Hết xuân sang hạ, khí trời trở
nên mát mẻ, tối hôm ấy, như thường lệ, ông già dọn dẹp các nơi xong, đang định
vào căn phòng nhỏ phía sau Phật điện nghỉ ngơi, bỗng nghe có tiếng gõ cửa nhè
nhẹ vang lên ở phía ngoài, ông đi ra mở cửa thì thấy một vị sư áo quần lam lũ,
râu ria xồm xoàm, tay cầm chiếc thuyền trượng (cái gậy), trên lưng đeo một cái
đãy nhỏ đang đứng dưới thềm cửa trước chùa.
- Ngài cần việc gì ? Ông già
hỏi.
- Tôi đi vân du đến đây thì
trời tối, không có chỗ trọ, định vào quý tự xin tá túc một đêm.
- Chùa đây không phải chốn tùng
lâm, không tiện tá túc. Vả lại, sư cụ trụ trì đi vắng, tôi chỉ là người trông
nom đèn hương trong chùa, xin sư cụ từ mẫn cho. Ông già uyển chuyển đáp khéo.
- Tôi cũng biết chùa đây không
phải chốn tùng lâm. Vị khách tăng nói. Song đến đây không còn thấy nơi nào có
thể ngủ trọ được. Giờ trời đã tối, xin lão vui lòng cho tôi nghỉ tạm một đêm.
Sau một lát ngần ngừ, ông già
nói :
- Trong chùa vẫn còn một căn
phòng nhỏ bỏ không, sư cụ có thể nghỉ tạm. Song chỉ hiềm là không có chiếu chăn
gì cả, mà lương thực cũng eo hẹp lắm !
- Điều đó không ngại, tôi ngồi
được rồi, không cần chiếu chăn. Còn thức ăn thì tôi đã có mang theo lương khô
đây, không dám phiền bàn đến lão.
- Vậy thỉnh cụ vào, nhưng xin
cụ cho biết pháp danh và cụ ở đâu tới ?
- Tôi là Vân Không, từ Triết
Giang đến.
Ông già đưa sư cụ Vân Không
vào. Khi đi qua Phật điện, ông thắp ngọn đèn dầu trên bàn thờ lên, rồi dẫn sư
cụ vào căn phòng phía sau đối diện với phòng của ông. Căn phòng bỏ không, nhưng
ở góc phòng có một đống cỏ khô chất gần đến mái nhà, mùi cỏ khô tỏa ra khắp căn
phòng.
Ông già vừa nhìn sư cụ vừa nói
:
- Xin cụ lượng thứ, thỉnh cụ
hãy tạm nghỉ ở đây !
- Ồ, không sao ! Tôi đã sống
qua nhiều ngày thế này rồi, ở đây tương đối còn khá lắm !
Sư cụ để chiếc gậy và cái đãy
vào góc phòng, rồi nói với ông già :
- Thôi, mời lão đi nghỉ. Để mặc
tôi, tôi còn lên lễ Phật.
Ông già đi về phòng riêng. Vừa
mới ngồi xuống giường, đột nhiên lại thấy tiếng gõ cửa từ đằng trước vọng vào.
Lần này, tiếng gõ cửa rất gấp và cứ thình thình. Ông thấy trong lòng run sợ,
còn đang phân vân không biết có nên ra mở cửa hay không thì chợt thấy sư cụ Vân
Không tiến đến cửa phòng.
- Có người gọi cửa phía ngoài.
- Tôi nghĩ không nên mở. Ông
già nói. Họ gõ chán, không thấy mình ra, tất họ phải đi.
- Tại sao không mở ? Sư cụ ngạc
nhiên hỏi.
- Bạch cụ, cụ không biết, chứ ở
vùng này lộn xộn lắm, trộm cướp vô khối. Tiếng gõ cửa liên hồi như thế, tôi
chắc bên ngoài phải có nhiều người. Chả biết họ đến làm gì, tôi không dám cho
họ vào đâu !
- Ông với tôi thì có gì đâu mà
sợ họ cướp? Và chắc đâu đã phải là cướp ? Cứ ra xem nào!
- Thảng hoặc họ là cướp thật và
cái gì cũng muốn vơ vét. Tôi còn mấy chiếc quần áo và chút ít tiền, nếu họ lấy
mất thì sao ?
- Ông đem giấu tiền đi, còn
quần áo thì họ sẽ không thấy đâu ! Nếu thật là cướp thì còn có tôi đây, lão
đừng sợ. Ví phỏng họ muốn ăn thì cho họ ăn, tôi còn lương khô đây, ăn hết sẽ
hay !
Ông già do dự nói :
- Họ gõ cửa đã lâu mà mãi bây
giờ mới ra mở. Giả sử họ là cướp, chắc chắn khi vào họ sẽ cho tôi một trận nên
thân chứ chẳng chơi !
- Tôi đi với lão và để tôi mở
cửa cho !
- Bạch cụ. Ông già nhíu mày
nói. Nếu chỉ là một người khỏe mạnh, mình đối phó được còn khó thay ! Huống hồ
lại nhiều người, họ sẽ nuốt sống mình mất.
