Những
ngày nắng dần qua, mùa đông đến bên hiên nhà bằng những cơn gió rào rạt
đánh khẽ vào cánh cửa gỗ đã cũ kỹ, mục nát. Đâu đó, thi thoảng người ta
lại nghe thấy từng tiếng thở dài não nuột. Ngôi nhà phía cuối con hẻm
nhỏ từ mấy ngày nay trở nên lặng lẽ và buồn rầu hơn bao giờ hết. Không
ai nói với ai một lời nào.
Bà Tư vốn già nua lọm khọm nay chừng như tội nghiệp hơn, có lẽ bà
không hiểu chuyện gì đang diễn ra, tuy nhiên lâu rồi bà nhận ra đã không
còn sự hiện diện của Hàn, đứa cháu mà bà yêu quý nhất. Từ nhỏ đến lớn,
bà vẫn thường quạt cho nó ngủ, trong những đêm hè, mỗi khi ba mẹ nó đi
làm xa nhiều ngày. Hàn đã lớn lên trong tình thương của nội nó, trở
thành một chàng trai khỏe mạnh, thông minh, đầy lòng nhiệt huyết trong
ánh mắt của bà. Nhưng từ mấy hôm nay, Hàn đã bỏ đi đâu đó mà không nói
một lời, bà Tư vẫn hàng ngày thẫn thờ chờ nó nơi cánh cửa gỗ cũ kỹ, cứ
kêu lách cách liên hồi mỗi khi gió đến trong những ngày đông giá lạnh.
Tiếng loảng xảng vang lên từ phía căn nhà có giàn hoa thiên lý thơm
nức mỗi buổi tối về. Có lẽ đó là tiếng một vật gì bị ném xuống đất và đã
vỡ toang. Trong nhà cô Hòa cứ ngất lên ngất xuống trên giường, bên cạnh
cô là bé Ngân, đứa bé còn nhỏ, nó thực sự chưa hiểu được chuyện gì đang
xảy ra trong gia đình. Chỉ thấy nó hoảng sợ vô cùng khi chú Hưng ném
những chiếc đĩa và bát ăn cơm vào góc phòng, nó sợ hãi cứ òa lên khóc.
Bà Tư đã già nua, lụm cụm, mắt kèm nhèm sưng húp, cứ thở than mỗi khi dỗ
dành đứa cháu tội nghiệp, vừa nói “Hàn ơi, sao cháu đi đâu mà không về
nhà?”.
Duy chỉ có bác Hai là biết Hàn đi đâu bởi nó không thể chia sẻ cùng
ai ngoài người bác hiền lành mà nó tin cậy nhất. Đã bao lần Hàn từng thổ
lộ ý định của mình với ba mẹ nó nhưng chỉ nhận được những lời phản đối
lạnh lùng.
Ngày lại ngày, Hàn vẫn nung nấu trong lòng một ước mơ xa xăm nào đó,
mà giờ đây khi không khí trong nhà đã trở nên vô cùng nặng nề và ảm đạm,
bác Tư lặng lẽ dắt chiếc xe đạp ra khỏi nhà rồi đi về phía bờ sông.
Ngôi chùa nhỏ hiện ra bên bờ sông nhiều gió. Khung cảnh khoáng đạt và
nên thơ đến nao lòng. Bác Hai biết đây là nơi Hàn vẫn thường đến mỗi
chiều, nó hay ngồi tư lự hàng giờ nơi một góc sân chùa, ánh mắt xa xăm
dõi theo bờ sông đang trôi qua trước mắt. Những ngày nắng hay những ngày
mưa người ta đều có thể thấy nó, một cậu bé chừng như già trước tuổi,
lặng lẽ, trầm ngâm, cứ đến rồi đi không để lại nhiều ấn tượng. Nhưng hôm
nay thì khác, bác Hai đã không tìm thấy Hàn, có lẽ hôm nay nó không đến
nơi này?!
Bên bờ sông, từng luống cải đã nở vàng những đợt hoa cuối cùng, trải
một màu vàng rực rỡ nhưng u buồn khắp triền sông, đâu đó vẳng lên tiếng
sáo diều của lũ trẻ chăn trâu ngày muộn, ngân lên dìu dặt như lời chào
tạm biệt buổi chiều đã gần tàn.
