Thi
tính phản ảnh thật rõ nét qua kinh sách cũng như phong cách của những  
người tu hành đã ảnh hưởng sâu đậm đến các sinh hoạt văn hóa của hầu hết
các  quốc gia Phật Giáo Á Châu.
Thi phú nói chung có khả năng khơi động những xúc cảm sâu kín và 
thanh cao  nơi con người giúp họ vượt lên trên các bản năng thô thiển và
trói buộc của sự  sống. Thi phú Phật Giáo nói riêng còn vượt xa hơn cả 
khả năng ấy bằng cách mang  lại cho chúng ta một sự bén nhạy nào đó giúp
chúng ta mở rộng con tim và tâm hồn  mình hướng vào một bầu không gian 
cao đẹp, thanh thoát và tràn ngập yêu thương.
Sự mở rộng đó giúp chúng ta loại bỏ được mọi thứ lo âu và sợ hãi 
trong cuộc  sống, hầu giúp chúng ta quán thấy được bản chất của hiện 
thực trong những thể  dạng tinh khiết nhất của nó. Thi tính bàng bạc và 
thấm đượm trong mọi sinh hoạt  tâm linh của những người tu hành cũng như
trong tâm hồn của những người thế tục  xuyên qua lịch sử phát triển lâu
dài của Phật Giáo, và đã để lại cho chúng ta  hôm nay một kho tàng thi 
phú thật dồi dào.
Trước hết chúng ta hãy đơn cử một vài thí dụ nói lên khía cạnh thi 
tính trong  kinh sách và sau đó sẽ trích dẫn một vài vần thơ do những 
người tu hành trước  tác xuyên qua không gian và thời gian trên dòng 
lịch sử Phật Giáo.
Trong Kinh Kim Cương có nêu lên một câu giảng đầy thi vị của Đức Phật
nói lên  bản chất vô thường và lệ thuộc của mọi hiện tượng trong thế 
giới, nhằm để cảnh  giác tất cả chúng ta:
 "Như những vì sao, những con ruồi đang bay hay ánh lửa của một ngọn đèn dầu, Như một ảo giác ma thuật, một giọt sương mai hay một bọt bong bóng, Một giấc mơ, một tia chớp hay một áng mây bay,  Đấy là cách phải nhìn vào mọi hiện tượng tạo tác từ những điều kiện trói  	buộc"    
Câu giảng trên đây mang một nội dung triết học thật sâu sắc, thế 
nhưng những  hình ảnh sử dụng lại thật hết sức giản dị và đầy thi tính. 
Sự giản dị và thi  tính giúp cho câu giảng vượt lên trên mọi hình thức 
lý luận dông dài và mang lại  những xúc cảm có thể đi thẳng vào con tim 
và cả lý trí của chúng ta. Thật vậy,  những lời giảng huấn của Đức Phật 
luôn mang lại cho chúng ta một sức mạnh xúc  cảm sâu kín và thiêng 
liêng. Sự sinh động đó đã góp phần không nhỏ vào việc bảo  tồn và lưu 
truyền giáo huấn của Đấng Thế Tôn từ những thời kỳ truyền khẩu, sau  đó 
là những tờ kinh bằng lá bối, mãi cho đến ngày nay với những phương tiện
truyền thông tân tiến.
Kinh điển bằng tiếng Pa-li ghi chép lại những lời giảng huấn của Đức 
Phật  thường hàm chứa nhiều thi tính. Thí dụ như bài kinh ngắn 
Aditta-sutta sau đây  trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya, I, 41). 
Chữ Pa-li aditta có nghĩa là  sự bốc cháy, do đó có thể tạm dịch tựa của
bài kinh này là Bài Kinh về trận Hỏa  Hoạn. Tuy đề cập đến một trận hỏa
hoạn thế nhưng bài kinh lại là một bài thơ, và  bối cảnh thuyết giảng 
cũng hết sức thi vị và thiêng liêng. Nơi vườn Kỳ Viên giữa  đêm thanh 
vắng một tiên nữ từ trên không trung hiện ra, ánh hào quang từ trên  cao
tỏa sáng cả khung cảnh mênh mông. Tiên nữ đến đảnh lễ Đấng Thế Tôn đang
ngồi  thiền một mình trong đêm rồi lùi lại và ngồi sang một bên. Đấng 
Thế Tôn cảm ứng  cho nàng tiên nữ hát lên một bài hát cho hàng ngàn thí 
chúng và các đệ tử của  Ngài nghe, họ đang mơ màng và nằm rải rác trong 
khắp khu vườn rộng lớn. Sau đây  là phần chuyển ngữ của bài kinh này dựa
theo bản dịch tiếng Anh của Thanissaro  Bhikkhu:
"Tôi từng được nghe như vầy: Có một lần Đấng Thế Tôn đang ngụ tại tu 
viện của  ngài Cấp Cô Độc (Anathapindika) trong khu vườn Kỳ Viên, gần 
thành Xá-Vệ (Savatthi).  Vào lúc nửa đêm, hiện ra một nữ thiên nhân 
(devata) tỏa ánh hào quang chiếu sáng  cả khu vườn. Vị tiên nữ tiến đến 
gần Đấng Thế Tôn, đảnh lễ rồi ngồi sang một bên.  Sau khi ngồi sang một 
bên bèn cất tiếng hát lên bài hát sau đây:
"Khi căn nhà bốc cháy,
 Những gì còn sót lại,
 Là những vật đã cho.
 Kìa của cải giữ lại,
 Đang hóa thành bụi tro.
 
