Tập thể là nước để tôi uống, là hơi để tôi thở, là
gia đình, là niềm vui và cũng là chiếc dù che nắng trong hành trình nhiều đại
hạn của đời tôi. Ngay cả bây giờ khi khôn lớn, tập thể vẫn đóng một phần quan
trọng trong sinh hoạt tinh thần của tôi. Một trong những tập thể mà tôi luôn
gắn bó: Gia Đình Phật Tử Việt Nam.
Hành trang đi vào cuộc đời của
tôi là những vốn liếng tôi học được từ Gia Đình Phật Tử. Ngày bỏ làng Mã Châu
ra đi, tôi không có gì để mang theo ngoài tinh thần Bi Trí Dũng, những hạt
giống đầu tiên được gieo trồng trong tâm hồn tôi từ thuở ấu thơ. Tôi học để
thương yêu người và vật, để khai phóng và dung hóa với tha nhân, để chịu đựng
và vượt qua các thử thách của cuộc đời. Hơn ba mươi năm sau, những hạt giống
tốt kia đã mọc thành cây xanh, trái ngọt. Từ một mức độ rất giới hạn và nhiều
chủ quan, tôi nghĩ mình đã học và hành theo đúng phần nào các châm ngôn của một
người Phật tử.
Tôi gia nhập Gia Đình Phật Tử
từ những ngày còn rất nhỏ. Buổi sáng mùng tám tháng Chạp, nhân ngày lễ Đức Phật
Thích Ca Thành Đạo, tôi hồi hộp theo cha đến chùa Ba Phong, ngôi chùa làng nho
nhỏ nằm bên bờ sông Thu êm đềm chảy ra Cửa Đại, để ghi tên vào Gia Đình Phật Tử
Ba Phong. Hôm đó là một trong những ngày trọng đại của đời tôi.
Sau một thời gian sinh hoạt như
một đồng niên, vào dịp lễ Phật Thích Ca Thành Đạo năm sau, cả đoàn chúng tôi
được Đại Đức Thích Như Vạn từ Hội An về làm lễ quy y. Thầy bổn sư tôi có pháp
hiệu là Như Vạn, theo nghĩa câu kệ "Ấn Chơn Như Thị Đồng" của tổ Minh
Hải, được truyền thừa qua nhiều thế hệ tăng sĩ. Trong lễ phát nguyện quy y Phật
Pháp Tăng và thọ ngũ giới, đoàn chúng tôi quỳ sát nhau sau lưng Đại Đức Thích
Như Vạn. Mỗi khi thầy đọc tên một đoàn sinh thì thầy cũng đọc thêm Pháp Danh mà
thầy đặt cho đoàn sinh đó. Phe con gái thì không cảm thấy gì lạ với những tên
đạo Thị Diệu, Thị Trang, Thị Từ, Thị Hạnh....của họ nhưng khi thầy đọc pháp
danh của tôi thì cả đoàn, cả trai lẫn gái cùng bật tiếng cười ồ, dù đang làm lễ
trước chánh điện. Còn tôi thì dĩ nhiên khi nghe tên đạo của mình tôi ngượng đến
điếng người. Khóc không được nhưng cười cũng không xong. Ở lại thì không muốn
chút nào mà bỏ đoàn ra về thì không dám. Lý do vì thầy đặt cho tôi một cái tên
rất là con gái: Thị Nghĩa.
Đám bạn tôi và cả tôi vẫn nghĩ
chữ Thị chỉ dành độc quyền cho đàn bà con gái dùng mà thôi. Đàn ông con trai
phải được lót bằng những chữ văn hoa như Tâm, Từ hay hùng tráng như Trung,
Nguyên,v.v... chứ không ai đặt chữ lót là Thị bao giờ. Không chỉ riêng tôi mà
tất cả nam đoàn viên hôm đó đều bị thầy đặt tên con gái. Thông thường, pháp
danh các thầy ban xuôi nghĩa với tên thật. Chẳng hạn tên thật tôi là Nhơn thì
thầy ban pháp danh là Nghĩa, bạn tôi tên là Phúc thì thầy ban cho pháp danh là
Thị Hồng. Hồng Phúc thì không sao nhưng Thị Hồng lại càng có vẻ con gái hơn cả
pháp danh của tôi. May là trong đám con trai bọn tôi không có đoàn viên nào tên
Sắc, nếu có thì biết đâu thầy lại chẳng đặt cho cái tên là Thị Mầu, xuôi theo
chữ "mầu sắc" thì chỉ còn nước trốn đoàn, bỏ xứ mà đi.
