Phải nói, từ lâu những câu thơ như: Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm 
qua  sân trước một nhành mai, Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi/ Thịnh suy 
như giọt  sương đầu ngọn cỏ lúc ban mai, hay Thầy tu trước đã nên quả 
Phật/ Tiểu tu sau có  vị tì khưu… đã khắc sâu vào tâm trí người yêu văn 
chương đến độ người ta cũng  không nhớ người viết ra chúng là ai, mà chỉ
cần ung dung thưởng thức, chiêm  nghiệm những ý thơ trác việt ấy.
Nghĩa là những “câu thơ” ấy đã trở thành di sản tinh thần, góp phần 
làm nên  sức mạnh tâm linh của người Việt. Câu chuyện tiếp tục, có lẽ 
xúc động vì những  “tư tưởng thơ” quá trác việt đó, nên một loạt những 
dòng thơ thiền hiện đại (như  chủ nhân của các thi phẩm đó thường nói), 
có hình thức giống như thơ của cổ nhân  đã nối nhau ra đời. Việc lấy cảm
hứng từ “thơ” của Mãn Giác Thiền sư, Tổ Huyền  Quang, Thiền Sư Vạn 
Hạnh… để tự mình làm thơ là điều bình thường. Nhưng gọi bài  thơ mình 
viết ra từ nguồn cảm hứng đó là thơ thiền thì đó sẽ là loại thơ thiền  
nào?
Thiền…
Ở Việt Nam,  trong lịch sử, Phật giáo đã từng là Quốc giáo. Bởi thế, 
danh từ “Thiền” không xa  lạ. Tuy danh từ thì không xa lạ, nhưng do 
người ta cố gắng tiếp cận bằng tư duy  (lý trí) nên Thiền bỗng dưng trở 
nên xa lạ, khó hiểu, mù mờ như đám sương mù,  nhiều trường hợp gây ngộ 
nhận đến mức buồn cười…
Theo nhiều cuốn sách Phật giáo, Thiền chỉ là một phép tu. Có nghĩa, 
Thiền chỉ  là một phép phương tiện, mà không bao giờ là cứu cánh (mục 
tiêu tối hậu đạt tới).  Trong phép tu Thiền thì thời gian và lý trí cần 
phải được phủ nhận. Theo giáo lý  nhà Phật, thời gian gây ra sinh tử 
luân hồi, lý trí là phương tiện có tính giới  hạn. Thời gian và lý trí 
(hay ý thức) luôn níu giữ con người trong thế giới nhị  nguyên, cản trở 
đạt tới nhất nguyên (Niết Bàn).
Ác hiểm hơn, thời gian và lý trí còn “sáng tác” ra những danh từ như 
thiền,  niết bàn, giải thoát, đạt đạo… rất tinh vi, níu chân người tu 
đạo mãi ở “bờ bên  này”, không sao hoàn thành quả tu. Nói vậy thì trong 
cuộc sống hàng ngày, chúng  ta có phủ nhận được thời gian và lý trí 
không? Chắc chắn là không.
Bởi vì khi mang xác phàm (do tứ đại - đất, nước, gió, lửa theo duyên 
mà hợp  thành) là ta đang ở thế giới của nhị nguyên. Thế giới của nhị 
nguyên có các mặt  đối lập về hình thức như ngày-đêm, nam-nữ, mua-bán, 
nhân-quả, sinh-diệt… Nhị  nguyên nên cỗ máy thời gian mới vận hành, và 
lý trí hữu dụng để điều tiết cỗ máy  đó.
Nhân nói về tính nhị nguyên của cõi vô thường, chúng tôi nhớ lại một chi tiết  trong tác phẩm Tây Du Ký
của Ngô Thừa Ân. Ấy là khi ba thầy trò  Đường Tăng vào trước Tòa Sen 
xin thỉnh kinh, Phật Tổ giao cho ông A Nan và Ca  Diếp mở kho kinh đem 
bố thí. Ba thầy trò hớn hở lãnh nhận, thì bỗng dưng phát  hiện các cuốn 
kinh không hề có chữ.
Đó là kinh vô tự của thế giới nhất nguyên, được truyền trực tiếp, 
không cần  thông qua trung gian là ngôn ngữ và lời nói, nên không có tam
sao thất bản,  không có diễn dịch sai. Nhưng chúng sinh đang mong cầu 
ánh sáng chân lý thì lại  tồn tại trong cõi nhị nguyên, họ cần kinh có 
chữ (kinh hữu tự).
Bởi thế, ba thầy trò xin đổi lại. Hai ông A Nan và Ca Diếp vâng lời 
Phật Tổ  cho ba thầy trò đổi kinh. Nhưng hai hành giả đòi ba thầy trò 
phải đổi lại cái  bát tộ bằng vàng do vua Đường ban tặng. Vì sao? Vì nếu
anh lấy kinh vô tự, anh  sẽ ở thế giới nhất nguyên, nơi không tồn tại 
các quy luật mua bán, đổi chác.  Nhưng khi đổi lấy kinh hữu tự, anh rơi 
xuống thế giới nhị nguyên, anh phải thực  hiện việc trao đổi. Đó là một 
chi tiết rất sâu sắc, và có tính biểu tượng cao  khi nói về thế giới nhị
nguyên vô thường, chứ không phải như cách hiểu kỳ quặc  của một số nhà 
phê bình rằng ông Ngô Thừa Ân viết thế để tố cáo chế độ quan lại  nhũng 
nhiễu đòi hối lộ.
