra Hạnh làm Thú. Cảnh 
tức là Lý sở quán, đối với trí năng quán nên gọi là cảnh. Nói "tôn trọng 
lý đây", ý đó ra sao?  Ðã biết tự tánh sẵn có Phật Di Ðà, nơi tâm vốn có 
cõi Tịnh độ, chính muốn tức nơi đó dùng làm chơn cảnh mà khởi ra quán 
hạnh, chấp trì danh hiệu để niệm đến nhứt tâm bất loạn, đó là Thú; chớ 
không phải chỉ thông hiểu suông lý đấy mà thôi.
          Bốn: "Hạnh Tịch 
một pháp đối" là gì? Dùng hạnh làm Tông, khiến đến chỗ không tịch làm Thú. 
Nay tôn trọng pháp niệm Phật và quán hạnh đây ý nó ra sao? Bởi do tâm thể 
ta tuy vắng lặng, nhưng huân tập thói nhiễm ô nhiều đời, nên nay hễ chạm 
cảnh thì sanh tình, nếu không tu quán hạnh thì dầu miễn cưỡng, dằn ép vọng 
tâm, rốt cuộc không phải là đắc pháp định huệ bình đẳng (134). Nay y pháp 
chánh quán và chấp trì danh hiệu, đến chỗ nhứt tâm thời trở lại cái bản 
thể Không Tịch; đó là Thú; chớ chẳng những làm cái vọng kế có tạo tác mà 
thôi.
          Năm: "Tịch Dụng 
một pháp đối" là gì? Dùng bản thể Không Tịch làm Tông, khiến sanh trí diệu 
dụng làm Thú. Nói tôn trọng cái thể vắng lặng đây, ý nó ra sao? Bởi vì 
vọng tưởng chấp trước không do đâu được giải thoát, nay chuộng cái vắng 
thì vọng hết, tâm qui nhứt, tịch tịnh đến cùng tột, tâm thể sáng suốt.  Dụ 
như bụi hết, gương sáng, hình ảnh nào mà không chiếu hiện?  Chỗ gọi rằng: 
Ðã sanh về nước kia, chứng đặng vô sanh nhẫn, rồi trở vào đường sanh tử, 
dùng vô số phương tiện, làm Phật sự lớn lao diệu dụng độ thoát chúng sanh 
rất nhiều đó là Thú, chớ không phải chỉ đắm chấp nơi chỗ vắng lặng suông 
mà thôi.
          Như vậy mười môn 
lần lựa sanh khởi làm Tông và Thú.
BỘ LOẠI 
SAI BIỆT (phân ra làm ba phần)
          1.  Minh bộ 
(Ðồng bộ với kinh nầy)
          2.  Minh loại 
(Ðồng loại với kinh nầy)
          3.  Phi bộ 
phi loại (chẳng phải bộ loại nhưng cũng niệm Phật)
 
1.  MINH 
BỘ
 
          CHÁNH VĂN:  
Ðã biết kinh Di Ðà đây, Tông Thú rộng sâu, nhưng chưa biết đồng với bộ 
nào, loại nào và có mấy thứ? Trước nói rõ về bộ.  Bộ có hai thứ:
          1.  Ðại bổn;  
2.  Kinh Di Ðà này.
 
          CHÚ GIẢI: 
Bộ là các bổn đồng qui về một bộ, mà văn nghĩa có rộng và hẹp. Rộng là 
kinh Ðại Bổn, hẹp là kinh đây (Di Ðà).
          Ðại bổn có sáu 
tên:
          1. Vô Lượng Bình 
Ðẳng Thanh Tịnh Giác kinh; đời Hậu Hớn, ngài Chi Lâu Ca Sấm dịch (135).
          2. Vô Lượng Thọ 
kinh; đời Tào Ngụy, ngài Khương Tăng Khải dịch.
          3. A Di Ðà kinh 
đồng một tên với kinh đây; đời Ngô, ngài Chi Khiêm dịch.
          4. Vô Lượng Thọ 
Trang nghiêm kinh; đời Tống, ngài Pháp Hiền dịch.
          5. Rút trong 
kinh Bảo Tích, quyển thứ 18, tên là Vô Lượng Thọ Như Lai Hội; đời Ðường, 
ngài Bồ Ðề Lưu Chí dịch.
          6. Tên Phật 
Thuyết Ðại A Di Ðà kinh; đời Tống, huyện Long Thơ, cư sĩ Vương Nhựt Hưu, 
tóm rút của bốn nhà dịch trước, so sánh làm một bộ, duy trừ bộ Bảo Tích, 
ông chưa kịp xem.
          Song năm nhà 
dịch trên, lẫn nhau có khác và đồng, như: đời Hán, đời Ngô hai nhà dịch 
ấy, với 48 lời nguyện, chỉ còn phân nửa là 24 thôi, còn bao nhiêu lời văn 
đại đồng, tiểu dị (phần lớn đồng nhau, chỉ khác là phần nhỏ).
          Ông Vương Nhựt 
Hưu chung lấy văn của năm nhà dịch, so sánh lấy chỗ giản dị và rõ ràng, 
lưu thông đời nay, lợi ích rất lớn. Nhưng ông không theo bản chữ Phạm, chỉ 
châm chước theo văn Tàu nên chưa đúng phép dịch.  Phải chi ông dùng bản 
chữ Phạm để dịch lại thì thành sáu nhà dịch, không ai phê bình được. Vì 
thế, nên ông không nói dịch mà chỉ nói giảo chánh thôi. Lại trong đó có 
chỗ bỏ chỗ dùng, ông theo văn xưa, nhưng cũng có chỗ lấy chưa hết.
          Như ba bực vãng 
sanh, theo bản dịch đời nhà Ngụy, đều nói "Phát Bồ Ðề tâm" mà Ông Vương 
Nhựt Hưu chỉ nói bậc trung mới phát Bồ Ðề tâm, bực hạ không phát, bậc 
thượng hoàn toàn không nói đến. Thế thì trên dưới mất thứ lớp. Vả lại 
trong văn, nói: “Người có nhiều thiện căn là hoàn toàn chỉ cho người phát 
tâm Bồ Ðề”. Ba bực tuy không đồng, nhưng vẫn đồng một điều là có phát tâm 
ấy, làm điểm chính của sự vãng sanh, thế mà ông lại bỏ đi, nên nói ông có 
chỗ lấy chưa hết.
          Song nay giải 
lời Sớ Sao kinh này, với chỗ viện dẫn, về nghĩa thì gồm thâu cả năm nhà 
dịch, về lời lẽ thời phần nhiều theo văn của ông Vương Nhựt Hưu, bởi vì 
bản dịch của ông ấn hành được lưu thông, người đời thường dùng, ai ai cũng 
quen thấy. Còn năm bản kia chỉ rút chút ít, phần đại khái thì lấy kinh Ðại 
Bổn làm mục tiêu. Nên với cả sáu món trên, đều gọi là ÐạI Bổn, kinh Di Ðà 
đây kêu là Tiểu Bổn. Dù văn có nhiều và ít, chớ nghĩa không hơn không kém, 
nên cho thuộc về đồng bộ.
 