- Một người khỏe mạnh cũng
không sợ, mà có bao nhiêu người cũng không sao, đã có tôi ở đây !
Sư cụ Vân Không đến bên ông già
và cầm tay kéo ông đi :
- Đây là một nơi hoang vắng, chắc
có người lỡ đường muốn vào chùa xin nghỉ trọ, nên cho họ vào, nếu họ đói thì
cho họ ăn. Ở đời, việc nên làm thì làm, chứ đừng so đo cân nhắc nhiều quá !
Ông già bị sư cụ kéo đi, đành
cũng phải theo người. Khi họ ra tới cửa thì tiếng gõ cũng vừa tắt. Sư cụ mở cửa
ra, trời đã tối hẳn. Dưới ánh sáng lờ mờ của mấy vì sao lấp lánh rọi xuống, sư
cụ thấy một người đang nằm gục trên bậc cửa.
Ông già vội đến trước hỏi :
- Giờ này, ông còn đến chùa làm
gì ?
- Tôi đi qua đây, không biết bị
con gì cắn, xin cho tôi vào nghỉ nhờ một lát !
Nói xong, không đợi ông già
đáp, người ấy tiến vào cửa, nhưng vừa khỏi cửa thì lại ngồi quỵ xuống. Ông già
vội đỡ dậy, hỏi :
- Tại sao lại ngồi đây, mời ông
vào chùa nghỉ.
- Bắp chân tôi đau quá, không
đi được nữa !
- Tôi đỡ ông vào vậy ! Ông già
nói.
- Để tôi bế ông ấy vào !
Vừa nói, sư cụ Vân Không vừa
gạt ông già ra, rồi đỡ người ấy dậy và cõng vào chùa.
Sư cụ nhìn chỗ người ấy bị cắn
một lát, rồi nói vội :
- Chết chửa ! Bị rắn độc cắn,
vết thương tuy nhỏ song nọc rắn độc lắm. Ở đây, giờ không tìm được thuốc, làm
thế nào ?
Dứt lời, sư cụ cúi ngay xuống,
rồi để mồm vào chỗ bị rắn cắn và dùng hết sức để nún; cứ nún đến đâu lại nhổ ra
đến đấy; một lúc lâu mới đứng dậy đi vào phòng lấy ra một gói thuốc bột rắc vào
chỗ vết thương.
- Xin đừng động đậy ! Ông bị
cắn lâu chưa ?
- Cách đây độ một tiếng đồng
hồ.
- Lâu quá như thế thì phương
thuốc này vẫn chưa đủ. Không những chỉ rắc thuốc ở ngoài mà còn phải uống thuốc
nữa mới được, nhưng trong đãy của tôi lại không có thứ thuốc ấy !
Nói xong, sư cụ Vân Không quay
sang hỏi ông già :
- Có tiệm thuốc nào gần đây
không ?
- Mãi trên khu chợ mới có, cách
đây ba cây số. Ông già đáp.
- Tiệm thuốc e rằng cũng không
có thứ thuốc ấy. Sư cụ nói. Vả lại, đường xa thế, đi về sợ lâu quá ! Phàm chỗ
nào có rắn thì đều có thứ lá trị rắn độc, nhưng cần phải đi tìm mới được!
- Nhưng ai biết thứ lá đó ? Ông
già hỏi.
- Tôi biết. Sư cụ đáp.
Người bị rắn cắn đang nằm phục
trên chiếc chiếu, cố ngẩng lên quay sang nói với sư cụ :
- Xin sư cụ cứu tôi ! Ơn ấy,
tôi xin ghi lòng tạc dạ.
- Ông cứ yên tâm, tôi sẽ đi tìm
thuốc cho ông !
- Xin sư cụ cho biết quý danh.
- Tôi là Vân Không.
- Tôi muốn biết tên tục của sư
cụ.
Sư cụ cười và đi ra cửa :
- Tôi họ Trần, ở cùng xóm với
ông.
Rồi sư cụ ngoảnh lại nói với
ông già :
- Bên ngoài tối quá, xin lão
cho tôi một bó đuốc !
Ông già đi xuống bếp, một lát
sau đưa lên một bó thanh nứa đã đốt sẵn, trao cho sư cụ rồi đưa sư cụ ra ngoài
cửa, đoạn trở vào Phật điện nói chuyện với ông khách lạ.
- Xin ông cho biết quý danh.
- Tôi là Đoàn Quốc Hùng.
- Hiện giờ, ông thấy trong
người thế nào, có bớt đau không ?
- Đau thì không đau lắm, chỉ
buôn buốt, nhưng giờ đã đỡ nhiều rồi.
- Nếu không đau mà thấy buốt
thì đúng là rắn độc cắn. Sư cụ Vân Không coi bộ thạo về môn này lắm ! Thế là
ông đã gặp được vị cứu tinh, nhưng mong sao Ngài tìm ra thuốc mới được.
Đoàn Quốc Hùng nói :
- Thưa lão, tôi đang băn khoăn
suy nghĩ để biết xem sư cụ Vân Không đây trước khi xuất gia là người thế nào.
