Đời sống của họ trôi qua
trong bình thường với cuộc sống thường nhật của những khó khăn cũng như
niềm vui có được. Thời gian đi mau và các con của họ lớn dần. Người con
gái của họ vào năm 18 tuổi, đã tốt nghiệp Trung học với bằng tốt nghiệp
có số điểm rất cao, tương lai và hy vọng tràn trề. Ghi danh vào một Đại
học tiếng tăm theo ý cha mẹ, cô con gái sẽ đi qua một học trình 5 năm,
sau đó theo dự định của mẹ, cô sẽ thực hiện ước mơ của mẹ mình, tiếp tục
học để lấy bằng cao học. Nhưng rồi một hôm bỗng dưng cô gái nỗi cơn
điên lọan! Kể từ đó, cô gái bỏ cả học hành, khóc khóc cười cười bất
thường. Gia đình của họ đi vào khúc rẽ của đời mình. Họ bước vào một
hành trình gian truân từ đó.
Thời gian nầy khổ đau
nhất là người mẹ. Bà ta là người năng động và có tham vọng rất lớn, nên
không chấp nhận những cái gì bình thường, thế nên trong tình huống nầy
bà ta nhìn đứa con gái mình mang nặng đẻ đau dứt ruột sinh ra với một
thất vọng dữ dội và một bất lực to lớn. Vì thất vọng vì sợ mất mặt với
đời nên bà đã gặp lắm nỗi gian truân từ những lăn lóc trong cơn đau nỗi
khổ liên tục đêm ngày của hành trình tư tưởng xây dựng trên vọng tưởng
của mình. Ngay cả trong giấc mơ bà ta cũng thấy mình đang sống trong sợ
hãi và niềm tuyệt vọng. Hai vợ chồng bà thấy rõ cuộc đời của họ đi vào
ngỏ cụt không lối thóat. Cuộc sống thường nhật của họ kể từ đó mất niềm
vui, chỉ còn thấy khổ đau. Hai vợ chồng và các con họ quay cuồng cuốn
hút vào vòng xóay của giận của thương và của sợ hãi. Khi cái lực vô hình
của khổ đau đang mãnh liệt chi phối, con người bỗng trở nên yếu đi, mất
hết tự chủ, hai vợ chồng họ chỉ biết rơi nước mắt, cằn nhằn, than thân
trách phận.
Khổ hay không cũng phải
tiếp tục việc làm để kiếm sống. Hai vợ chồng vẫn ngày hai buổi đi làm,
người con gái ở nhà vì đã bị đuổi học. Cô con gái sống trong thế giới
nửa tỉnh nửa mê, nhưng vẫn tự lo được những việc bình thường như ăn
uống, nói chuyện với nhau trong nhà. Người mẹ không chấp nhận con gái
mình đã thật sự điên lọan, bởi vì bà không thấy được nguyên nhân của
những cơn điên nầy, nên bà ta hy vọng đây chỉ là một cơn khủng hỏang của
tuổi mới lớn, rồi sẽ qua đi. Bệnh viện không “giam lỏng” một bệnh nhân
như thế, vì vậy cô gái vẫn ở nhà với bố mẹ. Hằng ngày trước khi đi làm
người mẹ dặn dò cô con gái đủ điều, vừa dạy con cẩn thận vừa hăm dọa để
cho con sợ mà không làm bậy. Ở nhà buồn quá, cô gái đi ra ngòai và đi
lang thang trong tình trạng khi tình khi say, ngơ ngơ ngẩn ngẩn, khóc
khóc cười cười. Không chủ động được tư tưởng và hành động của mình, cô
gái đã làm nhiều việc đáng tiếc, là đề tài cho sự vật vả và khổ đau ngày
càng lớn của người mẹ.
Mỗi buổi chiều xong việc
hai vợ chồng vội vã về nhà và người mẹ mong được gặp con gái đang bình
yên ở nhà, nhưng cô gái bỏ đi chơi nguyên ngày và thâu đêm suốt sáng, là
sự kiện trước đây cô hòan tòan bị ngăn cấm. Nhiều đêm bà mẹ không ngủ
ngồi chờ con đi chơi về với sự sợ hãi và nỗi lo âu tràn ngập lòng bà.
