Mỗi mùa Vu lan về là những người con Phật chúng ta có cơ hội nhìn ngắm
lại những chất liệu hiếu kính, trí tuệ và từ bi từ nơi tâm mình và từ
nơi chính cuộc sống hằng ngày của mình, để cúng dường lễ Vu lan, với một
ý nghĩa thiết thực.
Vu lan, tiếng Phạn là Ullambana, Hán phiên âm là Vu lan bồn và dịch
nghĩa là giải đảo huyền. Giải là mở, đảo là ngược và huyền là dây. Giải
đảo huyền là mở sợi dây treo ngược.
Trong
đời sống hằng ngày, khi đánh mất chất liệu hiếu kính, trí tuệ và từ bi
là ta đánh mất chất liệu căn bản của đạo đức, đánh mất căn bản phước báu
của cõi người, cõi trời, phước báu của các cõi hiền thánh và chư Phật;
như vậy là ta đã treo ngược đời sống của chúng ta.
Trong đời sống hằng ngày, khi ta đang thực tập hiếu kính với ai là ta đang mở sợi dây treo ngược cho ta và cho cả người ấy.
Trước hết, ta cần phải thực tập và thể hiện sự hiếu kính đối với cha mẹ ta, để mở sợi dây ấy cho ta và cho cả cha mẹ ta.
Cha mẹ ta liên hệ với ta bằng chất liệu tình cảm của nhân duyên huyết
thống. Tình cảm ấy không những gắn bó với ta trong một đời mà nhiều
đời; không những trong một kiếp mà nhiều kiếp. Tình cảm ấy, không những
đã từng treo xuôi chúng ta mà cũng đã từng treo ngược chúng ta. Treo
xuôi chúng ta, vì ta đã từng thọ ân, đã từng biết cách để trả ân. Treo
ngược chúng ta, vì ta đã từng thọ ân mà không những vô ân lại còn bội
nghĩa.
Thọ ân và biết ân, vì ta thấy rất rõ trong quan hệ tình cảm của nhân
duyên huyết thống, nếu không có cha mẹ ta thì không bao giờ có ta. Và
không có ông bà tổ tiên nội ngoại thì cũng không bao giờ có cha mẹ ta.
Vì vậy, khi ta thể hiện sự hiếu kính đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên
nội ngoại, trước hết ta phải biết chăm sóc trái tim huyết thống của ta,
để cho tinh thần của trái tim ấy không bị thương tích bởi những ý nghĩ,
lời nói và hành động không lành mạnh hằng ngày mạnh.
Ý nghĩ không lành mạnh là ý nghĩ mang những chất liệu ích kỷ, chỉ
sống theo cá tính và biểu hiện những sinh hoạt cá tính theo bản năng ấy,
qua lời nói và việc làm, khiến không những làm thương tổn trái tim ta,
làm thương tổn trái tim của cha mẹ, ông bà tổ tiên nội ngoại ta, trong
quá khứ và hiện tiền, mà cũng còn làm thương tổn trái tim của nhiều thế
hệ con cháu chúng ta trong tương lai nữa.
Vậy, nếu ta muốn hiếu kính với cha mẹ, với tổ tiên ông bà nội ngoại
trong quá khứ và hiện tiền, thì điều kiện trước tiên là phải biết chăm
sóc trái tim huyết thống của ta, để trái tim ấy luôn luôn ở trong trạng
thái trong sáng và lành mạnh. Mọi lời nói và hành xử hiếu kính của ta
phải đi từ trái tim ấy, mới có khả năng tháo gỡ những sợi dây treo ngược
trong đời sống của ta và của những người ta thương yêu.
Và trong đời sống tâm linh, ta cần phải có sự hiếu kính với ai? Ta
cần phải có sự hiếu kính đối với Thầy ta, với chúng Tăng và Tam bảo.
Thầy ta là vị đại diện chúng Tăng và Tam bảo để dạy dỗ cho ta, từ một
con người không biết bỏ điều ác lại bỏ được những điều ác; từ người
không biết gì về điều thiện trở thành người biết yêu mến và thực hành
điều thiện; từ một người chuyên sống với tâm ý thủ lợi lại biết xả lợi
mà hướng tâm đến Vô thượng bồ-đề, lại còn thay mặt chúng Tăng và Tam bảo
trao truyền giới pháp cho ta, đưa ta từ bóng đêm bước ra ánh sáng, từ
ánh sáng bước tới ánh sáng; nuôi dưỡng giới thân, tuệ mạng cho ta, đưa
ta đi tới với nếp sống lành mạnh, an hòa và phương trời cao rộng.
Thầy đối với ta ân đức như vậy, nhưng nếu ta không biết ân mà sống
vong ân, bội nghĩa thì ta đã treo ngược đời sống của ta và cũng treo
ngược những lời dạy tốt đẹp của Thầy đối với ta, khiến cho người đời
không những khinh khi ta mà còn khinh khi cả Thầy ta nữa!
