Xứ sở thiền môn
Huế là cố đô của VN, còn là nơi quy tụ nhiều chùa chiền với mật độ
dày đặc nhất nước. Đại đức Thích Trí Năng, Ủy viên Ban Văn hóa Giáo hội
Phật giáo VN tỉnh Thừa Thiên - Huế, cho biết: “Truyền thuyết kể rằng,
thời các chúa Nguyễn vào Nam lập nghiệp, khi đến định đô tại Thuận Hóa,
những đêm khuya tối trời, người dân thường trông thấy trên trời có vờn
mây hình dáng một con rồng to xuất hiện. Vờn mây sau đó đã gây những
trận mưa to gió lớn, sấm sét dữ dội... làm thiệt hại mùa màng, tài sản
của người dân. Trong cung triều cương nhiễu loạn với bao chuyện tranh
giành vương vị, hoang dâm loạn lạc. Các chúa bèn cho mời các bậc học giả
tinh thông địa lý đến khảo sát cuộc đất định đô.
Sau khi xem xét địa thế vùng kinh sư, các nhà địa lý đã phát hiện
ngay trước mặt kinh thành Phú Xuân, phía bờ tây nam sông Hương, có một
dãy núi thiêng, có hình dáng một con rồng với nhiều long mạch khắc chế
đế quyền. Để chế ngự vùng long mạch này, các học giả khuyên các chúa
Nguyễn nên mời các vị thiền sư đắc đạo đến quy y cho rồng thiêng để điều
phục điềm xấu. Từ đó, các chúa đã cử người đi mời các vị thiền sư đắc
đạo, có lúc phải sang tận Trung Hoa để tìm mời các vị thiền sư đạo cao
đức trọng đến Thuận Hóa chấn tích khai sơn (cắm tích trượng vào những
huyệt địa) để quy y, thuần phục rồng thiêng, buộc chầu Thiên Ðế. Vào
thời đó, người ta tin rằng nhờ vậy rồng thiêng không còn quậy phá nữa.
Vùng đồi núi hoang sơ đối diện với kinh thành Huế từ đó có tên là Bình
An Sơn”.
Bình An Sơn là một dãy núi kéo dài từ núi Hàm Long lên đến Thiên
Thai, có hàng chục ngôi chùa tọa lạc ở những vị thế đắc địa. Chùa Hàm
Long (nay là chùa Báo Quốc) nằm trên đồi Hàm Long (miệng rồng), được hòa
thượng Giác Phong, từ Trung Hoa đến chấn tích khai sơn (khoảng
1693-1714). Chùa Từ Đàm tọa lạc trên ngọn đồi có tên Long Sơn do Hòa
thượng Minh Hoằng - Tử Dung, đến từ Trung Hoa, khai sơn vào khoảng năm
1695. Năm 1703, Chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho chùa tấm biển "Sắc Tứ Ân
Tôn Tự", đến năm 1841, Vua Thiệu Trị đổi tên chùa là Từ Đàm, hiện chùa
là trụ sở của Tỉnh giáo Hội Phật giáo VN Thừa Thiên - Huế.
Sát bên chùa Từ Đàm có chùa Thiên Lâm, là một trong những thắng cảnh
của đất Thuận Hóa ngày xưa; Không xa chùa Thiên Lâm có chùa Kim Tiên, mà
người dân Huế quen gọi là chùa Tiên cũng ẩn chứa lắm truyền thuyết.
Chùa do hòa thượng Bích Phong làm ra, đến đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát,
được trùng tu sơn thếp xanh vàng rực rỡ, trước dựng lầu Vọng tiên, quy
chế tráng lệ. Sau gặp binh hỏa bỏ hoang phế, nay người trong ấp nhân
theo nền cũ làm lại. Khi Tây Sơn chiếm đóng Phú Xuân, chùa Kim Tiên được
dùng làm nơi ở của Bắc cung hoàng hậu Ngọc Hân. Và cũng chính từ đây đã
ra đời bài thơ Ai tư vãn, có những câu thơ đầy tâm trạng: “Nọ trông
trời đất bốn phương/Cõi tiên thăm thẳm biết đường nào ra...”.
Thăng trầm những tiếng chuông chùa
Từ hàng chục ngôi chùa tọa lạc trên dãy Bình An Sơn, hằng đêm người
dân xứ Huế đã được “thức tỉnh” bằng một bản giao hưởng chuông chùa huyền
nhiệm. Người đánh chuông phải tuân thủ công phu thiền định với giờ giấc
nghiêm ngặt. Mỗi sáng các nhà sư phải thức giấc vào lúc 3 giờ 30, đánh
đúng 108 tiếng chuông, với lời kệ: Nghe tiếng chuông lòng trần sẽ được
trong sạch để chứng nghiệm thông suốt và đầy đủ rằng: Tất cả chúng sanh
đều thành chánh giác – hiểu biết thông suốt triết lý bát chánh đạo (Văn
trần thanh tịnh chứng viên thông/nhất thiết chúng sanh thành chánh
giác); và: Nghe tiếng chuông/phiền não nhẹ/trí tuệ lớn/bồ đề sanh/thoát
địa ngục/vượt hầm lửa/nguyện thành Phật/cứu chúng sanh). Trong mỗi tiếng
chuông của người hành giả, với hạnh nguyện từ bi mong muốn gửi gắm đến
tất cả mọi người, mọi loài giải tỏa mọi muộn phiền đau khổ.
