Lý
- Trần là thời đại vàng son của lịch sử Việt Nam. Đây là thời đại phục
hưng, đất nước được độc lập chủ quyền, dân tộc được hồi sinh sau hơn một
ngàn năm Bắc thuộc. Thời này Phật giáo rất thịnh, tư tưởng triết lý
Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm linh con người và đời
sống văn học. Văn học Phật giáo nói chung, thơ Thiền nói riêng là một bộ
phận quan trọng của văn học Lý - Trần, là di sản quý báu của một thời
đại đáng tự hào của dân tộc ta. Tìm hiểu giá trị đích thực của thơ Thiền
là việc làm rất cần thiết cho nền văn hóa nước nhà, nhất là trong thời
đại mở cửa hội nhập hôm nay.
Nếu
con người vừa là đối tượng phản ánh vừa là mục tiêu cuối cùng của văn
học thì con người thật không địa vị vừa là đối tượng để các thiền sư -
thi sĩ chiêm nghiệm, nghiền ngẫm rồi phản ánh; đồng thời lại vừa là mục
đích, cứu cánh của thơ Thiền.
Dễ thấy nhất là thơ Thiền Lý - Trần đề cập đến con người
thực thể hay nói theo ngôn ngữ nhà Phật là con người tứ đại, bao gồm:
địa, thủy, hoả, phong (đất, nước, lửa, gió). Cụ thể là xương, thịt, tóc,
tai… thuộc về đất; máu, huyết, tủy… thuộc thủy; hơi ấm, hơi nóng… thuộc
hỏa; khí, hơi thở… thuộc gió. Con người tứ đại này không được các tác
giả miêu tả theo vẻ đẹp của hình dáng bên ngoài như kiểu Nguyễn Du tả
Thuy Kiều, Thúy Vân. Trong cảm quan Thiền đạo, các thiền sư - thi sĩ
thời Lý - Trần cho rằng con người tứ đại vốn do các yếu tố xung khắc
nhau trong bản chất tạo thành, cho nên thân xác con người không ổn định,
không thường hằng. Con người tứ đại luôn bị chi phối bởi quy luật “sinh
lão bệnh tử” cũng như vạn vật trong vũ trụ bị quy luật “thành trụ hoại
diệt” chi phối. Mãn Giác chỉ với bốn câu, hai mươi chữ đã khái quát toàn
bộ quy luật này bằng hình ảnh vô cùng sinh động:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Dịch:
Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến trăm hoa nở.
Trước mắt, việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi. (1)
Cũng như Viên Chiếu than rằng:
Thân như tường bích dĩ đồi thì,
Cử thế thông thông thục bất bi.
Dịch:
Thân như tường vách đã lung lay,
Lật đật đời người những xót thay.(2)
Theo lý Duyên sinh của Phật giáo, mọi vật trên đời này,
kể cả thân người không ngoài nhân duyên mà có, nhân duyên hợp lại thì
thành, nhân duyên tan rã thì mất.
Xét đến cùng, thơ Thiền đã chỉ rõ
sự vô thường, bất ổn của con người tứ đại nhằm mục đích hướng người đọc
quay về nhận lại con người thật không địa vị có sẵn trong mỗi con người.
Con người thật không địa vị này chính là “Phật tính” trong lời dạy của
Đức Thế Tôn: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính” (Tất cả chúng
sinh đều có tính Phật), là chân tâm thường hằng bất diệt của mọi chúng
sinh.
Cốt tủy của Phật giáo nói chung, Thiền tông nói riêng
chính là khai mở cho mọi người liễu ngộ ra được “con người thật không
địa vị” này. Đây là mấu chốt của việc giải quyết vấn đề bản thể luận,
cũng là cảnh giới cao nhất của giải thoát luận theo triết học Phật giáo.