- Tôi cũng như ông, chẳng hiểu
gì cả ! Nhưng điều đó có gì quan hệ ? Ông già lấy làm lạ, hỏi. Công việc trọng
yếu của ông hiện giờ là phải điều trị nọc độc. Ông với sư cụ tình cờ gặp nhau
như cánh bèo trên mặt nước. Sư cụ chữa khỏi vết thương cho ông rồi ngày mai lại
trôi giạt mỗi người mỗi phương. Nếu ông muốn đền đáp ơn người thì cứ ghi nhớ
tên người là Vân Không để sau này tìm cách báo đền. Còn như trước khi xuất gia,
người làm gì hoặc tên tuổi của người là gì thì thiết tưởng điều đó ông không
nên băn khoăn. Hay ông hoài nghi trước kia người không là thầy thuốc nên sẽ không
dám uống thuốc của người ?
- Đây không phải là vấn đề
thuốc thang, tôi còn mang nặng một tâm tư khác. Tôi và vị sư ấy không phải tình
cờ gặp nhau. Tuy đã nhiều năm không thấy nhau, hai chúng tôi đều đã già. Vả
lại, người mặc tấm áo nâu và râu ria bờm sờm che kín mặt, song tôi vẫn hơi nhận
ra người, nhất là khi sư cụ cho tôi biết sư cụ họ Trần và theo lối nói thì hình
như sư cụ cũng đã nhận ra tôi. Đúng sư cụ là Trần Phán ! Giữa tôi và sư cụ có
một mối oan cừu mà mười năm qua không lúc nào tôi ăn ngon ngủ yên.
- Thế việc đó ra sao ? Ông già
hỏi.
- Sư cụ và tôi là người cùng
xóm. Trần Quốc Hùng hạ giọng nói. Lúc còn trẻ, ông ở sát cạnh nhà tôi. Ông làm
nghề đi bán các trò chơi. Ông nuôi nào khỉ, nào chuột, nào rắn và luyện tập
chúng biểu diễn các trò. Nhất là rắn, lớn bé hơn mươi con, cứ thay đổi luôn
luôn. Do đó, người trong làng mới đặt cho ông tên là Trần Xà Nhân. Trần Xà Nhân
chỉ có một người con gái còn nhỏ tuổi, thường theo cha đi biểu diễn các trò.
Bấy giờ, tôi rất ghét ông ta ở cạnh nhà tôi, vì những con vật ông ta nuôi, sau
khi luyện tập thành thục, ông ta cứ thả ra. Có lúc những con khỉ chạy sang vườn
phá phách hoa quả của tôi, còn rắn thì lúc nào cũng nằm cuộn tròn trên cành cây
trước nhà ông ta, những cành cây vươn ra sát đầu tường hoa nhà tôi. Tuy rắn
không bò qua tường bao giờ, nhưng ở bên nhà tôi trông rất rõ và rất đáng sợ.
Tôi đã từng cảnh cáo ông ta và cũng có khi ông ta bồi thường thiệt hại về hoa
quả cho tôi, nhưng nghề nghiệp của ông ta bắt buộc phải làm bạn với khỉ và rắn,
rốt cuộc là tôi không thể chịu đựng được nữa. Cuối cùng, tôi bảo ông ta phải
dọn nhà đi nơi khác. Nhưng ông ta nói là nhà của ông bà để lại nên không dám
bán, mà đi nơi khác mua cũng không dễ dàng gì ! Bảo ông ta dọn nhà không có kết
quả, tôi bèn thuê người đến sinh sự phá phách. Nhưng ông ta rất giỏi võ, những
người tôi thuê đều bị ông ta đánh bại và bị thương. Tôi liền đi thưa quan huyện
để vu khống ông ta là cố ý đả thương. Tôi là người giàu có và thuộc giòng dõi
quý tộc rất có thế lực, nên quan huyện cũng nể và sai người về bắt Trần Xà Nhân
giải lên huyện và bị tống giam. Còn mỗi đứa con gái ở nhà không đi biểu diễn
được và cũng không đủ sức trông nom những con vật, nên sau khi ông ta bị bắt
mấy hôm thì khỉ, rắn và chuột đều bỏ đi. Đứa con gái vào nhà giam báo cho ông
ta biết. Ông ta đành phải chịu dọn đi nơi khác. Khi về tới nhà, thấy súc vật đã
đi hết và đứa con gái tiều tụy sau hai tháng trời sống lây lất, Trần Xà Nhân
liền bỏ nhà dẫn con ra đi. Sau khi ông ta đi khỏi, tôi liền sang chiếm cứ nhà
ông ta. Phía sau, tôi cho người làm ở; còn phía trước thì làm chuồng trâu và
chuồng ngựa. Như thế, qua nửa năm, bỗng một hôm, Trần Xà Nhân đưa con về. Ông
ta thấy nhà mình hoàn toàn đổi khác, trong nhà đầy người ở. Sau khi biết tôi đã
chiếm cứ, ông ta liền sang kêu van tôi trả lại nhà cho ông ta. Tôi không trả
lời và bảo ông ta cứ đi thưa quan huyện. Ông ta đứng ngoài kêu nài mãi, nhưng
tôi vẫn tảng lờ như không nghe thấy. Đột nhiên, ông ta trợn mắt nhìn tôi một
cách dữ tợn và lẩm bẩm nói : “ Món nợ này sau sẽ thanh toán !”. Dứt lời, ông ta
nhảy một cái qua tường hoa để về nhà bên kia. Tôi kinh ngạc, chạy vội ra cổng
xem thì thấy Trần Xà Nhân đang ung dung dắt con đi. Từ đó, ông ta không trở về
nữa. Cũng từ đấy, lòng tôi bắt đầu thấy sợ hãi không yên, nhất là ánh mắt dữ
tợn của ông ta nhìn tôi trước khi ra đi đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong
lòng tôi. Bất cứ lúc nào tôi cũng thấy ánh mắt trừng trừng nhìn tôi và câu nói
của ông ta trước khi ra đi lúc nào cũng văng vẳng bên tai tôi, nhất là trong
đêm tối hoặc trong mộng mị, tôi vẫn cứ nghe câu nói ấy, giọng nặng nề và rùng
rợn. Có khi tôi thấy trong góc nhà và bốn chung quanh tường, những ánh mắt đang
nhìn tôi. Đó là ánh mắt của Trần Xà Nhân nhìn tôi lúc ra đi, nhưng lúc này còn
dữ tợn hơn nữa.