2.  MINH 
LOẠI
 
          CHÁNH VĂN:  
Minh loại là gì?  Nó có ba thứ: 1. Quán kinh; 2.  Cổ Âm Vương kinh;  3. 
Hậu Xuất A Di Ðà Kệ kinh.
 
          CHÚ GIẢI: 
Loại là gì? Loại nghĩa là không đồng bộ, nhưng đồng một loại. Thí dụ như 
anh em chú bác, tuy không đồng một cha mẹ, mà đồng một ông nội, bà nội, 
cũng gọi là anh em ngang vai, anh em ngang hàng, nên nói là đồng loại.
          Quán Kinh là gì? 
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói đủ 16 pháp diệu quán và nhứt tâm tam quán, 
rõ như lời Sớ Sao của bổn kinh ấy nói.
          Khi Phật ở tại 
Chiêm Ba Ðại Thành, nơi ao Dà Dà Linh, cùng với 100 thầy Bí Sô nói kinh Cổ 
Âm Vương. Trong kinh ấy nói: “Nếu có bốn chúng thọ trì danh hiệu của Phật 
A Di Ðà, đến khi mạng chung, sẽ được Phật và Thánh chúng tiếp dẫn vãng 
sanh” v.v...
          Kinh Hậu xuất Kệ 
là kinh gì? Kinh nầy từ đầu chí cuối, chỉ toàn là nói bằng kệ (136) nên 
gọi là bộ Dà Ðà. Trong bộ ấy nói: "Người phát nguyện dụ như chư Phật"; mà 
với 48 lời thệ nguyện, chỉ còn phân nửa là 24 lời nguyện, cũng đồng với 
hai nhà dịch đời Ngô, đời Hớn. Nhưng 48 lời nguyện từ xưa đến nay tuyên 
truyền đã lâu; 24 lời nguyện ấy hoặc là bản chữ Phạm đứt, thiếu cũng chưa 
biết chừng?
          Có người hỏi: 
“Kinh cổ Âm Vương cũng nói trì danh, vì sao không đồng bộ với kinh nầy?”
          Ðáp: Do vì lời 
chú kinh kia tuy cũng có nói pháp trì danh, nhưng mà trọng về pháp trì chú 
hơn.
 
3. Phi Bộ 
Phi Loại
 
          CHÁNH VĂN: 
Xét, rõ "phi bộ phi loại" là những bổn kinh không phải đồng bộ và đồng 
loại, nhưng cũng nói kèm về pháp môn Tịnh Ðộ như kinh Hoa Nghiêm, kinh 
Pháp Hoa và Luận Khởi Tín v.v... Lại dầu không phải bộ loại, nhưng mà 
trong ấy cũng nói về pháp chuyên trì danh hiệu như kinh Văn Thù Bát Nhã.
          
Chú 
Giải: "Cũng có nói kèm" là gì? Ngoài những kinh đồng bộ đồng loại ra, 
còn có những kinh tuy không chuyên nói về pháp môn Tịnh Ðộ, nhưng trong ấy 
cũng có nói đến lời khuyến tán vãng sanh Tịnh Ðộ, như kinh Hoa Nghiêm phẩm 
Hạnh Nguyện đã nói mười lời đại nguyện lớn và rốt sau lại nói cũng do mười 
nguyện chúa ấy, để dẫn dắt về nước Cực Lạc  ấy vậy.
          Trong kinh Pháp 
Hoa nói: "Người nào tụng kinh này (Pháp Hoa) khi mạng chung (chết) sẽ được 
sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Ðà". Thật vậy, về Luận Khởi Tín, 
như trong khoa Giáo Khởi trước đã nói, hai chữ vân vân (v.v..) là: Như 
kinh Quán Phật tam muội, kinh Thập Trụ về đoạn kết và các kinh đều có nói 
đến pháp môn Tịnh Ðộ trùng trùng không phải một như lời tạp dẫn trong văn 
sau sẽ rõ. Với kinh Văn Thù Bát Nhã, cũng sẽ nói rõ trong văn "chấp trì 
danh hiệu" sau.
 
Dịch 
Thích Tụng Trì  (phân ra làm 5 phần)
          1.  Minh dịch 
(nói việc phiên dịch)
          2.  Minh thích 
(nói việc giải thích)
          3.  Minh tụng 
(nói việc tụng có ích)
          4.  Minh trì 
(nói trì danh có linh nghiệm)
          5.  Kết khuyến 
(lời kết để khuyên)
 
1.  Minh 
Dịch
 
          Chánh Văn: Ðã 
biết kinh nầy, nào bộ, loại, rộng, nào hẹp, đồng, khác với nhau như thế 
rồi, nhưng chưa biết kinh này dịch về thời đại nào, có bao nhiêu nhà dịch? 
Cho đến người chú thích mở rộng là ai?  Những người đọc tụng thọ trì có 
linh nghiệm gì?
          Trước hết nói 
rõ có hai nhà dịch: 1. Ðời Dao Tần, ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập  
dịch bộ kinh "Phật Thuyết A Di Ðà" tức bộ kinh này.
          