 Cả thế gian bốc cháy!
 Tuổi già thanh củi mục,
 Cái chết ngọn lửa hồng.
 Bảo toàn nhanh của cải:
 Hiến dâng bằng hai tay.
 
 Vật cho là quả ngọt,
 Giữ lại, mối lo buồn:
 Nào vua quan dòm ngó,
 Nào kẻ trộm rình mò,
 Hỏa hoạn, một đống tro.
 
 Kìa thân xác bỏ lại,
 Nằm kia cùng của cải.
 Hỡi những ai tỉnh ngộ!
 Nắm lấy hạnh phúc này,
 Bằng hai tay để ngửa.
 
 Hân hoan đôi bàn tay,
 Dù chỉ là ít ỏi,
 Một chút này hiến dâng.
 Con đường nào rộng mở,
 Cõi thiên nhân đón chờ".
Rung động và thi tính thoát ra từ những lời giảng huấn của Đức Phật 
cũng đã  truyền sang cho cả các đệ tử của Ngài, bởi vì chính họ cũng đã 
lưu lại cho chúng  ta hôm nay những vần thơ thật tuyệt diệu. Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka  Nikaya) gồm tất cả 15 phẩm, trong đó phẩm 8 mang tên là Trưởng Lão Tăng  Kệ (Thera-gatha), phẩm 9 là Trưởng Lão Ni Kệ (Theri-gatha),  cả hai phẩm này đều là những bài thơ rất súc tích. Xin trích dẫn dưới đây một  vài đoạn trong Trưởng Lão Tăng Kệ, các đoạn này được xem là do Ma-ha Ca-diếp  (Mahakasyapa) một đệ tử rất uyên bác của Đức Phật trước tác:
Dưới những đám mây xanh biếc,
 Trong veo, xuôi dòng những con sông nước mát.
 Hai bờ đầy những côn trùng (1), 
 Trông kìa rặng núi đá tôi mê say.
 (.....)
 Tương tự màu biếc hoa cỏ gai,
 Giữa bầu trời mùa thu mây giăng,
 Bay đầy những đàn chim đủ loại.
 Trông kìa rặng núi đá tôi mê say.
 
 Dãy đồi kia người thế tục nào đến đấy làm gì.
 Chỉ có những đàn hươu thong dong,
 Giữa trời, bay đầy những đàn chim đủ loại,
 Trông kìa rặng núi đá tôi mê say.
 
 Nơi này trong những hẻm vực nước tuôn,
 Chỉ toàn vượn hươu lai vãng,
 Mát rượi một thảm rêu phủ dầy.
 Trông kìa rặng núi đá tôi mê say.
 
(1): nguyên bản tiếng Pa-li là indagopaka, từ điển tiếng Pa-li cho biết
đấy là  một loài sâu bọ màu đỏ từ dưới đất chui lên, có thể đây là 
những con giun đất  (?). (Dựa theo bản dịch của Nyanapotika Thera và 
Helmuth Hecker trong quyển Les  Grands Disciples du Bouddha, Tập I, tr. 
215-216). Cũng xin nhắc thêm là bài thơ  này có thể là một trong những 
bài thơ xưa nhất của nhân loại vì đã được trước  tác cách nay hơn hai 
ngàn năm trăm năm (?).
 
 Nếu hiện thực chỉ có thể cảm nhận được 
một cách trực tiếp bằng trực giác thì thi  tính cũng chỉ có thể cảm nhận
được bằng con tim của mỗi người. Mỗi bức tranh là  một bài thơ câm 
lặng, mỗi bài thơ là một bức tranh không lời. Một vần thơ tự nó  luôn 
câm nín tương tự như một bức tranh lúc nào cũng yên lặng và vô tình. 
Chúng  chỉ có thể bật lên thành tiếng nói trong bầu không gian mở rộng 
của con tim của  chính chúng ta mà thôi. Vậy chúng ta hãy thử lắng nghe 
tiếng nói đó vang lên  trong lòng của thiền sư Đạo Nguyên (Dôgen, 
1200-1253):
 
 Mỗi âm thanh lọt vào tai tôi
 Đều hóa thành lời nói.
 Ô kìa, đúng là tiếng nói
 Của một người bạn chân tình!
 Thế nhưng lạ thật,
 Chẳng có một tiếng động nào cất lời với tôi.
 (Theo bản dịch tiếng Pháp của Alain Grosley, Le grand livres du Bouddhisme,  2007, tr. 493)
Có phải chăng sự yên lặng mênh mông đó chính là Hiện Thực, là  người 
bạn của Đạo Nguyên, một người bạn luôn bên cạnh ông và đang réo gọi ông 
trong yên lặng?
Thi phú rất gần với sự bén nhạy của tất cả những người tu tập Phật 
Giáo nói  chung, thế nhưng hình như cũng đã đặc biệt thấm sâu vào mạch 
máu của những người  tu thiền nói riêng. Tuy tâm hồn và con tim của họ 
luôn trong sáng và thanh thản,  thế nhưng đồng thời cũng căng thẳng như 
một sợi dây đàn, sẵn sàng vang lên những  âm thanh tỏa rộng trong không 
gian. 
 