Tôi sợ hãi như thế nên không
lúc nào dám ngồi một mình trong nhà, cũng không dám lên giường ngủ. Tôi cần
nhiều người đứng xung quanh và bắt họ la thét vang lên để trấn áp những lời chú
thuật và che ánh mắt dữ tợn của Trần Xà Nhân. Tôi lại sợ Trần Xà Nhân nhảy qua
tường hoa như hôm nào, nên sai người xây cao thêm lên. Song vô ích, vì từ khi
Trần Phán đi rồi thì không ai còn thấy tung tích hay hình bóng ông ta đâu nữa !
Ông ta không trở về để nhảy qua tường hoặc dùng bất cứ một phương pháp nào khác
để vào nhà tôi. Chỉ có ánh mắt và lời nguyền rủa của ông ta luôn luôn theo sát
tôi khiến tôi không có chỗ trốn tránh. Bản tính tôi vốn sợ rắn. Khi Trần Xà
Nhân đi rồi, tôi cứ nghĩ đến rắn là lòng lại run lên. Nếu thấy con rắn nào thì
tôi lại tưởng đó là rắn của Trần Xà Nhân nuôi và sai về để cắn tôi. Bởi thế,
ngoài sự tưởng tượng đến ánh mắt và lời nguyền rủa của Trần Xà Nhân, tôi còn
tưởng tượng cả rắn; đến nỗi thấy một vật gì dài, nhỏ và uốn khúc hoặc một cái
bóng ngoằn ngoèo, tôi đều sợ hãi. Vì khổ sở như thế, nên tôi chỉ thích đến
những nơi huyên náo đông người, thậm chí cả nơi cờ bạc để mong những tiếng ồn
ào ấy sẽ đàn áp sự sợ sệt của tôi. Nhưng khi tan canh ra về thì lại ghê rợn vô
cùng, tôi sợ gặp Trần Xà Nhân giữa đường hoặc gặp rắn của ông ta sai phục sẵn
bên đường để chờ tôi. Bởi thế, bao nhiêu người đi theo hộ vệ tôi và la thét ầm
ỉ. Vì thế, tôi đã đam mê cờ bạc, gia cảnh cũng dần dần suy sụp, thanh danh giảm
bớt. Người ta không còn kêu tôi là “ thân sĩ ” hoặc “ trí thức ” mà họ gọi tôi
là “ đồ cờ bạc ”. Sức khỏe mỗi ngày một kém, kết quả là mọi người đều cho tôi
đã mắc chứng “ bệnh tinh thần ”.
Để giải trừ nỗi oan cừu ấy, tôi
đã đăng lời rao trên các báo chí tìm Trần Phán, nói rõ là xin bồi thường tất cả
những sự tổn thất. Nhưng từ bấy đến nay, vẫn không một hồi âm. Vô pháp khả thi,
tôi chỉ còn cách ra đi tìm kiếm, mong được gặp ông ta để tạ tội và xin bồi
thường thiệt hại. Tôi tưởng rằng ông ta vẫn làm nghề cũ, nên không một đám biểu
diễn trò chơi nào mà tôi không vào xem, nhưng tuyệt không thấy Trần Xà Nhân hay
con gái ông ta trong đó. Trên đường tìm kiếm, hôm nay đến nơi hoang vắng quạnh
quẽ này, không ngờ tôi lại bị rắn cắn !