Thời gian trôi qua, từng chặp, từng chặp, khắc khoải, nặng nề… Cô
Bình vẫn ngất lên ngất xuống trên giường, không chịu ăn uống, chú Hưng
trở nên cộc tính và dữ dằn hơn bao giờ hết. Bé Ngân khóc mãi rồi cũng
chán, nó cứ tròn xoe mắt nhìn mọi người rồi lại khóc ré lên. Chỉ có bà
Tư là người dỗ dành nó rồi lại một mình lụi cụi đi nấu cơm, dọn cơm,
nhưng bà cứ dọn ra rồi lại dọn vào vì không ai buồn đụng đũa. Ngồi ở một
góc nhà, bà đút từng muỗng cơm cho bé Ngân ăn mặc dù nó đã có thể tự
mình ăn cơm được. Dường như đó là công việc duy nhất bà có thể làm để
thoát khỏi bầu không khí ảm đạm lúc này.
Tiếng chuông điện thoại bỗng reo, thật ồn ã bởi đã mấy ngày trong nhà
không hề nghe thấy tiếng điện thoại nào gọi đến. Có lẽ đó cũng chỉ là
một tiếng chuông điện thoại bình thường như nó từng vốn vậy, nhưng trong
tâm thức dường như đã tê liệt của mọi người thì tiếng chuông như một
thanh âm thảng thốt kéo người ta về với thực tại, một thực tại đầy buồn
đau và mất mát.
Cô Bình nhỏm dậy ngay từ những tín hiệu đầu tiên nhưng ngay lập tức
cô lại ngã vật ra giường bởi cú bật mình quá mạnh, cô dường như choáng
váng một lúc trong khi chú Hưng nhào đến chiếc ống nghe:
- Alo, alo…
Tiếng đầu dây bên kia là một giọng nói đàn ông, trầm và chắc nặng:
- Xin hỏi, đây có phải là nhà của cháu Hàn không? Tôi cần báo cho gia
đình một chuyện.
- Đúng rồi, tôi là cha của cháu. Có chuyện gì đã xảy ra vậy ông?
- Đại diện gia đình cháu hãy đến cầu Đen ngay lập tức, cháu Hàn đã
nhảy xuống sông tự vẫn…
Chú Hưng dường như hóa đá khi nghe tin báo, chú hoàn toàn đờ đẫn
không thốt lên được thêm một lời nào nữa. Ở phía bên kia, cô Bình, bà Tư
và cả cô bé Ngân ngây thơ đang nín lặng dõi theo câu chuyện, nhìn vẻ
mặt biến sắc của chú Hưng, họ dường như đoán được có một chuyện gì đó
chẳng lành đang diễn ra.
Bé Ngân nhảy lò cò trong từng ô gạch lát nơi sân chùa. Những ngày
đông ảm đạm đã qua, mùa xuân đang đến trên những cây hoa sứ đã bắt đầu
lấm tấm nụ phía hàng rào. Ngôi chùa thật đẹp, một mặt xoay vào vách núi,
một mặt quay ra phía bờ sông bốn mùa gió lộng. Nơi này là nơi anh Hàn
của bé vẫn thường đến chơi, rồi dõi ánh mắt xa xăm, tư lự vào khoảng
không gian xa xa. Đã bao lần Hàn ngỏ ý với ba mẹ nó, xin phép được xuất
gia tại ngôi chùa này nhưng không bao giờ được toại ý. Bởi một lý do vô
cùng đơn giản, gia đình Hàn vốn theo đạo Công giáo từ bao đời nay. Hàn
đã tìm đủ mọi cách để thuyết phục ba mẹ cho nó xuất gia, nhưng cứ mỗi
lần nhắc đến chuyện này ba mẹ nó vô cùng giận dữ. Khi Hàn quyết định ra
đi và gởi lại một lá thư nói lên ý muốn của mình, ba mẹ nó vẫn cương
quyết không chấp nhận, một cách lạnh lùng.