 Sau đây là hai trích dẫn trong một tập công án mang tên 
là « Zen-rin-kushu »,  góp nhặt một vài vần thơ thuộc thế kỷ XVI của 
thiền học Zen Nhật Bản:
 
 Một hạt bụi thật nhỏ
 Cất chứa toàn vũ trụ.
 Một đóa hoa nở rộ,
 Toàn thế giới đứng lên.
 
 Vốc nước mát,
 Trăng rơi vào hai tay.
 Với cành hoa,
 Hương thơm vương trên áo.
(Theo bản dịch của Alain Grosley, id, tr. 482)
Sau đây là trích dẫn một vài vần thơ tiêu biểu của một vài quốc gia xuyên qua  lịch sử lâu dài của Phật Giáo.
Thi phú Phật Giáo Ấn Độ
Thế Thân (?316-396)
Thế Thân (Vashubandu) là một vị đại sư thuộc Duy Thức Tông thế nhưng ông đã  trước tác một tập thơ rất nổi tiếng về Tịnh Độ là Abhidharmakosa (A-tì-đạt-ma  Câu Xá Luận) gồm tám mươi tiết nêu lên ước vọng được tái sinh vào cõi Tịnh  Độ. Sau đây là hai tiết trong số tám mươi tiết của bài thơ này:
Tiết 3
Tôi kính phục những phẩm tính của cõi ấy (tức là cõi Tịnh Độ)
 Một cõi vượt lên trên tam giới.
 Thật thế đấy là một cõi tương tự như không gian,
 Mênh mông, vĩ đại và vô tận!
 
 Tiết 10
 
 Hoa, y phục và trang sức từ không trung rơi xuống khắp nơi, 
 Tỏa hương thơm ngát.
 Trí tuệ của Phật rực sáng như mặt trời,
 Làm tan biến bóng tối và những mê cuồng của thế gian.
 
 (Theo bản dịch của Jean Eracle, trong quyển: Trois soutras et un traité de la  Terre Pure, 2008)
Thi phú Phật Giáo Tây Tạng
Thi phú phản ảnh thật rõ rệt trong các bài hát, các bài tụng niệm 
cũng như  các bài kinh tan-tra. Ngay cả các tập luận giải mang tính cách
triết học cũng  thường được trước tác dưới thể dạng thơ. Sau đây là một
vài trích dẫn:
Tsangyang Gyatso 
 (Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI, 1683-1706)
 
 Nụ hôn của sương giá thổi lên cỏ
 Những cơn gió buốt,
 Thở vào hoa những mối tương giao
 Nhằm réo gọi những đàn ong.
 
 Những ai không hề biết suy tư
 Về vô thường và cái chết,
 Là những người khôn ngoan,
 Hay là những kẻ điên loạn?
 
 Những con thiên nga
 Lưu luyến những bờ hồ xanh mát.
 Thế nhưng khi nước đóng băng và giá buốt,
 Chúng cũng sẽ bay đi và không hề hối tiếc!
 
 Các dấu triện in lên tờ giấy,
 Nào phản ảnh được tư duy của chính mình!
 Chỉ nên sử dụng dấu ấn của tâm thức
 Để in sự thật lên mọi vật thể chung quanh!
(Theo bản dịch của A. Grosley, id, tr. 490)
Hiện thực không thể nào diễn đạt được bằng lời nói cho người khác 
nghe hay  bằng chữ viết cho người khác đọc, mà mỗi người chỉ có thể cảm 
nhận được bằng tâm  thức của chính mình. Các tư tưởng triết học trên đây
thật sâu sắc thế nhưng đã  được diễn đạt bằng thi phú và bằng những 
hình ảnh thật cụ thể.
 _____
Shabkar (1781-1851)
 Phải thường trú trong bầu không gian bao la, 
 Sinh động và trong sáng.
 Phải hướng tầm nhìn vào vô tận, 
 Tương tự như ngồi trên đỉnh núi để phóng mắt ra tám phương trời.
 
 Mặt trời luân lưu trong không gian bao la,
 Chẳng có nơi nào ở giữa cũng chẳng có chốn nào chung quanh,
 Bầu không gian đó luôn rạng ngời và chiếu sáng mọi vật thể không phân biệt thứ  nào.
 Đấy cũng chính là cách phải giúp đỡ chúng sinh.
 
 Mục đích lớn nhất trong cuộc sống là phải phát động lòng nhân từ,
 Nuôi nấng tim mình bằng yêu thương,
 Phải luôn xót xa,
 Trước khổ đau của kẻ khác.
 
 Hãy khơi động tình thương, 
 Giúp cho lòng từ bi hiển lộ,
 Một cách thật tự nhiên và đích thật,
 Trong bất cứ cảnh huống nào.
 