Con
người thật không địa vị chính là hình tượng “nương sinh diện” (khuôn
mặt mẹ) của Trần Thái Tông và của Tuệ Trung Thượng sĩ; là “chân diện
mục” (khuôn mặt thật), là “đồng tử” (trẻ thơ) của Tuệ Trung thượng sĩ;
là “vô vị chân nhân” (con người thật không địa vị), là “đông hoàng diện”
(bộ mặt chúa xuân) của Trần Nhân Tông; là “bản lai nhân” (người thuở
xưa) của Trần Minh Tông; là “diệu thể” (thể vi diệu) của Đạo Huệ; là “tự
tại nhân” (con người tự do tự tại) của Hiện Quang; là “nhàn tăng” (sư
nhàn), là “nhất chủng tâm” (một loại tâm) của Huyền Quang.
Thơ Thiền gắn với tư tưởng Thiền và mỹ học Thiền, thường
tập trung đề cập những vấn đề liên quan đến bản thể luận và giải thoát
luận. Phật giáo Thiền tông quan niệm “vạn vật nhất thể”, “tâm pháp nhất
như”; bản thể của mọi chúng sinh bao gồm cả các loài hữu tình và vô tình
đều không khác nhau. Xét đến cùng, ngộ nhập, sống trọn vẹn với con
người thật không địa vị, với chân tâm Phật tính là mục tiêu lý tưởng cả
cuộc đời của các thiền sư - thi sĩ, là sự giải thoát với y nghĩa cao
nhất, tuyệt đối nhất. Sự nhất quán này không chỉ thể hiện rõ trong tư
tưởng Thiền, mà còn thống nhất trong toàn bộ hệ thống thơ Thiền thời Lý -
Trần.
Con người thật không địa vị là bí ẩn sâu kín nhất trong mỗi
con người. Nó không phải là con người vật lý, có hình tướng, nhưng không
ngoài con người vật lý mà thể nghiệm được. Nó không hình - không tướng,
không màu - không mùi, không lớn - không nhỏ, không ngắn - không dài,
không trong - không ngoài. Nó bao trùm khắp nơi, không thể nắm bắt, chỉ
có thể sáng suốt tịnh tâm mà thể hội.
Nếu con người thật không địa vị trong thơ Thiền Lý -
Trần là cái Thể, cái Tính chỉ có thể tịnh tâm thể nghiệm, không thể nắm
bắt, phân tích, thì cái Dụng, cái Tướng của nó thể hiện ra là hình mẫu
những con người trí tuệ, con người tự tại, con người vô ngã vị tha, con
người vũ trụ, con người vô úy, vô ngôn, lãng quên… Đó là những con người
có trí tuệ, bản lĩnh, tự tin ở năng lực, sức mạnh của chính bản thân
mình, không ỷ lại hay nương tựa vào bất kỳ ngoại lực nào khác, kể cả
thần linh. Đó là những con người thông đời liễu đạo, am hiểu Nho Phật
Lão, dung thông tư tưởng Tam giáo. Họ sẵn sàng đem trí tuệ và đức độ làm
lợi ích cho cộng đồng, có công lớn trong việc an bang định quốc, bảo vệ
và xây dựng đất nước, thiết lập cuộc sống thanh bình thịnh trị, ấm no
hạnh phúc cho nhân dân. Đúng như lời Lý Nhân Tông khen Vạn Hạnh:
Vạn Hạnh dung tam tế,
Chân phù cổ sấm thi.
Hương quan danh Cổ Pháp,
Trụ tích trấn vương kỳ.
Dịch:
Vạn Hạnh thông ba cõi,
Lời ông nghiệm sấm thi.
Quê hương làng Cổ Pháp,
Chống gậy trấn kinh kỳ. (3)
Hình tướng của con người thật còn thể hiện ở phong thái
ung dung, trầm tĩnh, thanh thoát, tiêu diêu tự tại, hòa minh không mơ
tưởng hão huyền ở tương lai. Hiện Quang tuy là người tài năng xuất
chúng, danh vang khắp chốn nhưng vẫn:
Vô vi cư khoáng dã,
Tiêu dao tự tại nhân.