Chú 
Giải: Chữ Dao Tần, nghĩa là thuở đời Châu có nhà Dinh Tần;  Nam Bắc 
Triều có nhà Phù Tần và Dao Tần (137). Nay nói Dao Tần là để phân biệt với 
Phù Tần và Dinh Tần kia.
          Tam Tạng, tức là 
người học thông ba tạng: tạng Kinh, tạng Luật và tạng Luận, thêm giỏi cả 
tiếng Hoa (Tàu) tiếng Phạm (Brahma) nữa.
          Chữ “Pháp Sư” 
nghĩa là người nhận lãnh được Phật pháp, diễn giảng dạy bảo, làm mô phạm 
trong chúng.
          Cưu Ma La Thập 
là tiếng Phạm, đọc đủ là: Cưu-ma-la-kỳ-bà Thập; năm chữ trên, dịch là 
"Ðồng Thọ" (tuổi trẻ đức cao); chữ Thập là người thông thạo các món văn tự 
của phương đây (Tàu) hiệp cả Tàu và Phạm chung kêu là "La Thập".
          "Dịch" là đổi. 
Nghĩa là đổi tiếng Phạm thành tiếng Tàu, theo sách Châu Lễ nói: ‘Chủ quản 
tiếng nói thuộc về bốn phương, mỗi phương đều có ông quan thông thạo tiếng 
phương ấy. Như ông quan phương Bắc nói là Dịch”. Do kinh nầy từ xứ Tây 
Thiên Trúc đem sang nước Ðông Ðộ mà nói rằng "dịch" là vì đời nhà Hớn ông 
quan phía Bắc (nước Tàu) gồm thông cả tiếng Tây Thiên Trúc nữa nên khi đức 
Ma Ðằng bên Tây Trúc mới đến Tàu, ông bèn gọi là  "dịch". Nay cũng căn cứ 
theo đây.
          Xét bổn truyện của ngài Pháp sư La Thập, 
chính là người nước Trung Thiên Trúc. Cha Ngài tên là Cưu Ma La Viêm dòng 
dõi làm chức Tướng Quốc (quan Thừa Tướng) lại bỏ chức, đi du lịch qua nước 
Ku che (Cưu Ty);  Vua nước ấy (138) đem gả em gái, sanh ra ngài. Khi ngài 
vừa sanh sẵn có tinh thần sáng suốt; năm lên bảy tuổi, một hôm theo mẹ vào 
chùa, thấy cái bát bằng sắt ngài lấy đội thử lên đầu, thoạt nghĩ: Bát này 
nặng quá làm sao ta đội nổi. Tức thì bát ấy quá nặng bội phần, ngài không 
thể đội được. Ngài liền tỏ ngộ được lý "vạn pháp duy tâm", học rộng nhớ 
dai, không ai sánh kịp. Bởi còn tuổi trẻ mà đức hạnh cao cả nên gọi là 
"Ðồng Thọ".
          Ðã học thông ba 
tạng từ phương Ðông vua nước Ku Che (Cưu Ty).  Vua nầy mới lập pháp tòa sư 
tử bằng vàng mời ngài ngồi lên thuyết pháp.  Bấy giờ chúa Phù Kiên chiếm 
lấy nước Tần, sắp đem binh qua đánh lấy Tây Vức. Bỗng gặp quan Thái Sử vào 
tâu: "Bẩm chúa thượng, tiểu thần xem thiên văn thấy hiện một ngôi sao lạ 
bên Tây Vức, chắc có bậc đại đức trí nhơn vào giúp Trung Quốc". Chúa Phù 
Kiên nói: "Trẫm nghe bên nước Ku Che (Cưu Ty) có ngài La Thập, phải chăng 
là ngôi sao ấy?" Rồi liền sai tướng soái Lữ Quang (139) đi đánh nước Cưu 
Ty. Khi sắp hành binh, chúa Phù Kiên bảo Lữ Quang rằng: "Trẫm đây không 
phải ham muốn đất đai mở rộng biên cương mà dùng binh đâu, chỉ vì Trẫm 
nghe ngài La Thập là người hiểu sâu pháp tướng của Phật, có thể làm giềng 
mối cho kẻ hậu học. Nếu khanh đánh thắng được nước Cưu Ty rồi phải lập tức 
chạy trạm để hộ tống đưa ngài La Thập về đây cho Trẫm gấp".
          Bấy giờ, Lữ 
Quang chiến thắng nước Cưu Ty, bèn chở ngài La Thập về. Nhưng đi mới nửa 
đường nghe tin chúa Phù Kiên bị Dao Trành 
làm hại, nên Lữ Quang không về nước mà ở 
lại Lương Châu. Ngài La Thập vì thế nên không được đến nước Tần.
          Sau Dao Trành 
cũng nghe danh tiếng ngài qua thỉnh, nhưng Lữ Quang không cho. Dao Trành 
chết, con Dao Trành là Dao Hưng cố thỉnh, song Lữ Quang cũng không cho. 
Nhơn đó Dao Hưng cử binh đi đánh, cháu Lữ Quang thua, đầu hàng nước Tần. 
Bấy giờ mới rước được ngài La Thập vào ải, tôn kỉnh ngài lên làm chức Quốc 
Sư.
          Ngài xem kinh 
cũ, nghĩa phần nhiều sai lạc, không hiệp với bổn chữ Phạm. Ngài bèn triệu 
tập các thầy sa môn như ông Tăng Triệu, Tăng Duệ, tất cả hơn 800 người, 
mới dịch ra kinh, luận trên 390 quyển đều thấu suốt nguồn tâm, mở bày lý 
nhiệm.
          Trước khi sắp 
tịch, ngài nhóm chúng lại nói: “Tôi nguyện những kinh của tôi dịch, lưu 
truyền đời sau được thông dụng khắp cả, nay đối truớc chúng, tôi phát lời 
thệ thành thật: Nếu kinh sách của tôi dịch không sai lầm thì sau khi đốt 
thân, cuống lưỡi tôi không cháy nát".
          Ngài tịch ở đất Trường An, nhằm niên hiệu 
Hoằng Thỉ, năm thứ 11 (140) tháng 8, ngày 20. Sau khi làm l trà tỳ, củi 
cháy hết, xác ngài tiêu, mà cuống lưỡi vẫn còn nguyên vẹn như lúc sống.
          Nay kinh này 
ngài La Thập dịch, cuống lưỡi không hư, cùng với chư Phật tướng lưỡi rộng 
dài để khen ngợi kinh đây, hiệp lại mà quán xét thì lời Phật nói thật 
không sai; do nơi đây lại càng thêm tin.
          
Chánh 
Văn: Hai: Kinh "Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ",  đời Ðường, ngài Tam 
Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch.
          Hai kinh hiệp 
lại so sánh, phần lớn đồng nhau, chỉ khác chút ít, người đời yêu chuộng 
phần nhiều đều theo bản nhà Tần.
          
Chú 
Giải: Ngài Huyền Tráng pháp sư nguyên là con nhà họ Trần, người ở 
huyện Hầu Thị, xuất thân tại châu Lạc Dương, đời nhà Ðường (141). Thuở nhỏ 
gặp nhiều hoạn nạn theo anh trưởng là ông Kiến pháp sư xuất gia ở chùa 
Tịnh Trụ. Năm lên 11 tuổi tụng kinh Duy Ma và Pháp Hoa bỗng nhiên giác ngộ 
(phát huệ) người đời không ai sánh kịp. 21 tuổi giảng bộ Tâm Luận, không 
cần xem văn tự mà nói thông như nước chảy. Người đời tặng ngài là Thần 
Nhơn (người hay nhứt).
          Hoàng hiệu Trinh 
Quán năm thứ ba (142) ngài qua Tây Vức (Ấn Ðộ) thỉnh kinh, gặp đủ mọi sự 
nguy hiểm, đường gian nan, trải qua một trăm năm mươi nước mới đến nước Xá 
Vệ (143) thỉnh hơn 600 bộ kinh.
          Ðến năm hoàng 
hiệu Trinh Quán thứ 19, (144) trở về kinh đô nước Tàu, ở tại đền Ngọc Hoa, 
phiên dịch kinh, luận, tổng cộng 1.330 quyển.
          Khi ngài đã già 
bệnh, nằm thấy có bông sen trắng lớn và tướng hảo của Phật. Ngài nằm 
nghiêng bên hữu, chồng chơn lại mà tịch; xác để hai tháng mà diện mạo như 
lúc còn sống (145).
          Nhắc lại ngày 
trước, khi ngài qua Tây Vức thỉnh kinh, ngài vỗ cây tòng ở chùa Linh Nham, 
ngài thệ và dặn rằng: “Ta đi qua phương Tây, ngươi cũng ngả về phương Tây, 
lúc ta trở về phương Ðông, ngươi cũng ngả về phương Ðông nhé”. Dặn thế rồi 
Ngài đi thì cây tòng y lời dặn của ngài, ngả về phương Tây dài đến hai 
trượng. Một hôm bỗng nhiên nó ngả trở lại phương Ðông (146) đệ tử mừng nói 
rằng: “Thầy sắp về!” Quả nhiên ngài về thật. Người đời gọi cây Tòng ấy là 
“ma đảnh tòng” (147).
          Xét lời thệ 
nguyện của ngài chơn thật nên muốn chi được nấy, không sai. Như vậy cuống 
lưỡi của ngài La Thập không hư, cùng với tướng lưỡi rộng dài của chư Phật 
vẫn đồng một ý. Nên với kinh ngài dịch đây, đâu chẳng tin ư?
          “Hiệp lại so 
sánh”: Là nghĩa hiệp trước sánh sau mà dịch trùng lại vậy. Ðại đồng, tiểu 
dị là tiếng Phạn có hơi khác và lời nói có nhiều ít, như chữ Hằng Hà, có 
bổn dịch là Căng Già (148) và sáu phương, hoặc nói là mười phương chẳng 
đồng nhau. Nhưng đại ý vẫn một (không trái nhau).
          Phần nhiều theo 
bản nhà Tần là kinh Pháp Hoa có ba nhà dịch, mà bản dịch của nhà Tần thạnh 
hành hơn. Kinh này hai nhà dịch cũng lại như thế.
 