Ta đến với Thầy, nhưng ta không sống với đời sống của hiếu kính, trí tuệ
và từ bi, khiến cho Thầy ta không những không yên lòng, mà đôi khi
còn vì ta khởi sinh phiền não. Phiền não trong đời sống của Thầy ta khởi
sinh là do ta, và như vậy ta đã đem dây phiền não mà trói Thầy, khiến
cho Thầy ta bị phải sống ngược với đời sống giải thoát và giác ngộ.
Vì vậy, mùa Vu lan về ta phải biết thực tập hiếu kính, trí tuệ và từ
bi để mở sợi dây treo ngược cho ta; và ta phải biết mở sợi dây treo
ngược nơi những người đang treo ngược đối với Thầy ta nữa.
Ở đời, không có vị Thầy nào nhìn học trò dễ thương mà không vui. Danh
dự của Thầy là danh dự của học trò và danh dự của học trò cũng là danh
dự của Thầy, ta phải thấy cho rõ điều ấy để thực tập tâm hiếu kính, trí
tuệ và từ bi, để mở hết tất cả những sợi dây đang treo ngược ta và Thầy
ta vậy.
Ta hiếu kính đối với chúng Tăng, bởi chúng Tăng là đoàn thể trang
nghiêm thánh thiện, lấy thanh tịnh và hòa hợp làm bản chất, lấy giải
thoát làm lẽ sống, lấy trí tuệ làm sự nghiệp và lấy hoằng pháp độ sinh
làm bản nguyện.
Thầy ta sinh ra ta từ biển cả giới pháp thanh tịnh và hòa hợp của
Tăng, được dìu dắt, nâng đỡ và xác chứng trong đời sống cao thượng của
Tăng và đã trở thành thành viên chính thức của Tăng. Nếu không có chúng
Tăng, ta không bao giờ có Thầy. Ngày nay, ta có Thầy dạy dỗ và dìu dắt
ta trên con đường học đạo, công đức ấy của Thầy là công đức của chúng
Tăng, vì vậy mà ta hết lòng hiếu kính với chúng Tăng là để báo đáp ơn
Thầy. Muốn báo đáp công ơn của Thầy, không gì hơn là phải thực hành hiếu
kính đối với chúng Tăng.
Người nào biết hiếu kính đối với chúng Tăng là người ấy đang ngày đêm
nỗ lực thực hành hạnh trí tuệ và từ bi để cúng dường Thầy mình và chúng
Tăng vậy.
Và tại sao ta phải hiếu kính với Tam bảo? Tam bảo là Phật, Pháp và
Tăng. Về ý nghĩa, ta có Tam bảo Đồng thể, Tam bảo xuất thế gian và Tam
bảo thế gian trú trì.
Tam bảo Đồng thể
Nghĩa là Tam bảo trong ba đời và mười phương cùng một thể tính giác
ngộ, cùng một pháp tính bình đẳng, không sinh diệt và cùng một Tăng thể
thanh tịnh, hòa hợp, sự lý thống nhất vô ngại. Không những vậy, mà Phật
còn Đồng thể với Pháp và Tăng; Pháp và Tăng cùng Đồng thể với Phật; Phật
và Tăng Đồng thể với Pháp; Phật và Pháp Đồng thể với Tăng nữa. Vì là
đồng một thể tính giác ngộ, không sinh diệt, thanh tịnh, nên bản thể của
Phật, Pháp, Tăng là thường trú khắp cả pháp giới và viên dung vô ngại.
Tam bảo xuất thế gian
Trong đó, Phật bảo xuất thế là chỉ cho chư Phật trong mười phương đã thành tựu được đoạn đức, trí đức và ân đức.
Đoạn đức là do đoạn trừ hết sạch phiền não của tâm mà đức hạnh sinh khởi.
Trí đức là do đoạn trừ hết sạch những sai lầm của tri kiến mà đức
hạnh sinh khởi và ân đức là do thành tựu những hạnh nguyện độ sinh mà
đức hạnh sinh khởi.
Phật bảo xuất thế là những Bậc giác ngộ đã thành tựu hoàn toàn ba đức ấy, như Đức Phật Thích-ca, Phật Adi- đà, Phật Dược Sư,…
Pháp bảo xuất thế gian là chỉ cho các pháp hành dẫn đến đời sống giải
thoát như: Bát Chánh Đạo, Giới Định Tuệ, các pháp quán thuộc Tứ thánh
đế, hay các pháp quán lưu chuyển và hoàn diệt của pháp Mười hai duyên
khởi, các pháp quán về Không, Vô tướng và Vô tác, hay là pháp quán về
Khổ, Không và Vô thường… Do thực hành các pháp này mà hành giả đoạn tận
hết thảy lậu hoặc, dẫn đến đời sống xuất thế, thoát ly sinh tử.