Vị sư cụ vừa chữa vết thương
cho tôi lúc nãy, thoạt nhìn đôi mắt, tôi đã nhận ra đó là cặp mắt của Trần Xà
Nhân. Bởi thế, tôi mới hỏi tên tục của người, nhưng người chỉ cho tôi biết
người họ Trần mà không nói tên. Song nghe đến họ Trần, tôi đã tin chắc đó là
Trần Xà Nhân, nhất là người lại bảo ở cùng xóm với tôi. Vậy không phải “ ông ta
” thì còn là ai ? Tôi cứ suy nghĩ mãi tự nãy đến giờ là nếu “ông ta ” nhận ra
tôi thì tại sao “ ông ta ” lại chữa cho tôi ? Tôi đang băn khoăn tự hỏi khi
“ông ta” đưa thuốc về thì tôi có nên uống hay không ?
Nghe xong, ông già nói :
- Sư cụ này cũng mới vào đây
xin tá túc trước khi ông đến chừng mấy phút thôi. Bởi thế, tôi cũng không hiểu
biết gì về sư cụ hơn ông mấy ! Nhưng nếu người tìm được thuốc thang về, làm sao
ông có thể từ chối không uống ? Không uống, tất không có hy vọng trừ hết nọc
rắn độc. Theo tôi, khi sư cụ để mồm vào vết thương hút nọc độc ra chắc không
phải có ý giả dối đâu ! Trên đời này, không có ai đối với kẻ thù của mình bằng
cử chỉ ấy. Còn họ Trần thì rất phổ thông, chắc trong số bạn bè của ông cũng có
nhiều người mang họ Trần. Ông hãy cứ tưởng tượng sư cụ là một người họ Trần
khác đi, chứ nhất định không phải Trần Xà Nhân. Ông cũng coi như là người không
nhận ra ông. Nếu thật người đã nhận ra ông là kẻ oan gia đối đầu với người,
chắc người đã khoanh tay đứng nhìn, chứ đâu lại khổ công lo chữa cho ông ?
Người đã chịu cực hút nọc rắn độc để cứu ông thì người đâu còn dùng thuốc độc
để hại ông nữa !
Đoàn Quốc Hùng nghe ông già nói
xong, gật gật đầu, nhưng vẫn cứ phân vân. Đúng lúc ấy, có tiếng gõ cửa bên
ngoài, ông già liền đi ra mở cửa. Sư cụ Vân Không, một tay xách bó cỏ, tay kia
cầm cây đuốc đã cháy gần hết, đang đứng trên bậc cửa. Ông già vội đỡ lấy bó cỏ
từ tay sư cụ, rồi hai người cùng tiến vào Phật điện. Đoàn Quốc Hùng thấy sư cụ
đã vào, cố gượng ngồi dậy, nhưng sư cụ cản lại :
- Ông đừng cử động ! Người bị
rắn cắn càng nằm yên càng tốt. Ông bị cắn lâu mới chữa, tuy tôi đã hút máu ra,
song sợ chưa hút hết được nọc độc. Bởi thế, ông cần phải uống thuốc trong và
rịt thuốc ngoài. Thuốc ngoài tôi đã rịt rồi, bây giờ tôi sắc cho ông uống !
Đoàn Quốc Hùng lại nằm xuống và
duỗi thẳng hai chân ra. Sư cụ Vân Không đi vào phòng, cầm chiếc thuyền trượng
ra, rồi để bên người; sau đó lấy một phần bó cỏ thuốc và rải ra mặt đất trên
nền chùa.
Ông già đến trước hỏi :
- Bạch cụ, cụ định giã lá thuốc
?
- Vâng, phải giã thật nát mới
rịt được !
- Cụ để tôi giã đỡ !
Ông già đến cầm lấy chiếc
thuyền trượng đặt trên chốc chiếu, lúc đó mới biết chiếc thuyền trượng làm bằng
sắt. Ông già nhấc một tay không nổi, liền dùng cả hai tay cũng vẫn không nhấc
bổng lên được. Ông đành lắc đầu, lè lưỡi.
- Ông đi sắc thuốc đi ! Sư cụ
Vân Không nói. Còn việc giã thuốc để đấy tôi làm cho !
Ông già vâng theo, đứng dậy cầm
lấy nửa bó cỏ rồi đi xuống bếp. Sư cụ Vân Không nhấc chiếc thuyền trượng lên và
nện xuống sàn chùa. Tiếng kêu côm côm vang lên trong Phật điện, long cả tai.
Đoàn Quốc Hùng nhắm nghiền mắt lại, vùi đầu xuống chiếu. Sau khi giã nát thuốc,
sư cụ lấy tay cầm đắp vào vết thương trên ống chân Đoàn Quốc Hùng, rồi xé một
miếng áo của mình để buộc vết thương lại. Đang buộc, bỗng nhiên sư cụ hỏi :
- Ông thấy đau nhức hay sao mà
run thế ?
Đoàn Quốc Hùng ngóc đầu dậy,
nhìn sư cụ Vân Không như muốn nói, nhưng hễ mở miệng ra lại thôi, lâu lắm mới
hơi thốt lên những lời líu nhíu :
- Bạch cụ, tôi cảm ơn cụ lắm !
Song thật cụ có nhận ra tôi là ai không ?