2.  Minh 
Thích
 
          Chánh Văn: Kế 
đây nói người giải thích kinh này. Về Luận thì có ngài Thiên Thân Bồ Tát 
làm ra bộ Vô Lượng Thọ Kinh Luận. Giải thì có ngài Từ Ân làm lời Thông 
Tán, ngài Hải Ðông làm lời sớ, ngài Cô sơn làm lời sớ, cho đến ngài Ðại 
Hựu làm bộ Lược Giải v.v...
          
Chú 
Giải: Ngài Thiên Thân Bồ Tát thường nhập pháp định "Nhựt Quang" (149) 
lên nội viện cung trời Ðâu Suất tham bọc với đức Từ Thị (Di Lặc), rồi viết 
ra bộ  "Vô Lượng Thọ kinh Ưu Bà Ðề Xá". Ưu Bà Ðề Xá Tàu dịch: Phân Biệt 
Nghĩa. Ngài Từ Ân pháp sư tên là Khuy Cơ, cháu ông 
Uất Trì Kỉnh Ðức; ngài Huyền Tráng độ cho đi xuất gia, học thông 
kinh Ðại thừa, Tiểu thừa, làm lời sớ giải các kinh, tính hơn 100 quyển. 
Giải bộ kinh "Di Lặc Hạ Sanh", trong ngòi bút đặng 27 hột ngọc Xá Lợi. 
Ngài có viết một quyển kinh "Di Ðà Thông Tán" để chỉ bày nghĩa cốt yếu Tây 
phương Tịnh Ðộ.
          Ngài Hải Ðông 
pháp sư tên Nguyên Hiểu, sớ giải kinh nầy đại khái căn cứ theo luận làm 
chủ. Ngài Cô Sơn Viên Pháp làm lời sớ cả mười bộ kinh để lưu thông (15) mà 
lời sớ kinh đây là một phần trong ấy.
          Các ngài: ngài 
Nghĩa Uyên, ngài Tịnh Giác, ngài Việt Khê v.v..., nhiều ngài giải thích 
lắm nhưng mà phần nhiều lạc mất. Ðến đời nhà Nguyên, ngài Ðại Hựu pháp sư 
mới có làm bộ Lược Giải. Nay đây duy còn những lời Sớ của ngài Hải Ðông, 
ngài Việt Khê và ngài Ðại Hựu mà thôi.
          Lâu đời, người 
mất, kinh lạc giáo lờ, thành thử làm cho pháp môn rộng lớn sâu xa như thế 
mà mỗi người không nhận hiểu được, đâu không buồn ư?
 
          Chánh Văn: 
Hoặc luận những kẻ xa vâng ý Phật, mở rộng tôn mầu, như là làm Luận làm 
Văn, làm Tập, làm Lục, làm Truyện, làm Kệ, làm Phú, làm Thi, lẫn nhau khen 
ngợi, số ấy không những số ức (151), đâu chẳng đinh ninh khẩn cáo, cảm 
khái, bi ca, khuyến cả chúng mê lưu đồng về con đường giác ngộ. Vậy chúng 
ta một phen xem đến, đâu chẳng ghi lòng!
          
Chú 
Giải: Văn trước chỉ những người chú giải kinh này, văn đây nói đa số 
người có những lời khen ngợi cõi Tịnh Ðộ không thể biên đủ. 
          Làm Luận như các 
bộ "Thập Nghi Luận", "Bảo Vương Luận" (152) v.v... làm Văn như "Văn của 
Ngài Long thơ", "Văn của Ngài Vô Tận" (153) v.v... làm Tập như "Tập Quyết 
Nghi", "Chỉ Qui" v.v... Làm Lục như bộ  "Tịnh Ðộ Tư Tín" v.v... Làm Truyện 
như bộ "Tịnh Ðộ Lược Truyện" v.v... làm Kệ như  "Kệ Kỉnh Lộ Tu Hành" 
v.v... (154) Làm Phú như bài  "Thần Thê An Dưỡng" (155) v.v... Làm Thi như 
"Thi Chư Gia Hoài Tịnh Ðộ" (156) v.v...
          "Cáo" mà nói 
rằng "Khẩn" là lời chơn thành, trông mong ai nấy tín thọ vâng lời làm theo
          "Ca"  mà nói 
rằng "Bi" là lời buồn thảm, hoặc vì quá cảm khích mà thốt ra.
          Chữ “lệ” cũng 
như số "chẳng những số ức"  là nói số quá nhiều không thể dùng số ức để 
tính kể cho hết. Ðây là bực Hiền, Thánh khen ngợi pháp môn Tịnh Ðộ, ngàn 
vạn lời không nhàm, lặp đi lặp lại nhiều lần, mục đích muốn đem hết chúng 
sanh trong biển sanh tử để về cõi Phật mà thôi.
          Vậy chúng ta nay 
phải mang ơn báo đức, khắc cốt ghi lòng, lần lữa lưu thông, thay nhau 
khuyến dẫn. Nếu cứ cất kỹ không xem, xem mà không tin, những hạng ấy chẳng 
nói là lời dạy trẻ thơ, thời cũng nói là lý luận ký ngụ (nhảm nhí). Những 
hạng như thế, thôi đành cam phận, chớ biết làm sao?!
 
3.  Minh 
Tụng
 
          Chánh Văn: Kế 
nói sự lợi ích của người tụng kinh này như "cuống lưỡi không hư, nhạc trời 
rước về Tịnh Ðộ", vừa giải oan, vừa vãng sanh. Tụng chưa hết quyển mà ngồi 
tịch; về Cực Lạc như vào Thiền Ðịnh; khi chết thấy hoa sen trắng, đài bạc 
đổi thành đài vàng, nhạc dở qua rồi, nhạc hay tiến đến.
          