Không ai có thể hiểu được Hàn đã suy nghĩ gì, đã có nhân duyên gì đặc
biệt để nó quyết định tìm hiểu về đạo Phật như vậy. Và rồi vĩnh viễn
cũng không ai biết được vì sao nó đã lao mình xuống dòng sông một cách
đầy tuyệt vọng và bế tắc như vậy. Ba mẹ nó đã không kịp nghe những lời
nhắn gởi sau cùng của nó, khi họ đến bên bờ sông, xác Hàn đã được vớt
lên. Khuôn mặt lạnh băng, với ánh mắt khẽ mở, đẹp nhưng u uẩn buồn. Đôi
mắt Hàn vẫn vậy, lúc còn sống hay ngay cả khi đang nằm đó, như có một
điều gì còn lại chưa thể nói cùng ai.
Vào mỗi ngày, cô Nga và chú Hưng vẫn đến nhà thờ để cầu nguyện cho
Hàn và xưng tội mỗi tuần. Bà Tư những lúc rảnh rỗi lại tìm đến ngôi chùa
nhỏ bên bờ sông, nơi đó có đứa cháu tội nghiệp của mình đã gieo mình
vào một cõi huyền hoặc của nó. Bà luôn nghĩ tất cả đều là những điều
huyễn hoặc, bởi đó là một cách giải quyết ngốc nghếch và dại dột nhất
trong suy nghĩ của bà. Từng đêm, bà vẫn thường gặp Hàn trong giấc mơ để
thủ thỉ kể chuyện cho nó nghe, về ba mẹ, em Ngân và những đứa bạn chăn
trâu bên bờ sông mỗi chiều, chúng vẫn thường xin bà từng nén nhang để
cắm lên mộ người bạn nhỏ. Bà nội biết Hàn rất thích ở chùa, nên bà đã
xin thầy trụ trì cho phép đặt một tấm ảnh của Hàn trên bàn thờ linh
trong chùa, với một suy nghĩ giản dị hàng ngày linh hồn của nó sẽ được
loanh quanh trong khoảng không gian yêu thích của mình, để đùa chơi,
nhìn ngắm bờ sông… hay cùng lũ trẻ chăn trâu thả diều vào mỗi buổi
chiều. Từng đêm, trước khi đi ngủ, bà vẫn thường cầu nguyện Chúa sẽ phù
hộ và đỡ nâng linh hồn bé nhỏ của Hàn về miền ánh sáng nơi cõi của
Người.
Thấp thoáng có bóng người đi lại bên bờ sông… Những ngày trước, bác
Hai từng đến nơi đây để tìm Hàn, nhưng bác đã đến muộn… Chỉ vài phút
trước đó, Hàn đã ngẩng mặt lên trời cao, với đôi mắt u buồn cố hữu, rồi
từ trên chiếc cầu Đen bắc ngang dòng nước xiết, Hàn đã lao mình xuống
dòng sông, cũng mênh mông và mơ hồ, như cuộc đời và những suy nghĩ của
chính mình.
Bác Hai vừa nhặt những bông hoa sứ theo gió vừa rụng xuống trong sân
chùa, đặt lên mộ đứa cháu nhỏ của mình, ngậm ngùi “Hàn ơi, cháu hãy yên
nghỉ thật bình an nhé! Cháu sẽ tìm gặp được Đức Phật riêng của mình. Bác
vẫn luôn nguyện cầu Hồng ân Thiên Chúa sẽ luôn bao bọc và chở che cho
linh hồn của cháu”.
Từng đợt lau xám bên bờ sông đang lao xao, tấm di ảnh trong ngôi chùa
nhỏ dường như đang mỉm nụ cười. Vẫn ánh mắt buồn, gương mặt gầy thoáng
vẻ xanh xao, đối với bác Hai, dường như Hàn đã đi về một cõi nào đó của
riêng nó, cho dù đầy bế tắc, nhưng đó cũng chính là sự lựa chọn của Hàn.
Một sự lựa chọn vô cùng nghiệt ngã.
Thuần Chơn (GNO)