- Tôi nhận ra. Sư cụ vừa nói
vừa cười. Ông là Đoàn Quốc Hùng.
Đoàn Quốc Hùng ngồi nhỏm dậy,
tỏ vẻ kinh hoảng và bi thương nhìn Vân Không :
- Thế ra sư cụ là Xà nhân Trần
Phán ?
- Đó là tên họ ngày xưa. Sư cụ
mỉm cười.
- Bạch cụ. Đoàn Quốc Hùng lại
nằm xuống và nước mắt trào ra. Trước đây mười năm, sư cụ muốn thanh toán tôi.
Tôi còn nhớ mãi câu nói ấy ! Bất cứ ở đâu và giờ phút nào, tôi cũng phảng phất
như thấy ánh mắt sư cụ nhìn tôi trước khi bỏ đi. Đã mười năm qua, ánh mắt ấy cứ
theo tôi như bóng với hình. Không một thời khắc nào mà tôi thấy lòng được bình
yên và thanh thản ! Lúc nào tôi cũng sống trong hồi hộp và lo sợ. Tôi muốn sám
hối tội ác tôi đã gây nên nhưng chưa gặp cơ hội, ngày đêm tôi mong sư cụ về để
trả thù tôi nhưng vẫn bặt tin. Tôi. Tôi đã đăng tin trên các báo chí để tìm sư
cụ, nói rõ là tôi đã ăn năn và đau đớn. Song không được hồi âm của sư cụ, cuối
cùng tôi đành bỏ nhà ra đi tìm sư cụ. Dù có bị sư cụ thanh toán, tôi cũng đỡ
khổ. Hôm nay, ta gặp nhau ở đây, chính là dịp để sư cụ trả cho xong mối oan cừu
năm xưa. Nhưng trái lại, sư cụ vẫn cứu tôi. Tôi cứ tưởng sư cụ đã quên tất ! Đã
biết tôi là Đoàn Quốc Hùng, tại sao sư cụ lại nhọc công cứu tôi ? Thật tôi
không hiểu dụng ý của sư cụ, hay chữa khỏi rồi mới trả thù ?
- Món nợ ấy, tôi không còn tính
nữa ! Vân Không bình tĩnh nói. Lúc ông vừa vào cửa chùa, tôi đã nhận ra ông.
Nếu tôi còn nghĩ đến thù oán, tôi cứ đứng khoanh tay nhìn ông đau đớn đến chết,
chứ vạ gì tôi phải chịu bẩn thỉu để cứu ông ? Giờ đây, tôi là Vân Không hòa
thượng, chứ không phải Trần Xà Nhân. Xin ông cứ tin như thế !
Đúng lúc ấy, ông già từ dưới
bếp đang bưng lên một tô thuốc vừa sắc xong. Ông từ từ tiến vào Phật điện, trao
bát thuốc cho Đoàn Quốc Hùng. Hùng đỡ lấy để xuống chiếu, chờ cho thuốc nguội bớt.
Một lúc sau, Hùng bưng bát thuốc lên uống một hơi, đoạn lại nằm xuống.
Sư cụ Vân Không nói :
- Lát nữa, nọc độc trong người
ông sẽ tiêu hết ! Ông đi tìm tôi và đã gặp tôi ở đây, song người hiện đang ngồi
trước mặt ông là Vân Không hòa thượng chứ không phải Trần Xà Nhân. Ngày mai,
ông cứ yên tâm trở về, đừng đi lang thang nữa !
- Bạch cụ, như vậy là cụ đã tha
thứ cho tôi?
- Còn hơn cả tha thứ nữa ! Sư
cụ Vân Không nói. Lòng tôi đối với tội ác không còn sầu hận, chỉ có thương xót
mà thôi !
- Việc này phải nhìn theo hai
khía cạnh để giải quyết. Giọng Trần Quốc Hùng bi thảm. Tâm sư cụ tuy không còn
cừu hận, song lòng tôi vẫn ăn năn sợ hãi. Mười năm qua, tôi đã luôn luôn sống
trong tâm trạng ấy. Nhiều khi tôi có một hy vọng kỳ quặc là hy vọng sư cụ về để
thanh toán tôi cho hết mối cừu hận, cho lòng tôi được yên ổn. Nhưng tôi vẫn
không thấy hình bóng của sư cụ xuất hiện. Bởi thế, tôi mới quyết định đi tìm sư
cụ và sẵn sàng bồi thường thiệt hại cho sư cụ cả về vật chất lẫn tinh thần. Xin
sư cụ về Thượng Hải với tôi có được không ?
- Về Thượng Hải làm gì ? Vân
Không ngạc nhiên hỏi.
- Trước khi ra đi, tôi đã sắp
sẵn một số tiền để bồi thường cho sư cụ. Nhưng vì đường xa, đi một mình nên tôi
không dám mang theo, tôi phải gửi số tiền ấy ở ngân hàng tại Thượng Hải. Sư cụ
đòi bao nhiêu, tôi xin trả bấy nhiêu! Nhưng sư cụ không ở đâu nhất định, ngày
mai chia tay rồi sẽ khó gặp lại sư cụ. Bởi thế, tôi muốn mời sư cụ về Thượng
Hải để tôi trả cho xong món nợ đó !