Chú 
Giải: “Cuống lưỡi không hư” là: Trong bộ Trí Ðộ Luận nói: Có vị bí sô 
tụng kinh Di Ðà, khi sắp lâm chung nói với các đệ tử rằng: "Có Phật A Di 
Ðà và các vị Thánh chúng đến rước ta kia". Sau khi hỏa thiêu thân cháy mà 
cuống lưỡi không nám, sắc tướng tự nhiên.
          "Nhạc trời rước 
về Tịnh độ" là: Ðời Tống, ông Ðường Thế Lương tụng kinh Di Ðà mười muôn 
biến. Một hôm bảo người nhà rằng: "Phật đến rước ta". Nói rồi lạy Phật, 
ngồi mà qua đời. Ðêm ấy có người đi buôn, nghỉ trên núi Ðạo Vị, nằm mộng 
thấy phương Tây có hào quang lạ và tràng phan, hương hoa lăng xăng, tiếng 
nhạc véo von, trên không có tiếng kêu rằng: "Ông Ðường Thế Lương đã sanh 
về Tịnh Ðộ".
          "Vừa giải oan, 
vừa vãng sanh" là: Ðời Tống đất Thượng Ngu có tên Phùng Mân, lúc trẻ ưa đi 
săn bắn, thấy con rắn lớn, cầm nác (dao) muốn tới đâm. Lúc ấy con rắn ở 
dưới gộp đá muốn mổ (cắn) con bò ghé (con). Ông Phùng Mân lăn đá trên gộp 
xuống đè rắn đến chết. Rắn thường biến làm loài yêu quái để hại Phùng Mân. 
Nhưng Phùng Mân nhờ tu pháp sám hối, niệm Phật nhiều năm, rắn không làm 
hại đuợc. Một hôm Mân mời các bạn đồng tu trong hội "Tịnh Ðộ"  tụng kinh 
Di Ðà, rồi Mân chấp tay niệm Phật mà qua đời.
          "Tụng chưa hết 
quyển ngồi tịch" là: Ðời nhà Tần, có ngài Trí Tiên pháp sư hiệu Chơn Giáo 
ở chùa Bạch Liên, ngài xây mặt về hướng Tây, tu pháp Thập Niệm 13 năm, một 
ngày 12 thời, không tạm nghỉ.
          Một hôm ngài hơi 
bệnh, bảo tên quán đường hành nhơn tụng kinh Di Ðà, tụng chưa hết quyển, 
ngài ngồi an nhiên mà qua đời.
          “Về Cực Lạc như 
vào Thiền định”: Ðời Tống ngài Thích Xử Khiêm tinh tấn tu pháp Tịnh Ðộ, 
một hôm tụng kinh Di Ðà xong và khen ngợi pháp Tịnh Ðộ, ngài bảo trong 
chúng rằng: “Ta dùng bản tánh vô sanh mà sanh về Tịnh Ðộ”. Nói rồi ngài 
ngồi ngay thẳng như vào Thiền định, thoạt vậy mà tịch.
          “Lúc chết thấy 
hoa sen trắng”: Ðời Tống có bà Chung Ẩu người ở quận Gia Hòa, mỗi ngày 
tụng mười biến kinh Di Ðà, niệm Phật không thôi. Một hôm bà bảo các con 
rằng: "Ta thấy hoa sen trắng vô số, các vị thánh đến rước ta". Bà nói vừa 
dứt lời liền ngồi ngay thẳng mà tắt thở.
          “Ðài bạc đổi đài 
vàng”: Ngài Hoài Ngọc Thiền sư, người ở đất Thai Châu, thân mặc áo vải, 
mỗi ngày ăn một bữa, thường ngồi, không nằm, tinh tấn niệm Phật. Ngài tụng 
30 muôn biến kinh Di Ðà. Một hôm ngài thấy thánh chúng bên Tây phương Tịnh 
Ðộ nhiều như số cát sông Hằng, có một vị tay bưng đài bạc từ cửa sổ đi 
vào. Ngài Hoài Ngọc than rằng: "Suốt đời tôi tinh tấn thề được đài vàng. 
Vì sao nay được cái nầy?" Nói thế đài bạc liền mất. Ngài Hoài Ngọc quá cảm 
khích lại càng tinh tấn bội phần. 21 ngày sau, thấy Phật đầy giữa hư 
không, ngài liền bảo đệ tử rằng: "Ðài vàng đến rước ta sanh về Tịnh Ðộ". 
Rồi ngài nói bài kệ mỉm cười mà tịch. Quan thái thú ở quận ấy tên Ðoàn 
Công lấy làm lạ, mới làm bài thi khen ngợi, có câu: "Chi đê chỉ vị, quải 
kim đài" (157).
          “Nhạc dở đi rồi, 
nhạc hay tiếp đến”: Ðời Nguyên có ông Tử Hoa thiền sư, trong niên hiệu Ðại 
Lịch năm thứ chín (158) ở chùa Quan Âm, tại đất Nhuận Châu, tụng kinh Di 
Ðà ròng sáu tháng. Một hôm ngài cảm bệnh, đêm đó nghe mùi hương và tiếng 
nhạc trên hư không có tiếng bảo rằng: "Nhạc dở qua rồi, nhạc hay tiếp đến, 
người sẽ vãng sanh". Thế rồi ông niệm Phật giây lâu mà tịch. Mùi hương lạ 
suốt ngày chưa tan.
           
Chánh 
Văn: Lại như biên chép kinh này thì cảm hóa được mọi người; diễn giảng thì 
có điềm lành chim Bạch Hạc.
          
Chú 
Giải: “Biên tả”: Ðời Ðường có ngài Thiện Ðạo Ðại sư hễ được tiền của 
ai cúng, ông dùng để tả kinh Di Ðà được mười vạn quyển, khuyên người thọ 
trì. Ngài cũng có khi tụng đến mười vạn biến, hoặc có khi tụng đến năm 
mươi vạn biến, kẻ tăng người tục (cư sĩ) đều qui kỉnh. Có người cảm quá 
đến đỗi đốt thân cúng duờng. Có những người đặng pháp niệm Phật tam muội 
không thể kể xiết!!
          “Diễn giảng”: 
Ðời Tống có ông Thẩm Tam Lang, tuổi già hồi tâm niệm Phật. Nhơn lúc bệnh, 
ông thỉnh chư Tăng giảng kinh Di Ðà; ông thay áo mà qua đời; bỗng co chơn 
muốn trỗi dậy. Hai người con chấp theo nhà danh giáo (đạo Nho) cho sự đổi 
hòm là khó, mới kéo chơn ông ra cho thẳng khi sắp sửa liệm. Ông bỗng cất 
đầu ra khỏi áo, mền; vùng mình ngồi dậy. Cả nhà kinh hãi. Hai người con 
lật đật tới trước dìu đỡ, ông bèn lấy cánh tay hất ra, còn nói: “Ðể cha 
ngồi mà đi chớ”. Rồi ông ngồi ngay thẳng chết lại.
          Lúc làm lễ trà 
tỳ ông, có 29 con chim bạch hạc bay đảo liệng mãi và kêu trên mây; giây 
lâu rồi bay thẳng về phương Tây cõi Tịnh.
          
Chánh 
Văn: Cảm ứng hiện tiền thời xa thấy đất báu; quyết được vãng sanh thời 
kinh Niết Bàn chẳng sánh. Sự cảm ứng như đây, xưa nay thường thấy.
                   