Tôi buồn vì cái tên Thị Nghĩa
nầy lắm. Buồn mấy năm trời. Trong truyền thống của Gia Đình Phật Tử, từ huynh
trưởng đến đoàn viên, đều gọi nhau bằng pháp danh thay vì bằng tên thật. Thật
khó chịu biết bao khi nghe các anh các chị gọi tôi là Thị Nghĩa. Nhiều lần tôi
định sẽ quy y lại một lần nữa và với một thầy khác. Mục đích duy nhất là để
được đặt một pháp danh dễ nghe hơn là pháp danh Thị Nghĩa quê mùa và con gái mà
tôi đang có.
Gia đình Phật Tử ở quê tôi coi
như tan rã kể từ sau khi Cộng Sản mở cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân. Các anh
chị huynh trưởng, một số đi theo Cộng Sản, một số đi lính Cộng Hòa, một số khác
bỏ làng ra Đà Nẵng tìm cách sinh sống, làm ăn. Đám đoàn viên chúng tôi từ đó
như đám chim non bay tán loạn đầy trời. Tôi bay lạc xuống thị xã Hội An và đậu
dưới gốc đa chùa Viên Giác.
Trong những ngày ở Hội An, tôi
may mắn gặp lại bổn sư Thích Như Vạn trong một dịp thầy tới thăm chùa. Câu đầu
tiên, sau khi vấn an thầy, là tôi phàn nàn ngay việc thầy đã ban một pháp danh
rất đàn bà con gái không thể nào chấp nhận được. Tôi bạch với thầy rằng, thầy
là bậc tu hành nên không thể hiểu được nổi khổ đau của một kẻ có tên mà không
muốn ai gọi.
Thầy cười và giải thích các
triết lý sâu xa của từng chữ, từng câu trong bài kệ tám câu của tổ Minh Hải mà
chúng tôi được vinh dự kế thừa. Theo thứ tự mỗi chữ trong câu "Ấn Chơn Như
Thị Đồng" có nghĩa là các đệ tử của Đại Đức Thích Như Vạn, dù nam hay nữ,
dù xuất gia hay tại gia đều được bắt đầu bằng chữ Thị. Tôi hiểu được một phần
nào, nhưng thú thật, đối với một thiếu niên mười bốn, mười lăm tuổi, không phải
dễ dàng chấp nhận cái tên của một cô con gái quê mùa Thị Nghĩa .
Tôi rời Hội An vào năm 1972 để
vào Đại Học. Ở Sài Gòn tôi gần gũi với các tổ chức thanh niên sinh viên Phật
tử, có dịp học hỏi dưới sự hướng dẫn của chư tôn đức trong Hội Đồng Giáo Phẩm
Trung Ương. Đối với nhiều người, việc được làm đệ tử của các tôn đức trong hội
đồng lãnh đạo của giáo hội là một điều khó khăn nhưng với tôi có lẽ không phải
là một điều quá khó. Tuy nhiên, cái toan tính trẻ con thay tên đổi họ, quy y
thêm một lần nữa ngày xưa cũng đã thật sự chết đi khi tuổi trưởng thành.
