Tu Bồ Đề, ông
nghĩ sao? Như Lai có Phật nhãn không? Phật mà không có Phật nhãn thì ai có?
Phật
đột nhiên hỏi: Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu nhục nhãn phủ? Như thị, Thế
Tôn, Như Lai hữu nhục nhãn… Ông nghĩ sao? Như Lai có “mắt thịt” không?
Dạ
có! Tu Bồ Đề vội đáp. Hỏi ta, chắc ta sẽ ấp úng, không dám nói. Ta dễ nghĩ rằng
Phật hẳn chi có Phật nhãn còn phàm phu chúng ta mới có nhục nhãn chứ, ai dè Kim
Cang nói rõ Phật cũng có nhục nhãn như phàm phu, chẳng thú vị sao?
Và
lòng tự tin bỗng dâng lên. Hèn chi mà Bồ tát Thường Bất Khinh gặp ai cũng cung
kính vái chào “Xin chào ngài, một vị Phật tương lai…”.
Thế
rồi Tu Bồ Đề dạ có, dạ có, năm lần cả thảy! Phật có cả năm thứ con mắt: nhục
nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn… Những năm thứ con mắt ư, có
nhiều lắm không?
Dĩ
nhiên “mắt” là để “thấy”! Và, nhiều loại con mắt là để thấy nhiều… kiểu – nói
khác đi là để nhìn dưới nhiều “quan điểm”, nhiều góc độ khác nhau – chứ không
khư khư bám chặt lấy quan điểm của mình, khư khư cho rằng mình đúng người sai
để chí choé và để thượng cẳng tay hạ cẳng chân!
“Thấy”
như thế nào là một chuyện hệ trọng. Thấy thế nào sẽ dần tới nghĩ suy, nói năng,
hành động thế đó! Thấy sai sẽ suy nghĩ, hành động sai. Bồ tát Quán Thế Âm có
nghìn mắt nghìn tay là để trên mỗi bàn tay đều có một con mắt!
Thấy
và biết liên quan chặt chẽ với nhau nhưng không phải là một! Thấy vậy mà không
phải vậy, không phải vậy mà vậy! Thấy có thể dẫn đến cái biết, nhưng biết không
ở chỗ cái thấy. Bởi thấy do mắt còn biết thì do… não! Vậy mới có xung đột, mười
người mười ý, “điên đảo mộng tưởng”! Biết rộng – biết ít dễ thấy hẹp, thiên
kiến, thiển cận! Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung!
Trong
Bát chính đạo thì Chính kiến ở vị trí số một! “Kiến” mà không chính thì dễ lệch
lạc! Chính kiến rồi mới có Chính tư duy! Không thì cứ loay hoay không lối thoát
hoặc hý luận chẳng tới đâu!
Thấy
và biết có khi xa lơ xa lắc dù cũng căn đó cũng trần đó!
Chuyện
kể, hai vợ chồng nhà kia đang xem xiếc trong rạp. Cô diễn viên trẻ đẹp mặc một
bộ đồ biểu diễn rất hấp dẫn đang treo toòng teng trên chiếc đu bay! Người vợ
bỗng kêu lên: Bên dưới không có gì hết! Anh chồng gật đầu đồng ý.
Nhưng
sau một lúc nhìn kỹ lại, anh nói: Không phải! Bên dưới có lớp vải màu da người
đó chứ! “Tôi muốn nói không có lưới bảo đảm dưới cái đu bay, còn ông đang nói
cái gì vậy hử?”!
Thì
ra, yêu nhau là cùng nhìn về một hướng nhưng thấy… khác nhau! Người vợ thì… từ
bi, ông chồng thì… từ ái!
Chỉ
riêng nhục nhãn, mắt thịt, đủ lôi thôi rồi! Nhãn cầu to hơn một chút đã sinh
tật cận thị, trông gà hoá cuốc, giác mạc cong không đều một chút, đã sinh loạn
thị, nhìn cái gì cũng méo mó. Rồi loạn sắc, quáng gà… đủ thứ! Rồi cườm nước,
cườm khô, bong võng mạc, thoái hoá hoàng điểm, hoa đốm hư không, cứ tưởng tại
không gian ai ngờ tại mắt mình lão hoá!
Khi
mà búa thì cái mắt thịt đó thấy người nào cũng giống kẻ ăn cắp búa. Mắt thịt
chỉ là một cấu trúc của “tứ đại” giúp ta thấy – mà không giúp ta biết.