 Làm tổn thương người khác là làm tổn thương chính mình,
 Giúp đỡ kẻ khác là giúp đỡ chính mình.
 Vạch lỗi lầm của kẻ khác là phơi bày lỗi lầm của chính mình.
 Ngợi khen phẩm tính của người khác là nêu lên phẩm tính của chính mình.
(Theo bản dịch của Alain Grosley, id, tr. 488)
Shabkar, tác giả bài thơ trên đây là một vị đại sư Tây Tạng được xem là người  đứng hàng thứ hai sau Mật-lặc Nhật-ba (Milarépa).
Thi phú Phật Giáo Trung Quốc
Thi phú Phật Giáo Trung Quốc là cả một kho tàng đồ sộ, sau đây chỉ là
một vài  trích dẫn nhỏ. Các bài thơ Đường nổi tiếng thường đã được 
nhiều người dịch, tuy  nhiên cũng mạn phép đề nghị thêm một bản dịch 
mới. Đối chiếu nhiều bản dịch khác  nhau cũng có thể giúp người đọc tìm 
hiểu tường tận hơn bản gốc. Dù sao thì cũng  chỉ xin trích dẫn vài bản 
dịch xưa đã được nhiều người biết đến.
Tăng Xán (? - 606)
Con Đường thật tròn, đầy đặn như không gian,
 Chẳng thiếu cũng chẳng thừa.
 Con người dù lấy đi thế nhưng cũng bỏ lại,
 Nào họ có hiểu được Con Đường là gì đâu!
 _____
 
 Chớ chạy theo hiện tượng,
 Cũng đừng trụ vào tánh không.
 Sự đối nghịch đó sẽ chấm dứt,
 Khi nào tâm thức hòa nhập với an bình.
 _____
 
 Nếu tâm thức loại bỏ được sự phân biệt,
 Thì tất cả chúng sinh sẽ trở thành nhất thể.
 Tất cả sẽ chẳng còn lại gì.
 Khi biến mất, hiện hữu sẽ để lại trống không!
 Thế nhưng trống không chính lại là hiện hữu.
 Đức Phật chỉ là con người bình dị,
 Một con người bình dị chính là Đấng Thế Tôn.
Các bài thơ trên đây được dịch nghĩa dựa theo các bản tiếng Pháp do 
học giả  Alain Grosley dịch (id, tr. 492). Vì không tìm được các bản gốc
tiếng Hán nên  rất khó chuyển các bài này thành thơ nôm. Trong quyển 
sách trên đây của ông, học  giả A. Grosley đã xếp Tăng Xán vào danh sách
các thiền sư Nhật Bản. Điều này  không được đúng lắm, bởi vì Tăng Xán 
là một thiền sư nổi tiếng của Trung Quốc.  Sự nhầm lẫn này sở dĩ đã xảy 
ra là vì rất có thể A. Grosley đã căn cứ vào các tư  liệu Nhật Bản. 
Trong các tư liệu này người Nhật gọi Tăng Xán - tiếng Hán là  Sêngcàn - 
bằng một cái tên rất Nhật Bản là Sôsan.
_____
Vương Duy (701-761)
 
 Bài 1
 Quy Tung Sơn tác
 
 Thanh xuyên đái trường bạc
 Xa mã khứ nhàn nhàn
 Lưu thủy như hữu ý
 Mộ cầm tương dữ hoàn
 Hoang thành lâm cổ độ
 Lạc nhật mãn thu sơn
 Điều đệ Tung cao hạ
 Qui lai thả bế quan
 
 Bài thơ trước tác trên đường về Tung Sơn
 
 Suối trong viền thảm cỏ
 Thong dong xe ngựa chạy
 Dòng suối dường hiểu ý
 Chim chiều cũng bay theo
 Thành hoang trên bến cũ
 Chiều thu tỏa núi đồi
 Nhấp nhô dãy non Tung
 Cửa am ta khép lại.
 (Hoang phong dịch)
Nhà thơ lòng thanh thản trở về ẩn cư nơi chốn hoang vu.  Dòng suối 
hình như cũng hiểu ý và tán đồng quyết tâm ấy của nhà thơ. Chim trời  
cũng bay theo để chào đón. Đi ngang những thành quách hoang tàn, người 
thi sĩ  lại càng cảm thấy quyết tâm chọn cho mình một cuộc sống mới quả 
thật là hữu lý.  Trong ánh hoàng hôn tỏa rộng giữa núi rừng Tung Sơn, 
tác giả đã khép lại một  quãng đời thế tục trước đây của mình.
Vương Duy là một họa sĩ lừng danh đã từng sáng lập ra một trường phái
hội họa,  và cũng là một thi sĩ và một nhà thư pháp thượng thặng được 
nhiều người mến mộ,  thế nhưng vào cuối đời ông cũng đã quyết định tu 
thiền và không màng đến danh  lợi.
 
 Thơ làm khi về Tùng Sơn
 
 Suối trong quanh giữa rừng thưa
 Ngựa xe đi đó từ từ thẩn thơ
 Nước trôi có ý đón chờ
 Chim hôm chừng muốn đợi ta cùng về
 Thành hoang cạnh bến đò kia
 Bóng chiều đã rọi khắp rìa núi thu
 Non Tung thăm thẳm nhấp nhô
 Về đây đóng cửa để tu mới mầu.
 (Trần Trọng Kim dịch)
 _____
 
 Bài 2
 Trúc Ly Quán 
 
 Độc tọa u hoàng lý 
 Đàn cầm phục trường khiếu 
 Thâm lâm nhân bất tri 
 Minh nguyệt lai tương chiếu 
 
 Dịch nghĩa:
 
 Một mình ngồi yên bên khóm trúc vàng
 Khẩy mãi chiếc đàn cầm
 Chốn rừng sâu nào ai hay
 Trăng lên và ta cùng chiếu vào nhau.
 