Thế hệ trẻ chúng tôi lớn lên
giữa mùa bão lửa, đi trong những điêu tàn đổ nát của quê hương, lắng nghe những
nỗi đau ngất trời không thể nào câm nín được của dân tộc Việt Nam. Chúng tôi ôm ấp trong lòng một
hoài bão lớn lao là kết hợp các tổ chức thanh niên, sinh viên, học sinh thành
một tập hợp của những người Việt Nam trẻ có lý tưởng quốc gia, yêu nước, yêu tự
do dân chủ. Tuy nhiên, thành thật mà nói, trong hoàn cảnh phân hóa chính trị và
chiến tranh trước 1975, chúng tôi là những kẻ cô đơn, yếu thế và bị lãng quên.
Tre đang tàn nhưng không bao nhiêu người biết lo cho măng mọc. Chính quyền
không hiểu chúng tôi. Cha mẹ không hiểu chúng tôi. Thầy tổ không hiểu chúng
tôi. Chúng tôi lớn lên trong một giai đoạn lịch sử bi thảm, trong đó các giá
trị tự do, dân chủ, độc lập, hòa bình, dân tộc ...đều bị các phe phái, các
quyền lực trong và ngoài nước, lạm dụng và nhân danh.
Về phía Phật Giáo, từ ngày được
chính thức thành lập vào đầu năm 1964, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất,
đã phải chịu đựng quá nhiều sóng gió. Chỉ một thời gian ngắn sau ngày thống
nhất, cửa chùa đã nghe thoang thoảng mùi phấn son chính trị. Các tổ chức trực
thuộc giáo hội vừa được thành lập, chưa có cơ hội để kiện toàn và ổn định đã
phải đương đầu với các nhu cầu chính trị đoản kỳ. Số phận của Phật Giáo, cùng
với dân tộc, giống như một quả cầu trong một trận banh quốc tế với dã tâm chia
rẽ. Bất cứ một thế lực nào muốn chiếm đoạt, muốn thực dân, muốn cai trị Việt Nam, trước hết, phải nghĩ đến chuyện làm phân
hóa Phật Giáo Việt Nam.
Một điều đáng buồn là hàng ngũ
Phật tử trong giai đoạn đó, một số vị chẳng những không góp phần vào việc bảo
tồn chánh pháp và bảo vệ đất nước, trái lại đã cố ý hay vô tình góp phần vào
việc làm nát tan đất nước và phân chia giáo hội. Không ít "cư sĩ"
theo chân các thầy chỉ vì thời thế lợi danh, một số khác đi theo thầy để núp
dưới bóng chiếc áo vàng của thầy làm chính trị, một số theo thầy chỉ để chờ cơ
hội hại thầy mà thôi.
Thời đại của các ngài Tâm Minh
Lê Đình Tám, Chánh Trí Mai Thọ Truyền không còn nữa. Chung quanh các thầy, các
trung tâm Phật Giáo là các ông quan văn bị thất sủng, các ông nghị sĩ, dân biểu
thất thế, các ông tướng võ thất thời. Họ là những món hàng ế ẩm, những sản phẩm
sai mùa không một cường quốc nào muốn mua, không một thế lực nào để mắt tới. Họ
là phe thất bại của những cuộc chỉnh lý, đảo chánh tranh quyền đoạt lợi triền
miên sau 1963.
Họ từng là những tay cầm cờ,
chạy lệnh cho Thực Dân, nay thời thế đổi thay quay sang Phật Giáo để được đóng
vai những người yêu nước thương nòi. Họ đi chùa còn siêng năng hơn cả những
Phật Tử thuần thành nhất, mặc dù suốt đời chưa hẳn đã thuộc được một câu kinh
Phật chứ đừng nói chi đến những bước khó hơn của tâm đạo, trí đạo. Và mai đây
khi cơn bão lửa tàn đi, chiếc vòng danh lợi không còn nữa, họ sẽ là những người
đầu tiên bỏ chùa, bỏ thầy ra đi và sẽ không bao giờ trở lại. Và đúng như thế,
đại đa số nếu không muốn nói là tất cả đã quay lưng, đã bỏ đi, và thậm chí đã
đồng lõa với bạo quyền khi giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất lâm vào Pháp
nạn 1975.