Tu Thiền là một trong nhiều con đường để vượt qua thế giới nhị 
nguyên. Trên  “con đường” đó, lý trí đóng vai trò như một “ý hướng”, một
“động cơ”, một “kỷ  luật” lúc ban đầu. Vì lý trí bị giới hạn, nên vai 
trò “của nó” bị hạn chế như  thế, lý trí không bao giờ nhận thức được 
cái mênh mông, vô giới hạn. Lý trí tiếp  cận thiền chỉ mang tính chất 
gợi mở ban đầu, nếu định đi xa hơn thì kết quả chỉ  là sản sinh ra những
khái niệm về “Thiền”, chỉ là những danh từ mà thôi. Nếu ngộ  nhận “danh
từ thiền” là Thiền thì lý trí giống như một đám sương mù không hơn.  
Cũng tương tự như việc ngộ nhận Thiền vốn là phương tiện, mà lại thành 
cứu cánh.

Minh họa: Ngô Xuân Khôi.
Viết thơ Thiền…
Trước hết phải nói rằng viết thơ Thiền không phải là một cứu cánh của
người  tu Thiền, của các bậc thiện trí thức. Với những người tu hành, 
việc sử dụng ngôn  ngữ, lời nói (bởi tính trung gian nhị nguyên của ngôn
ngữ như đã trình bày ở  trên) là hết sức hạn chế và tùy duyên mới nói. 
Chúa Jesus Christ không viết Kinh  Tân Ước, và tùy theo hoàn cảnh dân 
chúng mà rao giảng. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni  không chép và không sai ai
chép những lời mình nói ra. Thậm chí Ngài còn nói: 40  năm ta đi giảng 
pháp, mà thực ra ta chẳng nói gì. Nhưng với một số ít bậc chân  tu, họ 
vẫn tùy theo duyên mà để lại văn tự. Ví như ngài Lục Tổ Huệ Năng có viết
bài kệ để đánh thức ngài Thần Tú khỏi cơn u mê:
Bồ-đề vốn chẳng cây,
 Gương sáng cũng chẳng phải là đài
 Xưa nay không một vật,
 Nơi nào dính bụi trần?
Hay như ngài Mãn Giác Thiền sư (thời nhà Lý) để lại bài Cáo tật thị chúng cho  học trò:
Xuân đi trăm hoa rụng
 Xuân đến trăm hoa nở
 Trước mắt việc đi mãi
 Trên đầu, già đến rồi
 Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
 Đêm qua - sân trước - một cành mai.
Những trường hợp như ngài Basho, và một vài người nữa bên Nhật Bản 
vừa là nhà  tu hành, vừa là thi sĩ, để lại nhiều thơ là những trường hợp
không nhiều.
Nói chung, thơ thiền (ta tạm gọi như thế) là những văn tự để lại của 
các nhà  tu hành, hay các bậc thiện tri thức. Họ có thể là tu sĩ Phật 
giáo, Thiền sư,  Phật tử, hay thi sĩ chịu ảnh hưởng của giáo lý Phật 
giáo… tùy duyên mà viết ra.  Hình thức có thể là một bài kệ truyền đạt 
nghĩa lý sâu sắc cho học trò, một bài  thơ gợi mở cho một công án Thiền,
hay một bài thơ mà qua đó tỏ lộ trình độ tâm  linh của người viết một 
cách tự nhiên…
Những “bài thơ” ấy luôn được viết ra một cách thoải mái, ngôn ngữ 
luôn tươi  mới, không cố gắng, không dụng công, không tu từ… bởi vì các 
“tác giả” ấy  không có mục đích làm thơ. Vì những người ấy 
không làm thơ, và là nhà tu  hành theo nhiều phương diện, nên họ “trung 
thực”, không thể viết quá những gì  bản thân mình chứng ngộ. Những “bài 
thơ” như thế thực sự là những giọt nước, dù  trong ngần thơm mát đến đâu
cũng mang tính giới hạn, nhưng lại được chảy ra từ  cái mênh mông vô 
cùng của trí tuệ từ bi.
Đọc thơ Thiền…
Có người viết ra thì tất yếu có người đọc. Tùy duyên mà đón nhận. Tùy
trình  độ giác ngộ mà hiểu. Hoàn toàn tự do tự tại. Nếu dùng lý trí mà 
đọc, đa phần  chúng ta cảm thấy những “bài thơ” đó có một điều gì mù mờ,
không rõ ràng, thậm  chí đa nghĩa. Nhưng phần linh giác trong chúng ta 
vẫn cảm nhận được phần sâu  thẳm đằng sau văn tự. Chúng tôi thử trình 
bày một cách hiểu của riêng mình với  bài thơ sau đây của thi sĩ - Thiền
sư Nhật bản Matsuo Basho.