Dịch:
Vô vi sống đồng rộng,
Người tự tại thong dong. (4)
Trần Nhân Tông chủ trương tùy duyên mà tự tại. Trong bài kệ kết thúc bài "Cư trần lạc đạo phú", nhà vua - thiền sư phát biểu:
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Dịch:
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên,
Đói ăn khát uống mệt ngủ liền. (5)'
Con
người vô ngã vị tha (quên mình vì mọi người) thể hiện rõ trong lời
khuyên của Lý Nhân Tông với Man Giác: “Chí nhân thị hiện, tất vụ tế
sinh, vô hạnh bất cụ, vô sự bất tu, phi duy định tuệ chi lực, diệc hữu
tán dương chi công, thả kính nhậm chi”. (Bậc chí nhân thị hiện tất phải
tận lực cứu giúp chúng sinh, không hạnh nào không đủ, không việc gì
không làm, chẳng những đắc lực về Thiền định lại có công giúp ích nước
nhà) (6). Trần Thái Tông đem cả đời mình để chứng minh cho lời nguyện:
“tựu nhược dĩ thân vi thiên hạ chi tiên dã.” (Lấy thân mình làm người
đưa đường cho thiên hạ - Thiền tông chỉ nam tư) (7).
Con người thật không địa vị của Trần Thái Tông thể hiện
ra là một con người có cốt cách siêu việt, nhân phẩm tuyệt vời, trí tuệ
hơn người, tài năng trác tuyệt, anh hùng cái thế; tuy ở ngôi nhân chủ mà
vẫn sống đơn sơ, áo thô, giày vải, cơm canh đạm bạc, đem cả trí tuệ và
sức lực cống hiến cả đời mình cho đất nước, cho dân tộc. Người đã thể
nghiệm và sống trọn vẹn với con người thật không địa vị khi cho rằng tuy
mỗi người sẵn có con người thật đó trong con người bằng xương bằng thịt
nhưng không dễ phát hiện ra, như trong bài kệ:
Vô vị chân nhân xích nhục đoàn,
Hồng hồng bạch bạch mạc tương mãn.
Thùy tri vân quyện trường không tịch,
Thúy lộ thiên biên nhất dạng san.
Dịch:
“Vô vị chân nhân” thịt đỏ au,
Hồng hồng trắng trắng dối chi nhau.
Ai hay mây cuốn trời quang tạnh,
Núi hiện chân trời biếc một màu.(8)
Ở đây, “Vô vị chân nhân” cần phải dịch là con người thật
không địa vị, chứ không phải là bậc chân nhân chưa thành Phật như có
người đã dịch. Vì theo ngữ pháp tiếng Hán, chữ “nhân” là trung tâm ngữ,
còn phần trước là định ngữ. Bài thơ này có lẽ tác giả lấy cam hứng từ
một đoạn văn trong “Lâm Tế ngữ lục” của ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền hiển thị
tông phong, khai ngộ cho người hậu học: “Xích nhục đoàn thượng hữu nhất
vô vị chân nhân, thường tùng nhữ đẵng chu nhân diện môn xuất nhập, vị
chúng cứ giả khán khan.” (Trong thân xác máu thịt đỏ hỏn có một con
người thật không địa vị thường cùng các ngươi ra vào, ai chưa rõ, hãy
xem cho kỹ)(9). Hình ảnh mặt trời thường sáng nhưng do mây đen che phủ,
không thấy được sự quang đãng sáng sủa, nếu mây đen tan đi, cả bầu trời
quang tạnh thoáng đãng đẹp như tranh vẽ, phóng tầm mắt nhìn ra, xa xa là
một rặng núi với một màu xanh biếc bên chân trời, dụ cho con người thật
không địa vị vốn có sẵn trong mỗi con người vô thường, ẩn tàng sự linh
diệu và năng lực vô biên, nhưng do con người chấp trước vào thân tứ đại
nên trí tuệ bị che lấp. Chỉ cần phá vỡ được thành kiến cố chấp, thì sẽ
thể hội được con người kỳ diệu này. Tư nghi vấn “thùy” (ai) vừa như kích
thích gợi óc tò mò, vừa như san sẻ lòng mình thúc giục quay về để nhìn
thấu rõ khuôn mặt thật của chính mình. Con người này đã được Tuệ Trung
Thượng sĩ thể hiện trong hai câu thơ sau:
Tuế tuế hoa tùy tam nguyệt tiếu,
Triêu triêu kê hướng ngũ canh minh.
