Đúng rồi, nhắc đến tên con sông này (…), tôi thốt lên khi nhận ra
ngôi chùa Kim Liên thấp thoáng giữa những vòm nhãn sum suê bên dòng
sông Giàn, dẫu gần năm mươi năm xa cách. Trong sâu thẳm hồn tôi, ngôi
chùa Kim Liên và con sông Giàn làng Đại vẫn còn lưu giữ cả một thời ký
ức huyền sử, lưu giữ tất thảy phần hồn vía quê hương của người dân làng
Đại. Và với tôi, ngôi chùa Kim Liên này, không chỉ giữ phần hồn mà còn
giữ cho tôi cả phần xác thân trên cõi đời này nữa…
Xa lắm rồi! Nhưng tôi không bao giờ quên. Quên sao
được ngày ấy quê tôi đói nghèo quay quắt. Vì đói nên bọn trẻ chúng tôi
đứa nào đứa ấy cũng quắt queo nguyềnh ngoàng như rải khoai. Ruộng đất
thì rộng mênh mông hút tầm nhìn đến con sông Cái. Nhưng vì mất mùa liên
tiếp mà nhiều ngày tháng dân quê tôi phải ăn cháo kèm với củ chuối.
Những người lớn tuổi như mẹ tôi, anh chị tôi nghĩ thế nào tôi chưa rõ,
chứ bọn trẻ chúng tôi thì lúc nào cũng thấy đói, thấy thèm cơm (…)
Hồi ấy bọn tôi học cuối cấp một. Trường liên cấp một
hai được xây dựng trên nền ngôi đình làng Đại. Đình làng Đại quê tôi to
lắm, nằm cạnh chùa Kim Liên. Không hiểu vì sao thời ấy, những ngôi
đình, ngôi chùa cứ hay được xây dựng cạnh nhau! Mẹ tôi thường kể, trước
và sau cải cách ruộng đất, hầu hết những ngôi đình, ngôi chùa trong khu
vực đều bị phá đi xây dựng trường học, trụ sở ủy ban. Nhưng ngôi chùa
Kim Liên thì vẫn tồn tại cạnh trường học. Vào ngày rằm, mồng một, cứ
vào buổi sáng chiều là hương trầm tỏa thơm ngào ngạt vượt qua bờ tường
len lỏi vào lớp học. Đến tiết học cuối, bọn trẻ chúng tôi lại đói cồn
cào…
Buổi chiều ấy, khi vừa tan học, tôi và mấy đứa cùng
lớp rủ nhau vô chùa Kim Liên. Tới cửa chùa nhìn vô, bỗng thấy hai vị Hộ
pháp mặt đỏ phừng phừng tuốt kiếm trừng mắt! Bọn con gái thấy vậy sợ
hãi chuồn mất! Chỉ còn tôi và thằng Long không cầm được cơn đói… Hương
chuối, hương xôi nếp trong chùa như réo gọi, như có phép thần dụ dỗ tôi
và thằng Long lần mò vào ban thờ Tổ… Đến cạnh Tam quan phía ấy có cây
thị cổ, dưới gốc là con sấu đá làm nhiệm vụ canh giữ chùa Kim Liên rất
thiêng! Ngoảnh đi ngoảnh lại thấy vắng bóng người, tôi và Long nháy
nhau cùng kiễng chân với tay ôm gọn đĩa xôi và nải chuối trên ban thờ
đang nghi ngút khói hương. Vừa quay ra thì bỗng gặp vãi Soải đang lòm
khòm từ chánh điện lại. Nhanh như cắt, tôi vội vàng ấn đĩa xôi vào nách
áo, rồi vụt chạy như bay về phía cổng trường thoát chết! Còn thằng Long
bị vãi Soải la lối gọi người bắt… Kệ thằng Long, tôi chạy một mạch ra
bờ sông Giàn, rúc vào một bụi cây gần đó ăn ngấu nghiến hết đĩa xôi chỉ
trong giây lát (!). Trên đường trở về, tôi nghe mọi người trong xóm
kháo nhau: thằng Long con bà Bường xóm giữa trộm xôi chuối trong chùa
bị vãi Soải phát hiện bắt giữ. Được tin, tôi chạy vô chùa, thấy thằng
Long bị mấy người làm công quả trói vào gốc nhãn. Tôi lo quá, cố nghĩ
cách để giải cứu cho nó. Nhưng vừa nghĩ thì đã thấy sư thầy từ trong
chùa đi ra nói với mọi người:
- Thôi giữ nó đủ rồi… Đói lòng nó trót ăn đĩa xôi,
nải chuối thì thôi… Của chùa Đức Phật xá tội! Thả nó ra kẻo bố mẹ nó ở
nhà mong… Thật khổ cho thằng Long! Tôi nghĩ nó có được ăn uống gì.
Thương tình sư thầy bảo mọi người, xem ở ban Mẫu còn chút gì xin cho nó
ăn đỡ đói lòng trước khi về nhà…
Thời gian cứ trôi chảy vô thường. Tôi đã chứng trải
bao nhiêu là chuyện, nhưng chuyện tôi và thằng Long vào chùa Kim Liên
ăn trộm xôi chuối thì tôi không thể nào quên được. Đó là ký ức tuổi thơ
tôi thời tiểu học ở trường làng.