Một buổi chiều tháng mười năm
1973, một người bạn và cũng là người lãnh đạo của một tổ chức sinh viên Phật Tử
ghé qua thăm. Cậu ấy rủ tôi vào mùng Một tháng sau đi làm lễ Quy Y ở Viện Hóa
Đạo. Cậu đưa cho tôi xem một danh sách những thành viên trong tổ chức của cậu
đã phát nguyện và khuyên tôi nên quy y để bạn bè làm theo. Nhìn sơ qua, tôi rất
ngạc nhiên vì danh sách khá dài. Tôi hỏi người bạn: "Chẳng lẽ chừng nầy
Phật tử chưa có một người nào đã quy y trước hay sao?" Bạn tôi đáp:
"Dù một số đã quy y rồi nhưng họ xin quy y lại vì đây là dịp may mới có
một tôn đức lãnh đạo trung ương của giáo hội làm lễ thu nhận đệ tử".
Tôi bỗng dưng cảm thấy một nỗi
buồn đang thấm sâu vào trong từng mạch máu. Tôi tự hỏi, giáo hội Phật Giáo, từ
một giòng suối tình thương đã biến thành một trung tâm quyền lực từ bao giờ thế
nhỉ? Phật giáo đã bị những nhiễu nhương suy đọa của thế gian ảnh hưởng nặng nề
đến thế hay sao? Tôi nhìn người bạn thân đầy nhiệt huyết của tôi mà thầm lo sợ
cho chính tôi và thế hệ chúng tôi. Phải chăng chúng tôi đã mất đi những nhiệt
tình hồn nhiên của tuổi trẻ? Phải chăng chúng tôi không còn yêu nước một cách
vô tư và trong sáng như trước nữa?
Chiến tranh, phân hóa, lợi danh
đang đục khoét mỗi ngày một sâu hơn vào thế hệ chúng tôi, vào tương lai của đất
nước chúng tôi.
Tôi nghiêm khắc trả lời bạn
tôi: "Mình quy y từ hồi nhỏ và không có ý định quy y lần nữa vì làm như
thế là không nên". Người bạn hỏi tôi về pháp danh, tôi trả lời cho cậu ấy
biết pháp danh của tôi là Thị Nghĩa. Không giống như hồi nhỏ, khi nhắc đến pháp
danh mình là mỗi lần mặt tôi đỏ bừng vì mắc cở, đêm đó tôi nói về pháp danh của
mình một cách trang nghiêm và hãnh diện. Tôi kể với người bạn về thầy tôi, một
ông thầy tu quanh năm chỉ biết tu hành, làm ruộng, làm tương, gánh nước tưới
rau ở Tổ Đình Phước Lâm thuộc thị xã Hội An. Thầy tôi không tăm tiếng, không
quyền lực. Thầy tôi không bận tâm đến chuyện trung ương hay địa phương, thầy
Bắc hay thầy Trung. Không ai biết gì về Đại Đức Thích Như Vạn ngoài các đệ tử
của ngài và tôi cũng chẳng cần ai biết đến thầy tôi. Với tôi, ngài là hình ảnh
của một ngôi trong Tam Bảo mà tôi mãi mãi tôn thờ. Với tôi, ngài là trưởng tử
của Như Lai, đi gieo hạt giống tình thương giữa lòng thế gian đau khổ nầy.
Phật tánh bao giờ cũng bình
đẳng, không có trung ương hay địa phương, không có sang hay hèn, không có giàu
hay nghèo. Thái Tử Tất Đạt Đa đã từ bỏ tất cả cung vàng điện ngọc để đi vào
cuộc đời khổ đau bằng một chiếc áo vàng và đôi chân đất. Bài học giáo lý đầu
tiên của ngành Oanh Vũ cách đây mấy chục năm tôi vẫn còn ghi nhớ.