Dịch:
Độ độ hoa cười xuân tới tiết,
Đêm đêm gà gáy lúc canh năm. (10)
Chữ “tuế” được dùng trùng điệp như quy luật của vũ trụ
trong một khoảng thời gian dài, chữ “triêu” trùng điệp chỉ thời gian
ngắn hơn. Cặp từ trùng điệp đối nhau này chỉ ra bản chất của hiện tượng
vốn dĩ như vậy, chân lý quy luật không khác nhau dù thời gian dài ngắn
khác nhau.
Thơ Thiền hay sử dụng kiểu câu nghi vấn, có khi là nhiều
câu nghi vấn liên tục với mục đích dồn người học đạo vào đường cùng ngõ
cụt của tư duy lô-gích, buộc họ phải nỗ lực tập trung chuyên nhất vào
một đối tượng. Như vậy vô hình trung đã đưa người học đạo, tham thiền
vào cảnh giới nhất tâm bất loạn. Đó là tiền đề để phá vỡ nghi ngờ, khơi
nguồn giác ngộ. Nhà Thiền thường nói “đại nghi đại ngộ, bất nghi bất
ngộ” (mối nghi ngờ càng lớn, sẽ đại ngộ, không có nghi ngờ sẽ không thê
ngộ). Tuệ Trung thấy rằng:
A thùy hội đắc nương sinh diện?
Thủy tín nhân gian tổng giả danh.
Dịch:
Khuôn mặt người mẹ ai hay biết,
Mới tin trời, người đều là giả. (11)
Ai là người nhận rõ được khuôn mặt người mẹ, tức con người thật không địa vị thì sẽ thấu rõ được lẽ thật - giả.
Hay như:
Tiền thất giả thị a thùy?
Hậu đắc giả hựu thị thùy?
Dịch:
Người mất trước đó là ai?
Người được sau lại là ai? (12)
Có lẽ do Tuệ Trung đã triệt ngộ sống trọn vẹn với con người thật nên mới khẳng định rằng:
Mi mao tiêm hoành tỵ khổng thùy,
Phật dữ chúng sinh đô nhất diện.
Dịch:
Cũng nét mày ngang đường mũi dọc,
Phật với chúng sinh mặt khác nào. (13)
Quan
niệm Phật và chúng sinh hoàn toàn bình đẳng đều có cùng bộ mặt thật với
lông mày ngang đường mũi dọc thật là hy hữu hiếm thấy trong thời cổ
trung đại, thời kỳ mà ý thức hệ phong kiến với các thế lực siêu nhiên
chi phối bao trùm lên toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những
lực lượng bất khả xâm phạm này được nhìn nhận là đấng siêu nhiên, bậc bề
trên của con người. Thời kỳ này ngay cả vua của một nước lớn như Trung
Quốc cũng chỉ dám xưng là thiên tử (con trời), chiếu chỉ vua ban đều
phải mở đầu bằng câu Phụng thiên thừa vận (tuân theo mệnh trời) nhưng ở
đây Tuệ Trung dám công nhiên khẳng định Phật và tất cả chúng sinh bình
đẳng như nhau. Cái nhìn vượt không gian, thời gian này là cơ sở vững
chắc, mang tính nhân văn với ý nghĩa cao nhất, siêu việt thời đại về sự
bình đẳng tuyệt đối không chỉ giữa người và người mà còn giữa mọi chúng
sinh với Phật, Trời, Thần, Thánh. Bởi vì tất cả đều bình đẳng, không
phân biệt, cùng địa vị như nhau. Nói cách khác, đó chính là vô vị chân
nhân, tức con nguời thật không địa vị.
Tuệ Trung quả quyết rằng nếu ai đó muốn vượt qua biển si
mê, tiến đến bến bờ giác ngộ thì không còn con đường nào khác hơn là
phải tham cứu cho thấu rõ đứa đồng tử (trẻ thơ) của chính mình:
Yếu đắc nhất cao siêu bỉ ngạn,
Hiếu tham đồng tử diện tiền nhân.