Chú 
Giải: “Ở xa thấy đất báu”: Ðời Ðường ngài Ðại Hạnh thiền sư ban đầu tu 
pháp sám của đức Phổ Hiền, sau vào trong Ðại Tạng, tùy theo tay hễ rút lấy 
ra một quyển nào sẽ tụng theo kinh ấy thì nhằm quyển kinh Di Ðà.  Thế rồi 
ngày đêm ngài tụng niệm, đến ngày thất thứ ba, ngài thấy trên đất toàn là 
ngọc lưu ly. Phật Di Ðà và đức Quan Âm, Thế Chí, hai vị Ðại Sĩ hiện trước 
mặt. Vua Hy Tông nghe việc này, mời ngài vào cung, ban cho ngài hiệu là 
Thường Tinh Tiến Bồ Tát. Sau lại thấy trên đất toàn là ngọc lưu ly một lần 
nữa, liền ngày ấy ngài qua đời. Mùi hương lạ nghe thơm cả tuần; nhục thân 
của ngài không hoại (159).
          “Kinh Niết Bàn 
chẳng sánh”: Ðời Lương có ngài Ðạo Trân pháp sư giảng kinh Niết Bàn. Trong 
hoàng hiệu Thiên Giám (160) dừng gậy tích (161) ở núi Lô sơn, Ngài rất mộ 
pháp tu Tịnh Ðộ của ngài Viễn Công. Nhơn khi thiền định, ngài bỗng thấy 
trong biển có vài trăm người ngồi trên thuyền báu đi ngang trước mặt, ngài 
bèn hỏi đi đâu đó vậy? Người trong thuyền đáp: “Chúng tôi về nước Cực 
Lạc”. Ngài yêu cầu cho quá giang. Nhưng mấy người trong thuyền kia nói: 
“Pháp sư tuy có giảng kinh Niết Bàn rất hay, cũng thật là bất khả tư nghì, 
công đức rất lớn. Nhưng mà ngài chưa tụng kinh Di Ðà thì đâu được cùng với 
chúng tôi về nơi Cực Lạc!”
          Từ đó pháp sư 
nghỉ giảng kinh Niết Bàn, bắt đầu niệm Phật và tụng kinh Di Ðà đến hai vạn 
biến. Khi sắp lâm chung, cuối ngày thất thứ tư, ban đêm vào canh tư, ngài 
thấy phương Tây có người bưng đài bạc đến, giữa hư không sáng rực như ban 
ngày. Có tiếng kêu rằng: “Pháp sư lên ngồi đài nầy để mà vãng sanh”.
          Lúc ấy cả đại 
chúng đều nghe nhạc trời và mùi hương lạ. Những mùi hương quí nầy mấy ngày 
vẫn còn thơm. Ðêm đó chúng tăng ở chùa Phong Ðảnh xa xa thấy trong miệng 
hang có vài mươi ngọn đuốc chói sáng suốt đêm. Ngày sau mới biết pháp sư 
đã qua đời.
          Những sự tích 
nêu trên đây đều do là người tu nhơn được chứng quả;  đây cảm thì kia ứng, 
thường thấy thường nghe, từ xưa đến nay chưa dễ gì nêu ra cho hết.
 
4.  Minh 
Trì
 
          Chánh Văn: 
Nói sự linh nghiệm của người trì danh hiệu Phật hoặc một niệm trong miệng 
bay ra một đạo hào quang, hoặc một tiếng trong miệng bay ra một vị Phật, 
hoặc niệm vang động cả rừng, hang, hoặc tiếng niệm thấu đến cung vua hoặc 
sáu thời kế tiếp niệm mà y báo, chánh báo đầy hư không, hoặc gạch chữ thập 
để nêu tâm mà được thánh hiền vào hội, cho đến đời nay có những danh lưu 
tiếp tục.
          
Chú 
Giải: Ðây chính là nói rõ pháp tu chấp trì danh hiệu Phật vậy.  Ðối 
với những bậc thánh hiền tu Tịnh nghiệp thành tích rất nhiều, không thể 
thuật hết. Ở đây chỉ kể lại một vài việc mà người đời đã được nghe thấy rõ 
ràng, để làm bằng hay làm gương đặng khuyến khích.
          "Niệm Phật bay 
ra hào quang" là đời Ðường có người hỏi ngài Thiện Ðạo đại sư rằng: “Niệm 
Phật có được sanh về Tịnh độ không?”
          Ngài đáp: “Cứ 
như ngươi sở niệm thế nào thì được toại sở nguyện cũng thế”. Khi đó ngài 
Thiện Ðạo tự niệm một câu "A Di Ðà Phật" liền có một đạo hào quang từ 
trong miệng bay ra. Ngài niệm luôn mười câu đến trăm câu hào quang cũng 
vẫn cứ bay ra như vậy, thành ra cả nhà đầy hào quang. Nghe được sự linh 
nghiệm ấy nhà vua sắc tứ cho chỗ ngài ở là "Quang Minh Tự". Sau ngài lên 
cây liễu ngồi ngay thẳng mà tịch.
          "Niệm Phật bay 
ra vị Phật" là ngài Thiếu Khương pháp sư ở núi Ô Long, kiến thiết đạo 
tràng Tịnh Ðộ, khuyên người niệm Phật. Trong chúng thấy ngài niệm Phật một 
tiếng, trong miệng bay ra một vị Phật sáng, cho đến mười tiếng niệm, đều 
có đủ mười vị Phật thứ lớp bay ra như xâu chuỗi. Ðến ngày lâm chung có mấy 
đạo hào quang đoanh quanh nơi miệng, thoạt vậy mà tịch (162).
          "Tiếng niệm Phật 
vang động cả rừng, hang" là đời Ðường, ngài Ðạo Xước Thiền sư, thường ngày 
vì trong chúng giảng kinh Vô Lượng Thọ gần 200 biến. Mỗi người tay lần 
chuỗi, miệng niệm danh hiệu Phật; khi tan hội, mà tiếng niệm còn vang động 
cả khu rừng.
          "Tiếng niệm Phật 
thấu đến cung vua" là đời Ðường ngài Pháp Chiếu ở đất Tinh Châu lập 5 hội 
niệm Phật, cảm đến hoàng đế Ðại Tông ở đất trong cung nghe tiếng niệm 
Phật, vua liền sai sứ đi tìm. Thấy sư khuyến hóa người niệm Phật rất thạnh 
hành, vua liền mời vào cung. Những người ở trong cung nhờ Sư dạy niệm Phật 
cũng đến năm hội; vua phong hiệu Sư là "Ngũ Hội Pháp Sư".
          "Sáu thời kế 
niệm" là đời Tấn, ngài Huệ Viễn pháp sư ở Lô Sơn, chế tạo cái đồng hồ bằng 
hoa sen để phân giờ tu niệm sáu thời niệm Phật (163), lắng lòng nối tưởng; 
19 năm sau, đến đêm 30 tháng 7, ở trong nhà Bát Nhã đang ngồi thiền định 
vừa đứng dậy, thấy thân Phật A Di Ðà đầy cả hư không. Trong hào quang bóng 
tròn có vô lượng hóa Phật và các chúng Bồ Tát; nước chảy, hào quang đều 
diễn nói pháp mầu.
          Phật nói: “Ta do 
sức bản nguyện đến an ủi ngươi, bảy ngày nữa ngươi sẽ sanh về nước ta”. 
Ðúng ngày nói trên, Sư ngồi ngay thẳng mà qua đời.
          "Gạch chữ thập 
để nêu tâm" là đời Tống, ngài Tông Trách Thiền sư ở chùa Trường Lô, tỏ ngộ 
lý Thiền, Tông, Thuyết gồm thông (164) mà vưng theo qui củ ngài Viễn Tổ ở 
non Khuôn Lư, lập Liên Hoa thắng hội. Kỷ luật hội đó: mỗi ngày niệm Phật A 
Di Ðà, hoặc một ngàn tiếng, muôn tiếng chẳng hạn, cứ đến mặt trời lặn thì 
gạch tréo chữ Thập để ghi nhớ (165). Một hôm nằm mộng, ngài thấy một cậu 
trai, đầu bịt khăn đen, mặc áo trắng, dung mạo thanh bai, đến bảo ngài Lô 
Trách rằng: “Tôi muốn vào hội Di Ðà của ông, xin ông ghi cho một tên”. 
Ngài Lô Trách hỏI: “Ông tên chi?” Người ấy đáp: “Tôi tên Phổ Huệ”; rồi lại 
nói: “Anh tôi tên Phổ Hiền cũng xin đăng tên”. Nói rồi liền ẩn mất. Ngài 
Lô Trách thức dậy thuật lại điềm chiêm bao, các vị tôn túc đều nói rằng: 
“Trong kinh Hoa Nghiêm về phẩm Ly Thế Gian có hai tên vị Bồ Tát ấy”; mới 
biết thánh hiền thầm giúp. Ngài liền ghi tên hai vị đại sĩ ấy vào đầu sổ 
(tiêu biểu hai vị hội trưởng của hội niệm Phật).
          "Chiêu đại” là 
đời nay vậy, như ngài Tây Trai, ngài Không Cốc, ngài Thiên Kỳ, ngài Ðộc 
Phong (166) v.v... Các ngài đây đều là bậc cao tăng đời nay, dốc tín; tinh 
tu, sánh với cái lành đời trước, nối nhau không dứt, đều chép rõ trong tập 
Vãng Sanh.
          Số là trong ngàn 
muôn truyện, chỉ ghi chép lại một vài truyện thôi.
          