Cách đây ba năm, tình cờ nơi
đất khách tôi hân hạnh làm quen với Đại Đức Thích Hạnh Tuấn, là một trong các
đệ tử xuất gia của thầy Thích Như Vạn. Thầy Hạnh Tuấn báo tôi biết rằng bổn sư
của chúng tôi đã viên tịch. Tôi cảm thấy buồn. Có thể thầy chẳng hề nghĩ đến
tôi, một đệ tử trong hàng ngàn đệ tử tại gia của Thầy. Nhưng đó không phải là
điều quan trọng. Với tôi, điều quan trọng vì ngài là một trong Tam Bảo mà mỗi
người Phật Tử phải tôn kính. Thầy trò chúng tôi đã nối nhau bằng một mối dây
đạo tính thiêng liêng. Sợi dây đó đứt đi trong kiếp nầy, tự nhiên tôi cảm thấy
đau buồn. Thầy Hạnh Tuấn tặng tôi tấm hình của bổn sư chúng tôi. Tôi thỉnh bức
hình về thờ để nhớ đến thầy, nhớ đến những kỷ niệm không thể nào quên trong
thời thơ ấu ở quê hương.
Tôi viết lại những điều nầy
không phải để ca ngợi đạo tính chung thủy của mình nhưng là để nhắc lại một quá
khứ đáng quan tâm và ghi nhớ của Phật Giáo Việt Nam trong một giai đoạn đầy khó
khăn của dân tộc và đạo pháp.
Phật Giáo, trong cũng như ngoài
nước, đang đứng trước một kỷ nguyên mới nhưng với những thử thách và đe dọa cũ.
Quá khứ vẫn còn đó và luôn luôn là một bài học quý giá cho tương lai. Chư tôn
đức lãnh đạo Phật Giáo trong và ngoài nước chắc đã có nhiều thời gian nhìn lại
một chặng đường dài mà giáo hội đã đi qua và từ đó chọn một con đường dung hóa,
thích hợp cho đạo Phật trong lòng dân tộc và nhân loại thời đại toàn cầu hóa.
Mới đây, trên đường từ Philadelphia về, tôi ngồi
chung xe với anh Thiện Hải và may mắn nghe anh kể lại vài mẫu chuyện đạo. Một
trong những câu chuyện anh kể có liên quan đến đời sống và đạo hạnh đẹp như ánh
trăng rằm của Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Một ngày trước 1975, anh Thiện
Hải không nhớ rõ ngày nào, phái đoàn giáo phẩm trung ương từ Sài Gòn ra Huế để
thỉnh an đức Đệ Nhị Tăng Thống. Trong lúc chư tôn đức đứng ngoài cửa chùa
Thuyền Tôn, chờ ngài cho phép vào, thì đức Tăng Thống lại đang bận cùng chúng
điệu coi sóc mấy luống khoai lang trong vườn chùa. Mãi một lúc sau ngài mới ra
tiếp phái đoàn, trên tay ngài vẫn còn mang một thúng khoai nhỏ. Đạo từ của đức
Tăng Thống ban cho phái đoàn chỉ vỏn vẹn một câu ngắn: "Ra chi mà đông rứa
hỉ" và quay lại dặn các đệ tử đi rửa khoai nấu cho phái đoàn giáo phẩm
trung ương dùng trai. Năm đó đức Tăng Thống đã ngoài 80 tuổi. Mặc dù là vị lãnh
đạo tinh thần tối cao của tất cả phật giáo đồ toàn quốc, đức Đệ Nhị Tăng Thống
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã sống cuộc đời của một tăng sĩ đạm bạc
và thanh cao như thế đó.
Phật
Giáo đã đến Việt Nam và đã đi vào lòng lịch sử dân tộc Việt Nam bằng những bước
chân và bằng những tấm lòng hiến dâng cao quý như đức Đại Lão Hòa Thượng Tăng
Thống Thích Giác Nhiên, chứ không phải bằng những cuộc tranh giành, thắng thua.
Tinh thần Phật Giáo không phải thể hiện từ những con số, những khẩu hiệu nhưng
từ những củ khoai còn dính đầy đất mà đức Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên
đã trồng được. Dân tộc Việt Nam là đất, Phật giáo Việt Nam là nước, và Phật tử
Việt Nam là những củ khoai được nuôi dưỡng và lớn lên từ trong lòng đất nước.