Ở Huế, tiếng chuông chùa nổi tiếng đã tồn tại hơn 4 thế kỷ qua và đi
vào ca dao là: “Gió đưa cành trúc la đà/Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà
Thọ Khương (*)”. Thế nhưng, ngày nay ngoài tiếng chuông Thiên Mụ, hằng
đêm còn có hàng trăm tiếng chuông chùa trên dãy Bình An Sơn cùng tấu
khúc thức tỉnh ngày mới. Trong số đó, có những chuông chùa nổi tiếng
nhưng cũng chịu vô số thăng trầm của lịch sử.
Quả chuông có lịch sử thăng trầm nhất có thể kể đến là chuông chùa
Thiên Thai, từng đi vào thơ Nguyễn Du, trong bài Vọng Thiên Thai: “Thiên
Thai sơn tại đế thành đông/Cách nhất điều giang tự bất thông/Cổ tự thu
mai hoàng diệp lý/Tiên triều tăng lão bạch vân trung/Khả liên bạch phát
cung khu dịch/Bất dữ thanh sơn tương thủy chung/Ký đắc niên tiền tằng
nhất đáo/Cảnh Hưng do quải cựu thời chung” (Thành Đông chót vót núi
Thiên Thai/Cách một dòng sông lối rẽ hai/Chùa cổ lá vàng nghiêng mái
phủ/Triều xưa sư lão trắng mây bay/Gian nan đầu bạc hoài thương
tiếcChung thủy non xanh chẳng đoái hoài/Năm trước đến đây còn nhớ
lại/Cảnh Hưng chuông cổ vẫn treo đài).
Theo niên đại ghi trên thân chuông thì quả đại hồng chung chùa Thiên
Thai Thiền Tôn được đúc vào cuối xuân năm Đinh Mão, Cảnh Hưng năm thứ 8
(1747). Người xưa kể rằng tiếng chuông ngân vang trầm hùng và rất linh
diệu, lắng đọng, mỗi khi tiếng chuông gióng lên là tất cả thú dữ trong
vùng rừng núi Thiên Thai đều quy phục. Và lúc bấy giờ vùng núi Thiên
Thai là nơi ẩn núp của các nhóm thảo khấu, đạo tặc nhờ nghe được tiếng
chuông mà đã cải tà quy chánh. Dưới triều Tây Sơn, cũng như nhiều quả
chuông của các chùa Huế, chuông Thiền Tôn cũng bị tịch thu để lấy đồng
đúc vũ khí.
Buổi công phu khuya của các nhà sư
chùa Từ Hiếu
|
Nhưng bởi tiếng ngân linh diệu của quả chuông nên sau đó chuông không
đập ra để lấy đồng mà được đem về treo ở Văn Thánh tại làng Long Hồ để
làm điểm tựa tâm linh cho mọi người. Đến năm Gia Long thứ hai (1803) sau
khi trùng tu chùa xong thì thập phương tín đồ cùng với hòa thượng Đạo
Tâm Trung Hậu mới dâng biểu lên nhà vua, xin thỉnh đại hồng chung về lại
chùa Thiên Thai Thiền Tôn. Khi đại hồng chung trở lại chùa tăng chúng
và tín đồ đã vân tập làm lễ đàn tràng khai chung u minh trong 21 ngày
đêm để cầu “Quốc thái dân an, đạo pháp lưu trường”. Từ năm 1803 trở về
sau, tiếng chuông Thiên Thai lại ngân vang như xưa.
Ngoài ra, ở Huế còn có tiếng chuông chùa La Chữ cũng khá nổi tiếng.
Quả chuông được đúc vào năm Quang Trung thứ 4 (1791). Ông Lê Công Mầu,
một bô lão nguyên giáo viên dạy Văn của trường Quốc học Huế, từng làm
trưởng làng, cho biết, quả chuông đồng này tuy không phải chuông lớn,
nhưng có điểm đặc biệt là khi đánh lên chuông có tiếng ngân vang xa kỳ
lạ. Tương truyền, sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi, các bô lão trong làng sợ
tiếng chuông vang đến tai vua và bị tịch thu bèn cho khoan đỉnh chuông
nhằm giảm bớt tiếng vang. Mỗi lần có quan binh triều Nguyễn đến lùng
sục trong làng, các bô lão đã mang chuông giấu xuống giếng làng rồi dùng
cây cối che khuất để ngụy trang cho quan binh không nhìn thấy. Cũng
theo ông Mầu, sau ngày giải phóng, cơ quan quản lý văn hóa cũng đã có
lần về làng xin mượn chuông quý để mang ra Hà Nội, nhưng dân làng theo
truyền thống cũ vẫn cương quyết không chịu, đến nay quả chuông quý vẫn
còn tại chùa làng La Chữ.
Ngày nay, pha lẫn với hàng vạn tạp âm của nhịp sống đô thị, tiếng
chuông chùa Huế hằng đêm vẫn vang lên vi diệu, gửi vào trần thế ước
nguyện giải thoát mọi muộn phiền cho cuộc sống muôn dân.
Bùi Ngọc Long (Theo Thanh Nien)
(*) Mọi người vẫn quen đọc Thọ Xương nhưng người Huế vẫn đọc Thọ
Khương vì đó là tên làng Thọ Khương.