Dịch:
Muốn nhảy lên cao qua bờ giác,
Hãy tham đồng tử, người trước mặt. (14)
Có người học đạo hỏi thế nào là chân diện mục (khuôn mặt thật) thì được Tuệ Trung trả lời bằng hai câu thơ hóm hỉnh:
Dục thức giá ban chân diện mục,
Ha ha nhật ngọ đả tam canh.
Dịch:
Muốn biết gì là khuôn mặt thật,
Giữa trưa ngủ thẳng đến canh ba. (15)
Nếu
muốn tìm cho ra khuôn mặt thực của mình mà hướng ngoại tìm cầu là hoài
công vô ích, chỉ tự tại không mong cầu thì dù cho giữa trưa ngủ say đến
canh ba nửa đêm cũng không rời nó được, thầm nhân lại cái xưa nay không
khác, không cần phải mất công đi tìm ở nơi cùng trời cuối đất.
Đạo Huệ làm rõ hơn mối quan hệ giữa thân tứ đại (sắc thân) thuộc về hình tướng và diệu thể (thể vi diệu) thuộc về thể tính.
Sắc thân dư diệu thể,
Bất hợp bất phân ly.
Dịch:
Sắc thân và diệu thể,
Chẳng hợp chẳng lìa xa. (16)
Sắc
thân và diệu thể không phải là một mà cũng chẳng phải là hai, chúng
không đồng nhất cũng không tách biệt. Hình ảnh một cành hoa trong lò lửa
đánh đổ mọi sự cố gắng tách bạch một cách rạch ròi, thô thiển giữa sắc
thân và diệu thể:
Nhược nhân yếu phân biệt,
Lô trung hoa nhất chi.
Dịch:
Nếu người muốn phân biệt,
Lò lửa, một cành hoa. (17)
Ngài
Lâm Tế Nghĩa Huyền từng phát biểu: “Nó (diệu thể) vốn vô hình thông
suốt cả mười phương. Ở mắt là thấy, ở tai là nghe, ở mũi là ngửi, ở
miệng là đàm luận, ở tay là cầm nắm, ở chân là đi lại, ở thân là di
chuyển. Vốn la một tinh minh phân làm sáu hòa hợp” (18). Con người đó
ứng hiện khắp mọi nơi, không gì che giấu được, không gì có thể chi phối,
ảnh hưởng được, như Trần Thánh Tông có viết trong bài Tự thuật:
Hàn thử đáo lai vô sở thức,
Vị tằng phân thượng lão nhân can.
Dịch:
Lạnh đến nóng qua không nhận biết,
Mảy may chẳng bận đến thân ông. (19)
Con
người ấy, dù trong hoàn cảnh nào, tình huống nào cũng ung dung tự tại,
không gì lay chuyển nổi, nó vốn có sẵn trong mỗi con người chúng ta. Nó
là “gia trung hữu bảo” (của quý trong nhà - theo cách nói của Trần Nhân
Tông). Khi con người chưa thấu rõ và sống trọn vẹn với nó thì chưa ngộ
được quy luật vận động của vạn hữu, nên bị quy luật “sinh trụ dị diệt”
hoặc “thành trụ hoại diệt” chi phối. Còn một khi đã nhận ra được con
người thật ấy rồi ta sẽ làm chủ được mình, làm chủ được hoàn cảnh, làm
chủ được thiên nhiên. Trần Nhân Tông trong bài Xuân vãn đã so sánh sự
khác nhau giữa con người chưa giác ngộ và con người đã giác ngộ theo sự
trải nghiệm của chính bản thân ông:
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.
Như kim khám phá Đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
Dịch:
Tuổi trẻ chưa từng hiểu sắc không,
Xuân sang hoa nở rộn trong lòng.
Chúa xuân nay đã bị khám phá,
Nệm cỏ ngồi yên ngó rụng hồng. (20)
Thường Chiếu bày tỏ về đặc điểm con người ấy bằng hai câu thơ:
Chiếu diệu thả vô phương,
Tầm chi cánh tuyệt khoáng.