 Xin tạm dịch dưới dạng một bài thơ:
 
 Quán Trúc Ly
 
 Bóng lẻ ngồi yên bụi trúc vàng,
 Đàn cầm mấy khúc sao khẩy mãi.
 Rừng sâu hun hút nào ai biết,
 Một bóng trăng lên ta với nhau.
 (Hoang Phong dịch)
Trong khu rừng thanh vắng và trong cảnh cô quạnh chỉ biết lấy bóng 
trăng làm  bạn và bóng trăng thì cũng xem mình như một người bạn.    
 
 Quán Trúc Ly 
 
 Một mình giữa đám rừng tre, 
 Đánh đàn cao-hứng hát nghe một bài. 
 Rừng sâu nào có ai hay, 
 Bóng trăng đâu đến chiếu ngay vào mình.
 (Trần Trọng Kim dịch)
Quán Trúc Ly
Một mình trong khóm trúc
 Gảy đàn rồi hát chơi
 Rừng sâu không kẻ biết
 Trăng sáng chiếu lên người
 (Trần Trọng San dịch)
 _____
 
 Sầm Tham (715-770)
 
 Sơn Phòng xuân sự
 
 Lương viên nhật mộ loạn phi nha
 Cực mục tiêu điều tam lưỡng gia
 Định thụ bất tri nhân khứ tận
 Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa
 
 Dịch nghĩa:
 
 Vườn Lương hoàng hôn quạ bay đầy
 Nhìn hút mắt chỉ thấy dăm mái nhà tiêu điều
 Cây trong sân nào hiểu được mọi người đã ra đi biền biệt
 Xuân về hoa ngày trước lại nở như những thuở xa xưa
Lương Viên là tên ngôi vườn của một nhà hào kiệt là Lương Hiếu Vương,
con thứ  của vua Lương Vũ Đế thuộc thời Nam Bắc Triều (420-481)
 
 Cảnh xuân nơi gian nhà trong núi
 
 Lương viên chiều xuống quạ bay đầy,
 Tiêu điều xa tắp nhà dăm mái.
 Cỏ cây nào biết người đi biệt,
 Xuân đến hoa xưa lại nở đầy.
 (Hoang Phong dịch)
Cảnh xuân trong nếp nhà trên núi
 
 Trời tối vườn Lương quạ lượn lờ
 Nhà đâu vút mắt, nóc lưa thưa
 Cây xuân chẳng biết người đi hết
 Xuân đến hoa còn nở giống xưa
 (Tản Đà dịch)
 
Các chữ "lượn lờ" và "lưa thưa" không được sát nghĩa, cũng không phù 
hợp lắm với  xúc cảm trong bài thơ gốc. Trong câu thứ tư chữ "còn" có 
thể khiến cho người đọc  hiểu lầm câu này là một nghi vấn (tự hỏi), do 
đó không diễn tả được hết ý nghĩa  sâu sắc của câu kết.
 
 Nét xuân ở nhà trong núi
 
 Trời tối, vườn Lương quạ dập dìu 
 Nhà xa mấy nóc cảnh đìu hiu 
 Cây sân chẳng biết người đi hết 
 Xuân tới hoa xưa vẫn nở đều.
 (Ngô Tất Tố dịch)
Chữ "dập dìu" không phù hợp với xúc cảm của bài thơ, chữ "cây sân" vì gượng  ép nên không được rõ nghĩa lắm. 
 
 Thi phú Phật Giáo Tiều Tiên
 
 Ch'wimisuch'o (? - ?)
 
 Ngọn núi không mời mọc ta,
 Ta cũng quên không mời nó.
 Khi nào núi và ta đều quên nhau,
 Thì đấy sẽ là lúc tìm được sự giải thoát! 
 
 Mugan (thế kỷ XVIII)
 
 Gió lung lay những lông mày lá liễu,
 Con tim ta rung động.
 Trong thung lũng mây khói bốc lên cao,
 Trong tim dấy lên đám bụi mù.
 Không quan tâm đến những xao động của thế gian, 
 Con người đích thật mới có thể thức tỉnh và hiểu được vũ trụ là gì.
 
 Kyongho (thế kỷ XIX)
 
 Ảo giác là gì?
 Sự thật là gì?
 Cả hai đều sai cả!
 Sương mù bốc lên, là vàng khô rơi xuống,
 Thế nhưng mùa thu luôn tinh khiết.
 Ngắm nhìn ngọn núi cao im lìm,
 Sự thật bỗng hiện lên trong tôi.
 
 Manhae (1870-1944)
 
 Nếu sự bám víu của tình yêu chỉ là một giấc mơ,
 Vậy thì sự giải thoát đang ở đâu?
 Nếu những nụ cười và những giọt nước mắt chỉ là một giấc mơ,
 Vậy thì sự giác ngộ phi-tâm-thức đang ở đâu?
 Nếu tất cả các quy luật chi phối mọi sự sống chỉ là một giấc mơ,
 Thì tôi cũng xin được trở thành bất tử trong một giấc mơ của tình yêu.
 
(Trích trong  Manhae's Poems of Love and Longing, Wisdom Publications, 
2005, và  dựa theo bản dịch sang tiếng Pháp của Alain Grosley, id, tr. 
491)
Thi phú Phật Giáo Nhật Bản
Thi phú Phật Giáo Nhật Bản cũng phong phú không kém so với Trung 
Quốc, mặc dù  Phật Giáo đã đặt chân vào quê hương này sau Trung Quốc đến
bốn thế kỷ. Sau đây  là một vài trích dẫn.
 