- Ý ông muốn trả tiền tôi ? Tôi
lấy tiền làm gì ? Tôi không cần tiền.
- Tôi cũng biết món nợ đó không
phải hoàn toàn trả bằng tiền mà xong, nhưng vẫn còn nợ tinh thần nữa. Chẳng hạn
tôi đã vu khống sư cụ đến nỗi sư cụ phải bị tù đày một cách oan uổng trong hai
tháng trời.
- Ô, điều đó đối với tôi có một
tác dụng luyện tập ! Tôi không cho đó là “tai vạ tù đày”.
- Không những thế, sau khi sư
cụ bị giam cầm, những rắn, khỉ và chuột của sư cụ đã bỏ đi hết !
- Khỉ, rắn và chuột đều bị tôi
bắt buộc đi theo biểu diễn, chứ tự chúng không muốn. Khỉ luôn luôn nhớ rừng,
rắn muốn trở về bụi rậm và chuột mong được về hang tổ của chúng. Sau khi tôi bị
giam, chúng đều được tự do và giải thoát. Như thế càng tốt chứ sao ?
- Còn con gái của sư cụ ?
- Nó đã lập gia đình cách đây
năm năm, nghe nói đời sống cũng dễ chịu.
- Vì tôi ức hiếp mà sư cụ đi tu
?
- Điều đó chính tôi phải cảm ơn
ông ! Sư cụ vừa cười vừa nói. Tôi bây giờ cũng tự do và giải thoát như những
khỉ, rắn và chuột của tôi vậy !
- Còn nhà của sư cụ mà tôi đã
chiếm đoạt để làm chuồng trâu, chuồng ngựa ?
- Nhà cửa đều là không. Giả sử
ông trả nhà lại hay bồi thường cho tôi thì đó chỉ là lụy cho tôi.
- Vậy thì biết làm thế nào ?
Giọng Đoàn Quốc Hùng khổ sở. Một người mang nợ muốn trả cho hết nợ mà chủ nợ
lại không nhận mình là chủ nợ, lại còn phủ nhận cả nửa cuộc đời trước của mình.
Tâm sư cụ lâng lâng và thanh thoát, nhưng lòng tôi thì một cái “ nút ” trói
buộc suốt đời tôi.
- Nút gì ? Trói buộc ở chỗ nào
? Sư cụ hỏi
- Tội nghiệt là “ nút ” trói
buộc tâm tôi !
- Ông đưa cái “ nút ” và cái “
tâm ” bị trói buộc ra đây cho tôi xem để tôi cởi trói cho ông.
- Tội nghiệt và tâm đều không
phải thực chất, làm thế nào tôi có thể nắm lấy mà đưa ra được ?
- Như thế là hết trói buộc rồi
! Sư cụ Vân Không phá lên cười.
- Bạch cụ, cụ cho là hết trói
buộc, chứ tôi vẫn thấy còn bị buộc.
- Tôi cũng biết thế ! Sư cụ
nói. Xin hỏi ông ngoài việc đó ra, ông còn thắc mắc điều gì không?
- Dĩ nhiên là còn và còn nhiều
hơn nữa !
- Nếu bình sinh ông gây tội
nghiệt cho tôi và coi đó là một món “ nợ tinh thần ”, một cái “ nút ”, ông tìm
đến chủ nợ để thanh toán. Như thế là hết nợ rồi ! Giả sử ông mắc nhiều nợ tinh
thần mà chủ nợ không phải chỉ có một người, trường hợp đó thì ông tính sao ?
- Tôi sẽ lần lượt trả hết,
nhưng phải tìm đến người chủ nợ thứ nhất cho xong đã.
- Ông tìm được tôi rồi, nhưng
con người tôi đã đổi khác ! Từ Trần Phán đổi thành Vân Không, cho đến cái tâm
cũng đổi khác. Nhưng hãy cứ tưởng tượng rằng ông đi tìm mà không gặp chủ nợ thì
ông làm thế nào ? Sư cụ hỏi. Nói thí dụ : Chủ nợ đã chết ?
- Tôi tìm con cái của người ấy.
- Nếu họ không có con thì ông
tìm ai ? Thí dụ ông mang nợ một con rắn mà con rắn đó đã chết, ông biết con rắn
nào là con cái của nó để mà trả ?
Đoàn Quốc Hùng khổ sở không
biết nói sao !
- Ông nên biết ! Sư cụ nói
tiếp. Ông mang nợ oan nghiệt nhiều hay ít, xét đến ngọn nguồn thì đó đều là
việc của ông. Chủ nợ không nhất định sẽ đến đòi ông, mà cũng không cần chủ nợ
phải đến đòi, chỉ cái “ nợ ” ấy trói buộc ông thôi ! Song cái nợ đó vốn không
có thực chất, đúng như lúc nãy ông nói “ tội nghiệt ” trói buộc cái tâm của ông
không phải là một vật có thực chất, mà cái “ tâm ” bị trói buộc cũng không phải
cái cục thịt trong người ông. Ông không thể nắm bắt được ! Trong khi ông thấy
rõ như thế thì cũng như ông vừa tỉnh mộng, nợ cũng không còn là nợ nữa !