Cái
biết nằm ở đằng sau kìa. Nằm ở vỏ não, ở thuỳ chẩm kìa. Mắt thịt chỉ tiếp thu
ánh sáng, hình thể, màu sắc… rồi dẫn truyền về cho não phân tích, tổng hợp, so
sánh…
Tâm
thức thế nào thì vạn pháp thế đó. Mặc sức mà vẽ vời. Mặc sức mà diễn dịch, mà
phê phán, nhận xét, rồi chí choé, rồi sứt càng mẻ gọng vì những “nhãn quan”
khác nhau!
Mắt
thịt không có lỗi! Căn trần gặp nhau tạo ra “tướng” thì cái tướng cũng không có
lỗi! Chính cái tâm ta nhiễu sự, “dán” vào cái tướng đó mới thành cái “tưởng”,
mới sinh sự. Mà sinh sự thì sự sinh! Các vị A-la-hán được gọi là “vô sinh” bởi
họ đã được giải thoát!
Vấn
đề là chuyển hoá cái tâm đó cách nào, huấn luyện cái tâm đó ra sao, để thấy cho
đúng và biết cho đúng. Từ cái tâm “điên đảo mộng tưởng”, cái tâm luôn sinh sự,
xuyên tạc lăng xăng, căng thẳng, mệt mỏi đến cái tâm “vô sinh”, vô sự, vô hành…
thảnh thơi vui thú có khó lắm không?
Khó,
nhưng có thể. Miễn là phải tinh tấn, phải thiền định… để đạt đến trí tuệ. Khi
rèn tập như vậy, dần dà ta có những con mắt… mới!
Thiên
nhãn – mắt thần – là những… siêu âm, nội soi, chụp cắt lớp bây giờ! Nó cũng là…
hiển vi điện tử, phóng lớn hàng triệu lần, là viễn vọng kính khổng lồ… nhìn xa
hằng triệu năm ánh sáng!
Thời
Phật chưa có hiển vi điện tử, chưa có viển vọng kính, chưa có siêu âm, chụp cắt
lớp… vậy mà Phật vẫn thấy được trong ly nước kia có vô số những vi sinh vật,
thấy được tam thiên đại thiên thế giới chứ không phải chỉ mình ta cô độc trên
quả địa cầu! Quả là Phật có… thiên nhãn!
Thiên
nhãn đó từ đầu mà có? Từ trong định. Rồi định dẫn đến tuệ. Các nhà khoa học
thường dừng lại ở thiên nhãn. Bởi họ chỉ lo tìm kiếm, phát hiện những thứ ở bên
ngoài mà quên nhìn vào bên trong, khám phá phát hiện từ bên trong. Trừ những
nhà khoa học cỡ như Einstein.
Gần
đây có vẻ các nhà vật lý học, các nhà y học, sinh học, với những tiến bộ khoa
học kỹ thuật của mình đã có thể “thấy” ra nhiều chuyện lạ và giật mình không
ít. Tuệ nhãn là con mắt thứ ba, con mắt bất nhị, con mắt nhìn rõ chân không mà
diệu hữu, vô thường, vô ngã.
Tuệ
nhãn có khi là đủ. Đủ để dừng chân, đủ để quay đầu lại. Đủ để vượt qua “bờ bên
kia”. Tủm tỉm cười một mình. Ung dung. Tự tại. Thế nhưng, hình như mọi sự không
dừng lại ở đó. Nếu chỉ vậy thì Đức Phật có lẽ sẽ quanh quẩn dưới gốc Bồ-đề việc
gì phải lặn lội gió mưa đi khất thực và truyền trao giáo pháp suốt cả cuộc đời?
Những vị học trò của Phật chắc cũng yên bề tự tại, có đầu buổi truyền trao
“gươm báu” nhằm hướng dẫn một lớp trai thiện gái lành dẫn thân vào đời làm
những vị Bồ-tát?
Cho
nên còn có “pháp nhãn”! Con mắt pháp là một “con mắt” lý tưởng, hoài bão cao
đẹp có phần “lãng mạn” nữa! Muốn vậy họ phải xả thân, phải chí nguyện, và trước
hết phải… “chủng ngừa” cho chính mình trước khi xuống núi!
Không
chủng ngừa đầy đủ, họ dễ bị nhiễm ô, mắc bệnh! Kim Cang nghiêm khắc: chưa có
đều này thì chưa xứng danh Bồ-tát, chưa có điều kia thì không thể gọi là
Bồ-tát! Có con mắt pháp đó họ mới đủ sức thõng tay vào chợ.