Chánh 
Văn: Ðến như cảm được cứu hộ thời oan nghiệp đời trước cũng độ được, quỉ 
dữ chẳng dám xâm; đặng linh ứng thời như mắt mù sáng lại, kẻ tù được thoát 
nạn.
          
Chú 
Giải: "Oan nghiệp đời trước cũng độ được" là: Ðời Ðường có cậu Thiệu 
Bưu, người ở Trấn Giang; lúc còn làm học trò, nằm mộng thấy đi đến chốn 
công phủ. Người chủ ở đó hỏi: “Ngươi có tự biết vì sao mà đi thi không 
đậu?”
          Bưu nói: “Dạ 
không biết”. Nhơn đó sai người dẫn Bưu đi đến trước vài bước, thấy trong 
chảo lớn có loài ốc sò biết nói tiếng người, kêu tên Thiệu Bưu, Bưu hoảng 
sợ liền niệm A Di Ðà Phật, ốc sò biến thành chim huỳnh tước bay đi. Thiệu 
Bưu sau thi đậu, làm quan đến chức An Phủ Sứ.
          “Quỉ dữ không 
dám xâm” là: Thuở Phật còn tại thế, có một nước ở gần gũi La Sát. Quỉ này 
ăn thịt người vô độ. Vua trong nước ấy giao ước với nó: “Từ nay trong nước 
ta, mỗi nhà dưng một người, thứ lớp đem đến cho ngươi dùng, vậy ngươi đừng 
bắt ngang nữa”.
          Có nhà kia thờ 
Phật, chỉ sanh được một con trai, đến phiên nạp thịt cho quỉ, cha mẹ 
thương khóc, dặn con rằng: “Con phải chí tâm niệm Phật”.  Người con vâng 
lời thành tâm niệm Phật. Nhờ oai thần của Phật, quỉ không dám lại gần. 
Sáng ngày đến xem, thấy con còn sống, cha mẹ mừng rỡ đem về. Từ đây nạn La 
Sát ăn thịt người đã dứt.
          “Mắt mù sáng 
lại” là: Ðời Tống, con gái bà Sùng Thị mù hai con mắt, niệm Phật ba năm, 
tinh cần không bỏ lãng, cặp mắt sáng lại như xưa.
          “Người tù được 
thoát nạn”: Cuối đời Nguyên, có chúa Trương Sĩ Thành (167) chiếm lấy Hồ 
Châu, đánh nhau với quan thừa tướng miền Giang Tích, bắt đuợc 40 tù binh 
nhốt trong xe chở đi giết. Ðêm hôm đó, xe tù ngủ nhờ nơi chùa Ô Khoa đất 
Tây Hồ. Bọn tù thấy ngài Ðại Du Mưu thiền sư đi dạo dưới hiên Tây tụng 
niệm có vẻ nhàn nhã, nhơn đó xin ngài cứu giúp. Sư dạy phải chí tâm niệm 
Nam mô cứu khổ cứu nạn A Di Ðà Phật. Trong đám có ba người tin theo lời 
sư; miệng niệm không ngớt. Ðến sáng mở tù, đổi gông xiềng, tới ba người 
này, đồ gia hình không đủ, chỉ buộc bằng dây. Tra xét ra là lương dân bị 
bắt lầm, liền được tha bổng.
          
Chánh 
Văn: Lại nữa, người ác siêu là như ông Trương Thiện Hòa niệm mười tiếng 
Phật, tướng địa ngục hiện trước mắt liền tiêu mà được hóa, Phật rước ở 
giữa hư không.
          Loài súc sanh 
như chim cù dục xưng danh hiệu Phật mà hình hài chôn rồi, sau trên mộ mọc 
hoa sen. Huống chi là thân người không tội ác mấy! Và được phước báu gọi 
là tối linh; thêm đủ Tín và Nguyện đều tu; đâu thành luống bỏ.
                   