***
Không biết có phải vì sự vi diệu của đĩa xôi nhà
chùa năm ấy, mà tôi đã vượt qua những ngày đói quay quắt, vượt qua thời
tiểu học nhanh chóng, rồi tiếp tục học lên cấp hai, cấp ba. Học trong
nghèo khó và bom đạn giặc. Trong chiến tranh, tôi cùng với thế hệ trẻ
cả nước lên đường ra trận chống Mỹ. Bao người bạn tôi đã ngã xuống mãi
mãi tuổi hai mươi như thời của Nguyễn Văn Thạc và Đặng Thùy Trâm, rồi
cả thằng Long bạn tôi cũng đã ngã xuống ở chiến trường. Tôi may mắn
xuất ngũ trở về trong khi đất nước toàn thắng yên bình và vào đại học.
Rồi cuộc đời lại đưa đẩy tôi một thời ở nước ngoài,
để rồi đến nay tôi trở về mảnh đất quê hương. Cuộc trở về này, tôi
không có duyên phận ở các tỉnh phía Bắc, nơi tôi đã ra đi từ làng Đại,
ở đó có ngôi chùa làng Kim Liên đầy ắp những kỷ niệm thời ấu thơ…
Sự trở về lần này vì công việc làm ăn, tôi đã bàn
với gia đình vợ con định cư ở một tỉnh miền Trung Nam Bộ, nơi quê
ngoại. Ra đi vốn liếng chẳng nhiều nhặn gì, và bây giờ trở về dẫu là
một chủ doanh nghiệp, nhưng vốn đầu tư đâu có to tát. Nhiều lúc tôi
nghĩ, mình chẳng làm được việc gì gọi là lớn lao cho đời. Nhưng có một
việc nhỏ tôi nghĩ cũng ít ai làm được như tôi. Đó là việc tôi hay cho
những người thiếu đói và kẻ ăn mày tiền gạo… Tôi làm điều này thật tự
nhiên thôi, chứ không hề ra vẻ phô trương ngã chấp. Và tôi dám chắc là,
không một người thiếu đói, hay ăn xin nào vào cửa nhà tôi mà phải ra
không. Biết chuyện này, không ít người xì xèo dè bỉu, cho tôi là người
thế nọ thế kia. "Gớm, như nhà doanh nghiệp cỡ lớn!". Có lần vợ tôi cằn
nhằn: "Ai cũng cho…bây giờ khối người giàu vẫn giả đi ăn xin đấy!".
Thấy vậy, tôi nói với vợ: - "Thế cô có biết ăn mày là ai không?" Vợ tôi
khựng lại giây lát rồi nói xẵng: "Ăn mày là ăn mày, chứ còn là cái gì
nữa mà phải chữ với chả nghĩa!"… Thấy vậy, tôi chỉ vào ngực mình nói
với vợ: "Ăn mày là ta đây này… đói cơm rách áo hóa ra ăn mày! Người xưa
nói thế đấy! Cô có cái Tâm đâu mà hiểu được ngọn ngành". Nghe xong, vợ
tôi nguýt dài một cái có vẻ giận dỗi!... Tôi biết mình cũng hơi quá
lời. Nhưng lại nghĩ vợ tôi làm sao mà biết được chuyện xưa kia của tôi
đã từng đói quay quắt hơn cả người ăn mày! Khi ấy tôi đã ăn hết cả phần
xôi chuối của thằng Long lấy trộm của nhà chùa…và hôm ấy, thằng Long bị
giữ ở chùa Kim Liên… Đúng là chuyện xưa cũ rồi! Nhưng chuyện tôi đã ăn
ngấu nghiến cả đĩa xôi trộm được hôm ấy ở chùa Kim Liên thì có lẽ chẳng
bao giờ cũ.
Trong chiều vắng, tiếng chuông chùa lại ngân vang
như thôi thúc từ sâu thẳm nỗi lòng tôi đối với quê hương đất mẹ. Thấy
tôi ngơ ngẩn chìm vào ký ức một thời!, thằng Cường như hiểu được tâm
trạng của tôi, nói người lái xe đi chậm lại! Ôi, cái làng quê lưu giữ
núm ruột của tôi, một vùng đất bãi phù sa bao đời vẫn mát xanh dịu ngọt
hoa trái. Xa xa kia là dòng sông Giàn như dải lụa xanh mềm uốn quanh
xóm mạc giữ hồn vía quê hương! Dòng sông ấy, vừa là tên con sông, vừa
là tên của phiên chợ Giàn tháng họp đôi lần. Phiên chợ Giàn ngày hai
sáu tết (tức là phiên cuối cùng giáp tết) nó quan trọng đến nỗi, người
dân trong vùng quê tôi thường ví von: "Bỏ con bỏ cháu, không ai bỏ hai sáu chợ Giàn!" Phiên
chợ Giàn cuối năm tôi từng theo mẹ đi sắm tết. Đến chợ phải qua ngôi
chùa Kim Liên... Còn đây những cây nhãn già, cây si, cây thị vẫn in dấu
tháng năm thân xù xì mốc thếch! Nhưng cứ đến độ xuân về lại bừng nở
hoa.