Dịch:
Không phương nào không sáng,
Tìm kiếm bặt tăm hơi. (21)
Đại bộ phận thơ Thiền gắn với con người thật không địa
vị, nên hầu như rất ít khi miêu tả tâm tình, mà thể hiện sự chiêm
nghiệm, hiển bày, tự bộc. Thế giới thơ Thiền thường được sáng tác và cảm
thụ trong sự tĩnh lặng, nó gắn với tư tưởng mỹ học Thiền. Thiền học và
phương pháp Thiền định đã hóa thân thành phương thức chiếm lĩnh nghệ
thuật, trở thành một kiểu tư duy nghệ thuật độc đáo của thơ ca. Với tư
duy nghệ thuật kiểu Thiền - kiểu tư duy trực cảm tâm linh (22), con
người thật không địa vị thật sự đã trở thành một đối tượng phản ánh đặc
biệt của thơ Thiền, như L. Tolstoi đã xem tâm lý là đối tượng phản ánh,
Dostoievsky xem ý thức là đối tượng để miêu tả và thể hiện của văn học.
Có
thể nói rằng việc phát hiện ra con người thật không địa vị đã thực sự
mở ra một đối tượng mới đầy hấp dẫn và kỳ diệu cho văn học chiêm nghiệm,
nghiền ngẫm, phản ánh và hướng về. Dù câu nói “văn học là nhân học” đã
từ lâu được xem như là kinh điển của khoa văn học, nhưng văn học chỉ
phản ánh con người, đời sống sinh hoạt, tâm tư, tình cảm, tâm lý, tính
cách; mối quan hệ giữa người và người, giữa con người với vũ trụ vạn
vật… chứ chưa từng chú trọng nghiên cứu, tìm hiểu con người thật không
địa vị, một đối tượng vô cùng bí ẩn sâu kín trong mỗi con người. Đây là
một mảnh đất vô cùng đầy sức hấp dẫn và cuốn hút còn đang bị bỏ ngỏ của
văn học. Không thể hiểu hết con người nếu chưa thực sự xem con người
thật không địa vị là một đối tượng quan trọng cần được khám phá. Câu hỏi
Con người là ai?; Ta là ai? cứ đeo đẳng và ám ảnh nhiều thế hệ ở nhiều
thời đại. Phải chăng Mãn Giác đã thấu rõ con người thật không địa vị,
sống trọn vẹn với nó, hoàn toàn đã giải đáp được câu hỏi Ta là ai? đạt
tới cảnh giới cao nhất của sự tự do và giải thoát, nên dù thân thể sắp
bị hủy hoại theo quy luật vô thường, đang ở bên bờ vực thẳm giữa sự sống
và cái chết, mà người vẫn ung dung tự tại không hề sợ sệt hay hoảng
loạn:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Dịch:
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, sân trước một cành mai. (23)
Đặt hai câu này trong toàn bài thơ mới thấy hết cái độc
đáo của nó với kết cấu hơi lạ, ít thấy. Bốn câu đầu, mỗi câu năm chữ
hình tượng hóa quy luật sinh trụ dị diệt của tự nhiên và quy luật sinh
lão bệnh tử của đời người, chỉ sự vô thường chóng vánh, thì hai câu cuối
mỗi câu bay chữ như phần nền chắc chắn giữ vững bốn câu trên. Một cành
hoa mai tỏa ngát hương trong đêm tối cho dù mùa Xuân đã qua đi. Hình
tượng một cành mai có sức cảm to lớn không khác gì cành hoa của Đức Phật
Thích Ca trên hội Linh Sơn; như cái mỉm cười của Đại Ca Diếp làm cho
Tăng chúng ngơ ngác; như cái đánh đột ngột của Bách Trượng tuyệt đường
tư duy lý luận; như tiếng hét đinh tai của Lâm Tế làm tan vỡ si mê cố
chấp, khai thông trí tuệ Bát nhã; như cây gậy trong tay của Đức Sơn đập
tan mọi vọng tưởng điên đảo mê lầm; như ly trà Triệu Châu mỗi người uống
thầm cảm nhận mùi vị riêng của nó. Một cành mai dụ cho chân thân thiền
sư, dụ cho con người bất diệt trong con người tứ đại sinh diệt. Con
người này vượt qua tham lam, sân hận, si mê; vượt ra ngoài mọi cố chấp,
thành kiến, biên kiến; vượt qua mọi giới hạn tầm thường của không gian,
thời gian; vượt ra khỏi mọi quy luật hữu hạn là giá trị đích thưc của
con người. Đây không chỉ là cái nhìn lạc quan, tin tưởng yêu đời, ca
ngợi sức sống mạnh mẽ, kiên định trước định luật vô thường khắc nghiệt
của cuộc đời mà chính là sự tự biểu hiện của con người thật không địa vị
của Man Giác, đạt đến sự tự do tự tại, an lạc giải thoát với ý nghĩa
cao nhất. Đạt đến con người thật không địa vị chính là vươn tới giá trị
làm người đích thực, giải phóng con người với ý nghĩa cao nhất, triệt để
nhất.