Tăng bảo Xuất thế là chỉ cho đoàn thể của Tăng, mà trong đó các thành
viên đã đoạn trừ hết sạch phiền não, chứng đắc các thánh quả giải
thoát.
Tam bảo thế gian trú trì
Phật bảo thế gian trú trì là chỉ cho những hình tượng của Đức Phật được thờ tự trong các chùa tháp khắp thế gian.
Pháp bảo thế gian trú trì là chỉ cho ba tạng Kinh, Luật, Luận đang được thờ tự và lưu truyền ở trong thế gian.
Tăng bảo thế gian trú trì là chỉ cho những đoàn thể xuất gia tối
thiểu là bốn vị tỳ-kheo hoặc bốn vị tỳ-kheo ni đang cộng trú thanh tịnh
và hòa hợp với nhau để cùng nhau thực hành các Tăng sự, như thuyết giới
mỗi nửa tháng, mỗi năm an cư trong ba tháng và cùng nhau tự tứ sau khi
xuất hạ trong cùng một trú xứ.
Và đồng thời làm chỗ nương tựa cho thế gian gieo trồng phước đức, hướng dẫn những pháp học và pháp hành cho quần chúng Phật tử.
Tăng bảo thế gian trú trì bao gồm các tỳ- kheo, tỳ-kheo ni đã thành tựu và chưa thành tựu các pháp giải thoát.
Nếu không có Tam bảo Đồng thể, ta không bao giờ có Tam bảo xuất thế
gian; và không có Tam bảo xuất thế gian ta không bao giờ có Tam bảo trú
trì thế gian.
Ngày nay ta có vị Thầy để dạy dỗ cho ta, nâng đỡ ta trên con đường tu tập và giải thoát, là nhờ có Tam bảo trú trì thế gian.
Ta có Tam bảo trú trì trong thế gian giúp Thầy ta và ta tu học là nhờ
có Tam bảo xuất thế gian; và ta có Tam bảo xuất thế gian để thường tin
tưởng, tôn kính và ngưỡng mộ, mà không không bao giờ biến hoại là nhờ có
Tam bảo Đồng thể.
Vì vậy, ta hãy nhìn sâu vào trái tim tâm linh của ta, không những
thấy các bậc Thầy của ta đang còn tại thế hay đã qua đời vẫn luôn luôn
hiện hữu ở trong trái tim ta, vẫn luôn có mặt trong những hạnh nguyện tu
hành của ta, quý vị luôn nâng đỡ cho ta những lúc yếu kém và vẫn luôn
luôn khích lệ ta những khi ta có chút tinh cần tu tập.
Không những vậy mà trong trái tim ta luôn luôn có mặt đầy đủ Tam bảo
thế gian trú trì, Tam bảo xuất thế gian và cả Tam bảo Đồng thể. Nên, ta
phải nỗ lực tu học tinh cần, phát khởi được trí tuệ và từ bi, để mở
những sợi dây tà kiến đang treo ngược sự hiểu biết của ta đối với Tam
bảo.
Tam bảo thì Đồng thể thanh tịnh mà nhận thức của ta thì ngược lại bị
biến thể và ô nhiễm. Tăng đoàn đệ tử của đức Thế Tôn, thì hòa hợp thanh
tịnh và xuất thế, mà ta đem những nhận thức phân hóa, kỳ thị, tổ chức
phàm tục cục bộ của ta để áp đặt và trói buộc lên đời sống và sinh hoạt
cao đẹp, thánh thiện của Tăng.
Những nhận thức trói buộc và treo ngược ấy làm cho ta càng ngày càng
quay ngược với Tam bảo và Tam bảo đã bị ta hiểu theo nghĩa treo ngược và
quay ngược.
Mùa Vu lan lại trở về với những người con Phật, chúng ta hãy cùng
nhau nỗ lực tu tập để không những mở được những sợi dây đang treo ngược
chúng ta, mà còn mở những sợi dây tà kiến cố chấp, hiểu biết sai lầm
chung quanh chúng ta, đang làm đảo lộn và treo ngược Tam bảo.
Mùa Vu lan về, chúng ta nguyện nỗ lực tu tập và chuyển hóa để đưa
dòng dõi huyết thống của chúng ta hội nhập vào dòng dõi tâm linh, nhằm
thăng hoa cuộc sống và thể nhập hoàn toàn với Tam bảo Đồng thể, sống với
cảnh giới vô sinh bất diệt của chư Phật.
Và nay, mùa Vu lan về, những người con Phật chúng ta hãy cùng nhau,
không những nguyện mở những sợi dây đang treo ngược chúng ta, mà còn
nguyện mở cả những sợi dây đang treo xuôi chúng ta trong những
thành công phù phiếm, trong những thuận lợi nhất thời, để dâng lên
cúng dường cha mẹ, Thầy Tổ, chúng Tăng và Tam bảo, với tất cả tấm lòng
hiếu kính, trí tuệ và từ bi.