Nói đến con sông Giàn, chùa Kim Liên, lòng tôi lại
bồi hồi xúc động, nhiều lúc con tim tưởng như đập sai nhịp. Bởi ở đó
tôi đã được sinh ra đi học, đất đình làng và ngôi chùa cổ đã chở che
tôi. Ở đó tôi đã có một tuổi thơ đầy gian khó nhưng nồng nàn ký ức.
Trong ý niệm tâm linh sâu lắng, dường như ở đó tôi đã từng được Đức
Phật bao dung gia trì với tấm lòng từ bi rộng mở…
Đến cổng chùa Kim Liên, Cường bảo tài xế dừng lại.
Tôi lặng lẽ vào chùa thắp nén tâm hương, cúi lạy sám hối trước Tam bảo.
Trong hương trầm tĩnh lặng, tôi không quên nhắc tên Long người bạn cũ
của tôi một thời lầm lỗi. Trải lòng mình trước Tam bảo, tôi lễ bái rất
lâu mà lòng vẫn coi như chưa đủ, còn thấy khiếm khuyết điều gì… Phút
quay ra, vừa rảo gót đến hiên chùa, tôi bỗng gặp sư thầy năm xưa, thầy
vẫn mặc chiếc áo cà sa màu nâu đất bãi. Tay sư thầy run run chống cây
gậy trúc từ vườn nhãn chậm rãi bước ra. Mặc dù sau gần năm mươi năm, sư
thầy đã già đi nhiều lắm, nhưng tôi vẫn nhận ra nét thuần thành nơi
pháp thân của thầy. Tôi chạy ào tới quỳ xuống đón lạy:
- Bạch thầy! Con về thăm quê, thăm sư thầy ạ! Sư
thầy dừng bước, miệng niệm danh hiệu Phật, mắt nhìn tôi hồi lâu rồi
bỗng điềm tĩnh thuần hậu:
- Cậu Long hả? Khác xưa nhiều lắm nhỉ? Mấy bữa nay
làm gì, ở đâu? Cậu giận dỗi gì quê nghèo mà cả ngần ấy năm bây giờ mới
về quê hả?...
Nói rồi sư thầy kéo tôi ngồi xuống bên gốc nhãn cổ
thụ xưa. Sư thầy ngồi im lặng lâu lắm! Dường như hồi suy lại ký ức về
lũ học trò nghịch như quỷ sứ chúng tôi, rồi thầy cứ gọi tôi là Long chứ
đâu có biết tên thật của tôi. Nhưng dẫu sao trong ánh mắt của thầy, tôi
và Long - người bạn cũ đã đi xa - chỉ là một. Với cánh tay run rẩy đưa
lên, bỏ miếng bã trầu nhai bỏm bẻm trong miệng, sư thầy nhìn tôi nhân
hậu. Tôi lặng lẽ nhìn gương mặt hiền như Bụt của sư thầy như nhìn vào
một tấm gương sạch bụi của trần thế. Tôi nghĩ sư thầy như một báu vật
của Đức Từ Phụ đang hành đạo giữa thế gian này. Sự có mặt của sư thầy
như làm vơi đi nỗi khổ trầm luân của kiếp người!
Với những mặc cảm tội lỗi, phải lâu lắm tôi mới dám thưa chuyện và hỏi sư thầy:
- Dạ, thầy còn nhớ chuyện hồi xưa, bọn con đã làm điều vô lễ nơi nhà chùa không?
Nghĩ giây lát, sư thầy mỉm cười:
- À chuyện cậu Long trộm xôi chuối phải không?...
Không giấu được xúc động, tôi bạch sư thầy:
- Dạ, Long hy sinh ở chiến trường Đông Nam Bộ rồi thầy ạ!...
- Thôi mà, chuyện xưa rồi con nhắc lại làm gì! Đức Phật sẽ xá tội cho lũ trẻ các con mà. Chuyện này ta biết cả rồi!
Vâng, đúng như lời sư thầy: Tôi nhắm mắt nhớ người bạn cũ, lòng hướng về cõi Phật! Lời sư thầy vẫn còn vẳng bên tai tôi:
- Con đã biết sợ... biết xấu hổ! Và đã vô chùa sám
hối! Đấy là giải thoát rồi… Cõi Phật tịnh độ chẳng ở đâu xa… ngay giữa
lòng mình mà con.
Tôi đã ngộ ra câu nói ấy của sư thầy. Và bỗng thấy mùa xuân đang
hiện hữu trở về trên đất mẹ quê hương sau những ngày xa xứ. Mùa xuân
lại về sau những ngày đông giá lạnh. Bây giờ tôi mới thực sự cảm nhận
trọn vẹn được hơi ấm nồng nàn của mùa xuân.
Truyện ngắn của Nguyễn Đức Sinh (Giác Ngộ)