 Saigyô (1118-1190)
 
 Thân xác này xin hóa làm muôn mảnh,
 Để ngắm nhìn muôn hoa.
 Mỗi mảnh xin hóa thành từng cánh,
 Để nở rộ trên cành, 
 Trong khắp các vùng núi non.
 ____
 
 Một gốc cây sừng sững, 
 Bên bờ một thửa ruộng vắng tanh,
 Cuống quít trên cành, 
 Con chim gáy gọi bạn,
 Giữa bóng hoàng hôn buông nhanh.
Chim gáy còn gọi là chim cu, là một loài chim sống thành cặp và rất trung  thành với nhau.
 _____
 
 Thật sâu trong vùng núi thẳm,
 Mảnh trăng vàng vằng vặc
 Tỏa ánh sáng vô biên,
 Hòa tan nghìn kỷ niệm.
 Chẳng có gì còn lại. Trống không!
 
 
 Đạo Nguyên (Dôgen, 1200-1253)
 
 Trên dòng suối tâm tư,
 Êm ả vầng trăng soi.
 Một gợn sóng dấy lên,
 Con trăng chìm xuống đáy,
 Ánh sáng hoá bùn đen.
 _____
 
 Thế giới này
 Biết lấy gì so sánh?
 Có phải là một giọt nước đang rơi, 
 Từ mỏ con vịt trời,
 Phản chiếu ánh trăng trong.
 _____
 
 Lớp tuyết băng
 Phủ kín thảm cỏ mùa đông.
 Một con hạc trắng
 Nấp mình
 Trong bóng tối trắng tinh.
 _____
Ngoài ra trong thi phú Nhật Bản còn có một thể thơ rất đặc thù gọi là
Haiku,  tiếng Việt dịch âm là Hài-cú. Một bài thơ Haiku hay Hài-cú chỉ 
có 3 câu và gồm  tất cả 17 âm (hay thanh): câu một 5 âm, câu hai 7 âm và
câu ba 5 âm. Thật ra ba  câu thơ cũng chỉ là một câu phát biểu duy 
nhất. Tiếng Nhật đa âm do đó 5, 7, 5  cũng có thể đủ để tạo ra được một 
âm hưởng nào đó cho bài thơ gồm vỏn vẹn chỉ có  một câu phát biểu. Do đó
dịch thơ từ một ngôn ngữ đa âm sang một ngôn ngữ độc âm  sẽ rất khó, 
trên nguyên tắc thì cũng chỉ có thể dịch được nghĩa mà thôi. Thông  
thường chủ đích của một bài thơ Hài-cú là nêu lên một sự mở rộng nào đó 
và nếu  có thể thì nên có một chữ gợi lên một trong bốn mùa. Sau đây là 
phần trích dẫn  một vài câu thơ Hài-cú:
 Matsuo Bashô (Tùng Vi Ba Tiêu, 1644-1694)
 
 Xuân tàn
 chim réo gọi
 đáy nước, đôi mắt cá nhạt nhòa
 _____
 
 Con đường mòn trong núi
 ánh dương hồng lên cao  
 trong hương thơm hoa mận.
 
 _____
 
 Ueshima Onitsura (1661-1738)
 
 Cổng vườn
 nở rộ
 trắng toát cánh hoa trà
 _____
 
 Gió mát
 tiếng thông reo
 ngập tràn cả khung trời trống rỗng
 _____
 
 Ryokan (Lương Khoan, 1758-1831)
 
 Tên trộm bỏ quên
 khuôn trăng
 bên thềm cửa sổ
 
Ryokan dịch sang tiếng Hán là Lương Khoan là một thiền sư sống cô đơn 
và ẩn dật  nơi một chiếc am cỏ trong một khu rừng hoang vắng. Một hôm 
sau khi đi tản bộ về  ông nhận thấy chiếc am bị trộm và tên trộm đã đánh
cắp các vật dụng nghèo nàn  của ông, ông bèn lấy một tờ giấy viết lên 
câu thơ trên đây.
 _____
 
 Vô tư
 tôi gối đầu lên cỏ
 và quên cả chính tôi
 _____
 
 Cả thế giới 
 bỗng hóa thành
 cội anh đào nở hoa    
 _____
 
 Trên mặt nước 
 lăn tăn gợn sóng bạc
 một cơn mưa mùa thu
 
(Nếu thích thơ của Ryokan, độc giả có thể đọc quyển "Ryokan, gã thiền 
sư Đại  Ngu cô đơn trên con đường trống không" của Hoang Phong, nxb Văn 
Hóa Saigon,  2009, hoặc trên một vài trang web)
 _____
 
 Kobayashi Issa (1763-1827)
 
 Thế giới này
 rên siết
 trong chiếc áo bằng hoa
 _____
 
 Mùa thu về
 con chó nào có hay
 chỉ vì nó là Phật
 
 Con chó chẳng diễn đạt gì cả. Tất cả chỉ là như thế.
 _____
 
 Trong giọt sương trắng tinh
 tôi luyện tập [thiền định]
 như giữa cõi thiên đường
 _____
 