Nơi im lặng thẳm sâu
 Vẳng qua muôn trùng đá
 Tiếng ve sầu.
Có thể trên khía cạnh thuần chữ nghĩa, ta thấy bài thơ vẽ nên một 
cảnh heo  hút, vắng lặng với những hiệu quả độc đáo của âm thanh. Có gì 
mỏng manh hơn  tiếng một con ve, tận sâu trong khu rừng vắng! Tiếng kêu 
ấy bền bỉ, dội qua  trùng trùng các vách đá. Sự đối ngược giữa một thứ 
mỏng manh nhưng mềm mại, có  phẩm tính lan toả đã qua được những gì bất 
động, cứng lạnh là đá núi - bài thơ  cho thấy sự huyền nhiệm của sự 
sống. Nhưng dòng sông âm thanh mang tín hiệu của  đời sống ấy chảy ra từ
đâu, với những tiếng dội qua trùng trùng vách đá, giác  quan của ta (ở 
đây là thính giác) có biết được chính xác không?
Chắc chắn là không, nhưng ta biết có dòng sông âm thanh đó. Quá trình
suy tư  tiếp tục. Có thể đến đây, ta ý thức được thuộc tính hữu hạn nơi
giác quan thân  xác trước dòng sông mênh mông đến vô cùng kia. Vì hữu 
hạn nên việc đặt câu hỏi  rất dễ lầm lẫn, cách duy nhất chỉ là hoà mình 
vào đó. Làm thế, ta sẽ trôi cùng  dòng chảy mà trước kia không hề biết 
nó từ đâu. Và cuộc đời thật sự phải chăng  là thế... Đến lúc này, bản 
thân bài thơ như biến mất, người đọc đã qua cánh cửa  của mười bảy con chữ và trực tiếp tiếp nhận những gì tự đời sống mang  lại.
Việc đọc thơ thiền thực chất cũng là việc học và thực hành thiền một cách tự  nhiên, ngay lập tức.
Hình thức dễ là một cái bẫy…
Người ta thường nói: Cái áo không làm nên thầy tu (dù các bậc chân tu
vẫn  thường mặc cái áo ấy). Một bài thơ Thiền và một bài thơ được viết 
ra dưới ảnh  hưởng của thế giới quan Phật giáo sẽ không khác nhau là mấy
về mặt văn tự. Cái  khác nhau là ở mức độ chứng đạo, là cái nhìn, sự 
thể nhập vào bản thể đời sống  tạo nên sự tự tại, trí tuệ sâu sắc đến 
đâu… Nói cách khác là người viết đã vượt  qua được đám sương mù mơ hồ 
của lý trí và con đường luân hồi do thời gian vận  hành hay chưa. Nếu 
chưa vượt qua được thì mọi sự sẽ giống như bài thơ của Ngài  Thần Tú. 
Ngài viết đại ý: Tâm như tấm gương sáng/ Cần phải gìn giữ hàng ngày để  
khỏi dính bụi trần… Còn Ngài Huệ Năng thì đối lại, đại ý: Tâm cũng chẳng
hề có/  Sao phải lo lắng nó bị dính bụi trần? (Như bài kệ đã dẫn ở 
trên).
Nói như thế thì ta phải đợi đến lúc vượt qua được lý trí, vượt qua 
được vòng  luân hồi của thời gian rồi mới làm thơ, hay thơ thiền chăng? 
Cũng không hẳn như  thế. Ta nhận thức lý trí ta là hữu hạn, nhưng lý trí
giống như tên lửa đẩy để  đưa con tàu du hành vào không gian vô cùng vô
tận. Và ở một quỹ đạo nào đó, tên  lửa đẩy sẽ tách ra để con tàu đi 
tiếp.
Ta viết thơ (nếu ta thích), bài thơ ấy sẽ tự tỏ lộ cái nhìn thế giới 
của  chính ta, nếu ta đừng nói quá những gì ta chứng ngộ. Chúng ta đừng 
thấy ngài Xá  Lợi Phất nói: Tôi không mong sống lâu/ Tôi chẳng cầu chết sớm,
mà cũng  làm thơ bắt chước ý đó của Ngài. Bởi chúng tôi dám chắc rằng, 
có vị bác sĩ nào  đó bảo bạn đã nhiễm một bệnh nan y, bạn sẽ hốt hoảng, 
buồn rầu, âu lo, than thân  trách phận… chứ không ung dung tự tại mà nói
như ngài Xá Lợi Phất.
Đừng mắc bẫy của lý trí và thời gian, để rồi viết ra một bài thơ như 
đám  sương mù hư dối. Xin hãy tin tưởng và dày công nhìn xuyên qua đám 
sương mù đó,  để một thời điểm màu nhiệm, một vầng trăng rực rỡ sẽ đột 
ngột tỏ lộ.
Theo Hàn Thủy Giang - CAND