Chú 
Giải:  "Người ác" là đời Ðường có ông Trương Thiện Hòa làm nghề hàng 
trâu, khi sắp chết, thấy bầy trâu đến đòi thường mạng cho nó.  Lúc ấy ông 
hoảng sợ, kêu vợ nói: “Mau rước thầy niệm Phật cho tôi”. Nhà sư đến dạy 
rằng: “Trong kinh nói, khi lâm chung tướng ác (168) hiện ra, nên chí tâm 
niệm Phật thì sẽ được vãng sanh”.
          Ông Trương Thiện 
Hoà nói: “Ðịa ngục đến gấp, mau đem lư hương đây!” Rồi tay hữu bưng lửa, 
tay tả cầm hương đốt, day mặt về hướng Tây, chuyên thiết niệm Phật, chưa 
đầy 10 tiếng, ông tự nói: “Phật đến rước ta”; dứt lời liền tắt thở.    
          "Loài súc sanh 
niệm Phật" là đời Tống, tại non Huỳnh Nham, chùa Chánh Ðẳng, sư cụ Quán 
Công nuôi chim cù dục (sáo). Ngài thường dạy nó niệm Phật không ngớt. Mới 
hôm đứng chết trong lồng. Ngài Quán Công thương xót đem chôn. Sau trên mộ 
nó mọc lên đóa sen hồng. Ðào đất xem thử thì hoa sen ấy từ trong chót lưỡi 
của chim cù dục mọc ra (loài sáo trâu:  Toàn sắc đen, khi bay cánh nó điểm 
trắng).
          Ngài Linh Chi 
Chiếu luật sư làm bài thi khen ngợi, có câu:
          "Chim lồng giam 
hãm không chi lạ;
          Ðứng chết, mọc 
sen mới rất kỳ" ! (169)
          Như trên đây đã 
thuật lại những sự tích trì danh niệm Phật. Từ sự tích:  Niệm Phật trong 
miệng bay ra hào quang và trong miệng bay ra vị Phật, đến đây số là cũng 
trong muôn ngàn sự tích mà nay chỉ biên có một vài truyện thôi.
          Chữ "Thắc" nghĩa 
là cái ác còn giấu ở trong tâm khảm.  
          Chữ "tối linh"  
là nói loài người khôn ngoan hơn muôn loài (170).
          Sau rốt kết luận 
rằng: Người ác niệm Phật còn được vãng sanh, huống chi cái ác chưa ắt bằng 
như ông Trương Thiện Hòa và súc sanh niệm Phật còn được vãng sanh thay, 
huống chi hạng tối linh mà gọi là nhân loại. Lấy đó so sánh, biết chắc là 
niệm Phật được vãng sanh, vậy quyết chắc rằng người niệm Phật, mà hẳn có 
cả Tín và Nguyện gồm tu thì chỗ làm đâu có hư hỏng!
          
5. Kết 
Khuyến
 
          Chánh Văn: 
Thế nên một lời vừa xướng, ngàn Phật đồng khen.  Bực tam học cao tăng, 
trang cửu lưu danh đức, hoặc u hoặc hiển, hoặc Thánh, hoặc phàm, như muôn 
sông đâu lại chẳng chảy về biển Ðông; cũng ví như các ngôi sao thảy đều về 
chầu sao Bắc Ðẩu (171). Sánh với đường tắt, gọi là Phổ Môn, lời đâu có 
dối. Vậy phải quyết chí cầu sanh, không nên nghĩ nghị gì nữa. 
          
Chú 
Giải: Văn đây tổng kết pháp môn Tịnh Ðộ, là chỗ nương về của tất cả 
chúng sanh. Chữ "Xướng" là dạy. Chữ "Canh" là nối. Chữ "thủy xướng" là: 
Ðức Thích Ca chỉ bày cõi Tây phương Tịnh Ðộ chúng sanh mới biết tu Tịnh 
nghiệp (niệm Phật). Ấy là dắt mà dẫn đường đi.
          Chữ "đồng khen" 
là: Sáu phương Phật đồng khen ngợi, rõ như trong kinh văn nói, ấy là lời 
nối mà họa vần theo vậy. "Tam học" là Thiền, Giáo, Luật ba tông. Thiền như 
ngài Vĩnh Minh là bực thạch trụ (172) trong Tông môn mà được sanh về bực 
thượng thượng phẩm (173); ngài Viên Chiếu riêng giữ theo pháp đơn truyền 
"Giáo ngoại biệt truyền" mà được danh nêu bên Liên Cảnh (174). Giáo như 
ông Tăng Duệ rộng giúp ngài La Thập dịch kinh mà hoa sen mọc trong giường 
(175); ngài Tứ Minh (176) trùng hưng giáo pháp ngài Thiên Thai (tông Thiên 
Thai) mà day mặt về Tây ngồi tịch.
          "Luật" như ngài 
Linh Chi (177) khi sống hoằng luật Tỳ Ni mà lúc chết được vãng sanh về 
nước An Dưỡng; ngài Thanh Chiếu (178) mở rộng môn  học Luật, mà chết nói 
bài kệ về Tây phương. Nếu nói rộng ra thì không thể kể xiết.
          "Cửu lưu": Nho 
lưu, Ðạo lưu, Nông lưu, Công lưu, Y lưu, Bốc lưu (179) v.v... Nho lưu như 
ông Văn Lộ Công (180) đức nghiệp đầy triều mà còn kết duyên với 10 vạn 
người đồng sanh Tịnh Ðộ.
          Ông Tô Trưởng 
Công văn chương đức hạnh tuyệt vời mà cũng có làm thuyết Tây Phương Công 
Cứ.
          Ðạo lưu: ông Cát 
Tế Chi (181) bỏ học đạo tiên mà hồi tâm tu Tịnh nghiệp; ông Ðàm Loan pháp 
sư đốt kinh Tiên mà chuyên tu kinh Thập Lục Quán (182). Cho đến ông Tử 
Chương học nghề thuốc của ông Kỳ Bá, Huỳnh Ðế (183) mà cũng để tâm niệm 
Phật.
          Ông Trương 
Thuyên làm nghề cày bừa mà cũng xưng danh hiệu Phật.
          Chốn U Minh như 
xưa vua Minh Quân còn kỉnh lễ (184), quỉ La Sát nguôi lòng (185).
          Bực Thánh như 
đức Văn Thù cầu "Sanh", đức Phổ Hiền nguyện  "Vãng" (186); huống chi cõi 
dương thế với người phàm tục, không đợi luận nói vậy.
          “Chảy về biển 
Ðông” nghĩa là: Nhóm về đến chỗ cùng tột. “Chầu sao Bắc Ðẩu” nghĩa là: Noi 
theo về gốc chủ. Dụ như cõi Tịnh Ðộ là chỗ về chơn thật. Thế tất nhiên 
phải hướng mặt về đó chớ không phải như miễn cưỡng hay là bắt buộc phải 
làm vậy đâu?
          "Ðường tắt gọi 
là pháp Phổ Môn": Ðã giải ở đoạn văn trước; đây nhắc lại để kết luận, rõ 
ràng không phải luống, dư vậy.
          “Quyết chí” là 
kinh Ðại Bổn nói: ‘Dầu có đống lửa to đầy cả tam thiên đại thiên thế giới, 
người tu cũng cần phải vượt qua khỏi lửa ấy”. Muốn sanh về cõi nước kia, 
thì phải lập chí quyết định, tiến mãi không hề khiếp nhược và thối lui đối 
với thế giới lửa kia!!
          “Không cần nghĩ 
nghị” là kinh Dịch nói: "Nghĩ xét rồi sau mới nói; bàn luận rồi sau mới 
làm". Nay bảo chẳng cần nghĩ bàn là người xưa có nói: “Bói để giải quyết 
tâm nghi, không nghi bói làm gì?” (187). Niệm Phật vãng sanh, miễn tin 
chắc không nghi là được, đâu còn nghĩ bàn làm chi nữa?
---o0o---