Các vị thiền sư - thi sĩ thời Lý - Trần nói chung, Mãn
Giác nói riêng không những đã mở ra một đối tượng mới cho văn học, mà
còn dựng lên một tượng đài nghệ thuật mang ý nghĩa nhân văn lớn lao về
con người thật không địa vị - con người đích thực trong mỗi con người.
Phải chăng những trang vàng lịch sử thời Lý - Trần được viết ra như là
sự thể hiện cái tướng, cái dụng của con người này?
TRẦN HOÀNG HÙNG (*).
TP.HCM, tháng 3 năm 2008
(*) Trần Hoàng Hùng (Đại đức Thích Hạnh Tuê), Thạc
sĩ Ngữ văn, giảng viên Trường Ngoại ngữ Đông Phương, TP.Hồ Chí Minh -
ĐT: 0903 782 790.
(1) Thơ văn Lý - Trần, tập 1, NXB KHXH, HN, 1977, tr.298.
(2) Thơ văn Lý - Trần, tập 1, NXB KHXH, HN, 1977, tr.293
(3) Thơ văn Lý - Trần, tập 1, NXB KHXH, HN, 1977, tr.433.
(4) Thơ văn Lý - Trần, tập 1, NXB KHXH, HN, 1977, tr.553.
(5) Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, NXB KHXH, HN, 1989, tr.510.
(6)
Thiền uyển tập anh, bản in Vĩnh Thịnh năm thứ 11 (1775), ký hiệu A
3144; Bản dịch của Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga, NXB Văn Học, HN,
1990, tr.93.
(7) Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, NXB KHXH, HN, 1989, tr.29.
(8) Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, NXB KHXH, HN, 1989, tr.54.
(9) Lâm Tế ngữ lục, bản dịch của Trần Tuấn Mẫn, NXB TP. HCM, 2004, tr.201.
(10) Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, NXB KHXH, HN, 1989, tr.246.
(11) Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, NXB KHXH, HN, 1989, tr.246.
(12) Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, NXB KHXH, HN, 1989, tr.285.
(13) Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, NXB KHXH, HN, 1989, tr.285.
(14) Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, NXB KHXH, HN, 1989, tr.231.
(15) Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, NXB KHXH, HN, 1989, tr.237.
(16) Thơ văn Lý - Trần, tập 1, NXB KHXH, HN, 1977, tr.487.
(17) Thơ văn Lý - Trần, tập 1, NXB KHXH, HN, 1977, tr.487.
(18) Lâm Tế ngữ lục, bản dịch của Trần Tuấn Mẫn, NXB TP. HCM, 2004, tr.26.
(19) Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, NXB KHXH, HN, 1989, tr.407.
(20) Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển thượng, NXB KHXH, HN, 1989, tr.463.
(21) Thơ văn Lý - Trần, tập 1, NXB KHXH, HN, 1977, tr.531-532.
(22) Chữ dùng của Nguyễn Công Lý trong Văn học Phật giáo thời Lý - Trần: diện mạo và đặc điểm, NXB ĐHQG TP.HCM, 2002.
(23) Thơ văn Lý - Trần, tập 1, NXB KHXH, HN, 1977, tr.298.