 Quay tròn 
 trong chiếc lá sen
 hạt sương thế giới này 
 
 Cái nhìn thật thi vị về thế giới luân hồi của một vị thiền sư.
 _____
 
 Yosa Buson (1715-1783)
 
 Mùa xuân ra đi
 rón rén
 trong vườn đào nở muộn
 _____
 
 Giữa cỏ non
 một gốc liễu
 quên bẵng cả cội nguồn
 _____
 
 Một người đang cày ruộng
 những đám mây yên lặng
 cũng ra đi
 
Bài thơ nói lên sự tương liên sâu kín giữa mọi hiện tượng. Chỉ cần một 
sự  xao động thật nhỏ, vô tình và tự nhiên cũng có thể lôi kéo theo 
những chuyển  động khác,.
 _____
 
 Hoa mận
 rơi như mưa
 trên mặt bàn óng ả
 _____
 
 Sargû ( ? - ?)
 
 Cành liễu 
 vẽ bóng hình của gió
 chẳng cần đến ngọn bút lông
 _____
 
 Làn gió sớm
 làm nghiêng xuống những sợi lông
 trên lưng con sâu róm
 
 
 Thơ Phật Giáo Việt Nam
 
 Vạn Hạnh (? - 1018)
 
 Thị đệ tử
 
 Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
 Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
 Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
 Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
 
 Dịch nghĩa:
 
 Lời khuyên các đệ tử
 
 Đời người như bóng chớp, có rồi không,
 Vạn thứ cây mùa xuân tốt tươi, mùa thu sẽ khô héo.
 Nghiệm được sự thịnh suy thì sẽ không còn sợ hãi nữa,
 Thịnh suy chẳng qua như giọt sương treo đầu ngọn cỏ.
 
 Lời khuyên các đệ tử
 
 Kiếp người tia chớp chừng ngắn ngủi,
 Cỏ cây xuân mướt, thu trơ trụi.
 Ngẫm nghĩ thịnh suy là thế đấy,
 Mong manh ngọn cỏ hạt sương rơi.
 (Hoang Phong dịch)
 
 Dặn Học Trò
 
 Thân như bóng chớp, có rồi không,
 Cây cối xuân tươi, thu não nùng.
 Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
 Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.
 (Ngô Tất Tố dịch)
 _____
 
 Mãn Giác (1052 – 1096):
 
 Cáo tật thị chúng 
 
 Xuân khứ bách hoa lạc,
 Xuân đáo bách hoa khai.
 Sự trục nhãn tiền quá,
 Lão tòng đầu thượng lai.
 Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
 Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
 
 Cáo bệnh
 
 Xuân rồi trăm hoa rụng, 
 Xuân nay trăm hoa nở.
 Trước mặt việc đời trôi,
 Trên đầu già mất rồi.
 Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
 Đêm qua sân trước một cành mai.
 (Hoang Phong dịch)
 
Câu thứ năm do cụ Hoàng Xuân Hãn dịch, câu thứ sáu cũng đã được cụ Ngô 
Tất Tố  dịch dịch từ trước. Hai câu thơ dịch này thật tuyệt vời và đã đi
vào lịch sử văn  học Việt Nam, quả không thể nào có thể dịch hay hơn 
hoặc khác hơn được.
 
 Có bệnh bảo với mọi người 
 
 Xuân ruỗi, trăm hoa rụng,
 Xuân tới, trăm hoa cười.
 Trước mắt, việc đi mãi,
 Trên đầu, già đến rồi.
 Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
 Đêm qua, sân trước, một cành mai.
 (Ngô Tất Tố dịch)
 
 Xuân qua trăm hoa rụng,
 Xuân lại nở trăm hoa.
 Trước mắt sự đời thoảng,
 Trên đầu hiện tuổi già.
 Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết;
 Ngoài sân đêm trước một cành mơ. 
 (Hoàng Xuân Hãn dịch)
 (Trích trong bài viết "Đạo Phật đời Lý" của Hoàng Xuân Hãn. Không thấy vị này  dịch tựa của bài thơ)
 
Cụ Hoàng Xuân Hãn dịch chữ "chi mai" là "cành mơ" cũng có cái lý của 
cụ. Miền  Bắc không có cây mai vàng như ở miền Nam mà chỉ có cây mơ 
(prunier / plum tree)  hay cây mận. Cây mơ cho quả mơ còn gọi là quả ô 
mai, mùa xuân nở hoa trắng rất  đẹp. Có thể liên tưỏng đến câu thơ "Xuân
đến hoa mơ hoa mận nở" trong bài "Gái  Xuân" của Nguyễn Bính.
 _____
 
 Trần Nhân Tông (1258-1308)
 
 Bài 1
 Xuân mãn
 
 Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
 Nhất xuân tâm sự bách hoa trung
 Như kim khám phá Đông Hoàng diện
 Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng.
 
 Xuận muộn
 
 "Sắc không" thuở bé nào có hiểu,
 Mỗi độ xuân về lòng rộn rã.
 Đông Hoàng chợt tỉnh xuân đối mặt,
 Tọa thiền chiếu cỏ cánh hồng rơi.
 (Hoang Phong dịch)
Hai chữ "sắc"và "không" trích từ câu nổi tiếng nhất trong  Tâm Kinh 
là "Sắc tức thị không, không tức thị sắc", có nghĩa là "Hình tướng là  
trống không, trống không là hình tướng". Ý nghĩa của câu này không thể 
nào giải  thích bằng vài dòng được. Một đứa bé làm  thế nào có thể hiểu 
được bản chất của  các hiện tượng trong vũ trụ là gì, chỉ thấy rằng mỗi 
lần sắp đến Tết thì trong  lòng náo nức. 
 