Anh
chàng Tất Đạt trong Câu chuyện của dòng sông (Hermann Hess, Phùng Khánh dịch)
là một điển hình! Một vị sa-môn, lăn lóc vào đời, gặp một người đàn bà đẹp,
tham gia vào chuyện buôn bán làm ăn, mới đầu mọi thứ trôi chảy nhưng sau thì…
sụp đổ hoàn toàn.
Chàng
tuyệt vọng, sắp tự tử bên bờ sông. Chợt nghe được lời mách bảo của dòng sông
trong lòng mình mà đại ngộ! Lần này thì “ngộ” thiệt! Lần đầu – dưới màu áo
sa-môn tưởng ngộ mà chưa ngộ. Thế rồi chàng trở thành một lão chèo đò, ngày
ngày đưa khách sang sông!
Có
pháp nhãn rồi mới có thể tuỳ duyên mà bất biến, bất biến mà tuỳ duyên đó vậy!
Tu
Bồ đề! Ư ý vân hà? Như Lai hữu Phật nhãn phủ? Tu Bồ Đề, ông nghĩ sao? Như Lai
có Phật nhãn không? Phật mà không có Phật nhãn thì ai có?
Nhưng
Phật nhãn là gì? Là cái thấy cái biết của Phật, là “tri kiến Phật”.
Ba
chục năm trước khi chưa đi tu thấy núi là núi, thấy sông là sông, sau nhìn theo
bác thiện tri thức chỉ cho chỗ vào, thấy núi chẳng phải núi, sông chẳng phải
sông, rồi nay thể nhập chốn yên vui tịch tĩnh, lại thấy núi là núi, sông là
sông… Một thiền sư bộc bạch.
Phật
không cần phải tốn nhiều thời gian đến thế, nhìn với Phật nhãn, cái “tri kiến
Phật” thì núi bao giờ cũng là núi và sông bao giờ cũng là sông. Nhưng đó là một
cái núi khác, sông khác, cái núi của “sắc tức thị không” và “không tức thị
sắc”, không vướng bận, không dính mắc.
Bùi
Giáng, một thi sĩ thấm đẫm kinh Kim Cang thường hạ những câu “hà dĩ cố”, trong
thơ có lần viết “Còn hai con mắt khóc người một con…”, mà Trịnh Công Sơn đã nối
theo: Còn hai con mắt một con khóc người! Con mắt còn lại…?
Ừ,
con mắt còn lại thì sao nhỉ? Con mắt còn lại… nhìn một thành hai, nhìn em yêu
thương nhìn em thú dữ… Con mắt còn lại là con mắt ai? Con mắt còn lại nhìn tôi…
thở dài”. (TCS).
Phải
rồi, cái con mắt còn lại quả thực là con mắt gây phiền hà! Nó bị diplobie, nhìn
một thành hai! Nhưng người bị diplobie thì nhìn một thành hai giống hệt nhau
còn đầu này nó nhìn em… yêu thương thành em thú dữ, rồi còn “nhìn tôi lên cao
nhìn tôi xuống thấp”… nghĩa là cái nhìn đầy hận thù, hằn học.
Nó
như của ai khác “con mắt còn lại là con mắt ai?” nó quan sát ta, nhìn ngắm ta
và rồi nó… thở dài thấy mà ghét!
Thở
dài, bởi nó thấy ta tội nghiệp! Thấy ta đáng đời! Chi mà khổ rứa? Đó chính là
con mắt của “Thức”. Của biện biệt, so sánh, đếm đo.
Khi
“Thức” biến thành “trí” thì mọi chuyện đã khác! Trí là trí tuệ, ở đây là
Prajnã. Bát-nhã! Lúc đó, “Con mắt còn lại / nhìn đời là không / nhìn em hư
vô/nhìn em bóng nắng!” là không, chứ không phải bằng không!
Là
không, đó là cái không của có, cái có của không. Không bất dị sắc. Không tức
thị sắc. Duyên sinh. Vô thường. Tóm lại, còn hai con mắt… “khóc người một con”
kia là con mắt của Bi! “Con mắt còn lại nhìn đời là không” này chính là con mắt
Tuệ. Bi mà không có Trí (Tuệ) thì cứ sẽ khóc hoài, dỗ không nín. Nên cần có con
mắt Tuệ để giải thoát.
Giải
thoát cho mình và cho người, dĩ nhiên.
Đỗ Hồng Ngọc
(Theo Văn hóa Phật giáo 57)