- Những lời đó cao siêu mầu nhiệm
quá, tôi không hiểu nổi ! Xin sư cụ giảng giải tường tận một chút nữa.
Sư cụ Vân Không cầm một sợi dây
buộc bó cỏ thuốc lúc nãy, thắt lại thành cái nút, rồi giơ ra trước, hỏi Quốc
Hùng :
- Đây là cái gì ?
- Cái nút
- Nút là cái gì ?
- Nút là nút chứ còn là cái gì
bây giờ ? Quốc Hùng cười.
- Ngoài sợi dây ra, còn có cái
“ nút ” tồn tại không ?
- Ngoài dây thì dĩ nhiên không
có “ nút ” tồn tại riêng biệt.
- Như vậy nút là cái gì ? Vân
Không hỏi dồn.
Đoàn Quốc Hùng chịu không đáp
được. Sau đó, Vân Không chỉ vào cái nút, nói :
- Nút là do nhiều vòng dây thắt
lại mà thành, nhưng những vòng dây không có thực thể, chỉ là giả tướng mà thôi
! Nhiều vòng dây tập hợp lại mà thành nút, lúc chưa thành thì không có nút và
khi cởi ra rồi thì nút cũng không còn. Sư cụ vừa nói vừa cởi cái nút ra.
- Hiện giờ còn nút không ?
Đoàn Quốc Hùng lắc đầu nói :
- Sư cụ nhìn sự vật như mộng
ảo. Nếu tất cả đều là giả tướng thì còn có gì gọi là nhân quả ? Sư cụ định tạm
dùng những lời huyền diệu ấy để mở rộng lòng cho kẻ tội ác này chăng ?
- Trong cái rỗng không, có gì
ngăn lại nhân quả ? Vân Không đáp. Chẳng hạn cái nút này do nhiều vòng dây thắt
lại mà thành, nhưng vòng dây không có tự tính, cho nên nút cũng không có tự
tính. Bây giờ, cởi nút ra làm cho vòng dây thẳng lại thì cái thẳng đó cũng
không có tự tính. Nói đến rốt ráo thì chính sợi dây này cũng không thật có, dây
là do các thứ cỏ bện thành. Khi cỏ chưa sinh thì không có cỏ và dĩ nhiên cũng
không có dây, lúc cỏ chưa được bện lại thì cũng không thành dây, nếu đem đốt
dây đi thì cuối cùng còn gì ? Song ông tưởng trong cái rỗng không ấy không có
nhân quả ? Nếu tôi đem sợi dây không có thực thể thắt chặt vào cổ hư giả của
ông, ông sẽ thấy đau đớn khó chịu. Nhưng sự đau đớn ấy cũng chỉ là ảo giác,
cũng như dây và cổ đều không có tự tính. Vậy cứ gì trong cái chân thật mới có
nhân quả ?
- Tuy sư cụ chỉ dạy cho như
thế, nhưng tôi vẫn không thể lĩnh hội được, biết làm thế nào ? Giọng Quốc Hùng
bi ai.
- Tôi không trông mong ông lĩnh
hội một cách triệt để. Đối với người còn trong mộng, không có cách nào làm cho
họ hiểu được cảnh giới lúc thức; trong cảnh mộng tuy giả dối không thực nhưng
không có gì ngăn trở người ta làm ác, chịu báo, sám hối hoặc làm thiện; nhưng
khi người ta tỉnh dậy thì mới biết tất cả việc làm lúc trước đều là chiêm bao;
đã thoát ly được cảnh mộng, trở về cảnh giác thì hết thảy đều rỗng rang và
thanh tịnh; lúc đó thì thiện còn chẳng làm, huống chi là ác !
Nghe đến đây, Đoàn Quốc Hùng
phủ phục xuống lạy sư cụ. Ông già đứng bên cạnh, coi bộ cũng hiểu được phần
nào. Đoàn Quốc Hùng nói với sư cụ Vân Không :
- Tôi không muốn trở về nữa,
xin cho tôi theo sư cụ xuất gia.
- Nếu trong lòng ông thật đã
giác ngộ thì hà tất cứ phải xuất gia như tôi ! Bỏ mộng, trở về giác đều có nhân
duyên. Không nên câu chấp hình thức !
Dứt lời, sư cụ Vân Không trở
vào phòng riêng. Đoàn Quốc Hùng không dám theo vào, nằm trên chiếc chiếu và
trằn trọc mãi quá nửa đêm cũng không thể ngủ được. Đến khi nghe tiếng gà gáy,
trời đã sắp sáng, Hùng mới đứng dậy đi vào phòng định bày tỏ thêm nỗi lòng mình
với sư cụ, nhưng khi tới nơi thì thấy căn phòng vắng lạnh. Vân Không hòa thượng
đã bỏ đi tự lúc nào mà không ai biết !