 Chữ "như kim" trong 
câu thơ thứ ba có nghĩa là "lúc này", và toàn câu thì có  nghĩa là "Lúc 
này (hay ngày nay) nơi chốn Đông Hoàng này mới chợt tỉnh và đã  hiểu 
được xuân là gì". Câu thơ này có hai túc từ: "lúc này" chỉ thời gian và 
"Đông  Hoàng" chỉ nơi chốn, thế nhưng câu thơ dịch không "đủ chỗ" để 
ghép chung cả hai  túc từ. Đông Hoàng không biết là ở đâu thế nhưng "nơi
chốn" thường buộc xúc cảm  vào một bối cảnh nhất định nào đó của hiện 
thực, do đó đã giữ một vị thế quan  trọng hơn so với yếu tố thời gian. 
Thật vậy trong hầu hết tất cả các bài kinh  bằng tiếng Pa-li đều nêu lên
địa danh và bối cảnh mà bài kinh đã được thuyết  giảng.
Trong câu bốn, chữ "thiền bản" là một cái phản gỗ thật thấp để ngồi 
thiền,  chữ "bồ" có nghĩa là một thứ cỏ thơm, chữ "đoàn" có nghĩa là đan
kết, "bồ đoàn"  là một chiếc thảm hay nệm cỏ (tiếng Nhật là tatami) kết
bằng cỏ bồ để ngồi thiền  cho đỡ đau chân. Câu bốn có nghĩa là khi đã 
hiểu xuân là gì tức là hiểu được "hình  tướng chỉ là trống không và 
trống không thật ra cũng chính là hình tướng" thì  bèn ngồi xuống để 
thiền định. Chính vào lúc đó khi nhìn ra sân liền trông thấy  một cánh 
hoa hồng héo rơi xuống đất. Sự bén nhạy của một người hành thiền chính  
là ở chỗ ấy.
 
 Xuân cảnh
 
 Tuổi trẻ chưa từng lẻ sắc không
 Xuân về hoa nở rộn trong lòng
 Chúa Xuân nay đã thành quen mặt
 Nệm cỏ ngồi yên ngó rụng hồng
 (Ngô Tất Tố dịch)
 _____
 
 Bài 2
 Xuân cảnh
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
 Họa đường thiềm ảnh mộ vân phi
 Khách lai, bất vấn nhân gian sự
 Cộng ỷ lan can khán thúy vi.
 
 Dịch nghĩa: 
 
 Cảnh xuân
 
 Sâu trong khóm dương liễu đầy hoa chim hót khe khẽ
 Thềm sân in bóng mái nhà và những áng mây chiều bay
 Khách đến chơi không hỏi việc thế sự
 Chỉ cùng nhau đứng tựa lan can để ngắm màu xanh [của khói mây].
Cảnh xuân
 
 Khóm liễu đầy hoa chim hót khẽ,
 Thềm sân mái chếch bóng mây chiều. 
 Khách viếng chẳng một lời thế sự,
 Lan can cùng ngắm khói lam xa.
 (Hoang Phong dịch)
 _____
 
 Hương Hải (1627-1715)
 
 Nhạn quá trường không
 Ảnh trầm hàn thủy
 Nhạn vô di tích chi ý
 Thủy vô lưu ảnh chi tâm
 
 (Không tìm được tựa của bài thơ này)
 
 Dịch nghĩa:
 
 Nhạn bay ngang trời
 Bóng chìm trong đáy nước giá buốt
 Nhạn không cố ý để lại dấu tích
 Nước không lưu giữ bóng hình
 
 Tạm dịch: 
 
 Cánh nhạn ngang trời dang cánh bay,
 Bóng chìm nước buốt đôi cánh mỏi.
 Nước sâu đâu níu bóng chim trời,
 Cánh chim nào nhớ một đường bay.
 (Hoang Phong dịch)
Lời kết
Kinh sách Phật Giáo rất gần với những xúc cảm của con người, khác hơn
với  kinh sách mang tính cách răn đe của các tôn giáo thần khải. Thi 
tính trong kinh  sách Phật giáo là một phương tiện giúp con người khám 
phá ra hiện thực, hòa nhập  với hiện thực và để trở thành hiện thực. Do 
đó khái niệm về tận thế cũng không  hề có trong Phật Giáo, mà trái lại 
Phật Giáo chỉ chủ trương mở rộng con tim để  hướng vào thực tại trước 
mặt, với những gì thật thanh thoát, lạc quan và cao đẹp:
 
 Xuân rồi trăm hoa rụng,
 Xuân nay trăm hoa nở.
 Trước mặt việc đời trôi,
 Trên đầu già mất rồi.
 [Thế nhưng] Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
 [Trông kìa] Đêm qua sân trước một cành mai!
 (Thiền sư Mãn Giác)
Cành mai nở rộ trong đêm không phải là một cành hoa nở muộn mà đúng hơn là  một cành hoa báo hiệu một mùa xuân mới. 
 
 Bures-Sur-Yvette, 28.01.13
 
 Hoang Phong