Đứa con gái đi suốt đêm, và tìm đến những nơi đông người như phòng nhảy
với âm nhạc kích động ồn ào để hò hét nhảy nhót cho thỏa thích. Cô uống
bia, uống rượu và dùng những lọai thuốc kích thích như Ecstasy khi đến
phòng nhảy. Ảnh hưởng của những thứ nầy tạo kết quả cho hành động thác
lọan “khát sống” không kềm chế, và cô gái đã làm những việc mà mẹ cô
trước đây đã ngăn cấm, đã dặn dò không cho làm hoặc dữ dội răn đe cô. Sự
ngăn cấm hăm dọa trước đây được tác động bởi sự bất mãn trong cô, chất
chứa ẩn tàng đầy ắp trong tiềm thức của cô gái, đến hôm nay “cựa mình
sống dậy” làm cô gái sống lọan, sống “bất cần đời” không kể đến người
khác và ngay cả bản thân mình.
Khi vừa mới lớn và bắt
đầu có nhận thức về mình và về người, cô gái đã nuôi dưỡng một nỗi uất
ức. Những gì cần dạy dỗ con, bà mẹ đã dạy qua lời cằn nhằn, và bằng sự
khống chế. Bà không đặt tình thương của mình đúng chỗ để có được sự cảm
thông, sự hiểu biết, nói lời giải thích hoặc để tôn trọng con mình bằng
việc nghe ý kiến và nhận xét của con. Sống trong sự đặt để như thế cô
gái khổ sở cố gắng kềm chế sự bất mãn trước những cằn nhằn hoặc giận dữ
của mẹ mình, đôi khi cả sự dữ tợn của người cha qua hành vi trừng phạt
không đúng dựa vào những giận dữ vô cớ của người mẹ. Trong đầu óc người
mẹ đã phát họa một lối sống cứng ngắt và cũ xưa, bắt con gái phải sống
như ý mình, không giải thích không bàn luận, và bất kể là con có đồng ý
hay không. Bà mẹ chỉ thấy được mình mà không thấy được con của bà. Ăn
ngủ, học hành, giao tiếp với bạn bè phải theo đúng ý của bà, nếu không
cô gái sẽ bị gọi là đứa con hư hỏng chỉ bỏ phí cuộc đời mình và là đứa
con đại bất hiếu.
Chữ HIẾU được bà mẹ triệt
để áp dụng trong những lần “dạy dỗ” con qua cái nhìn và lối suy nghĩ
của riêng bà. Cái thấy của bà không thông suốt được cái xã hội văn hóa
học đường trong đó không có người mẹ chỉ có bạn bè và cô gái. Bà mẹ
thiếu tinh thần bình đẳng dân chủ tôn trọng kẻ khác, đặc biệt đối với
con mình. Bà quên rằng nó là một người trẻ tuổi biết suy nghĩ và hiểu
biết.
Những quyết định của
riêng bà, đặt căn bản trên cái nhìn như thế, thường trở thành một sự ép
buộc một sự đặt để, và do đó có sự chống đối, là dịp bà mẹ cằn nhằn ngày
nầy qua ngày khác. Suốt những tháng năm bị đặt để dưới sự hà khắc của
người mẹ, cô gái nuôi dưỡng trong lòng niềm phẫn uất ngày một lớn. Nỗi
phẫn uất đó dần dần biến thành nội kết trong tâm tư cô gái và đã ăn sâu
mọc rễ. Khi nội kết đã theo năm tháng đâm rễ nằm sâu trong lòng sẽ không
thể chuyển đổi được nữa. Đến khi sức chịu đựng đã không còn, niềm phẩn
uất nổ bùng tạo lọan động trí óc của cô gái, và từ đó cô gái khóc cười,
say rồi tỉnh, tỉnh rồi say.
Nhiều năm trôi qua, cô
gái vẫn trong trạng thái điên lọan. Người mẹ vẫn khổ đau vật vả than
trời trách đất và gia đình rối bời theo từng cơn điên lọan của cô con
gái. Mỗi đầu ngày là những lời cằn nhằn và dạy dỗ của người mẹ với con
gái. Mỗi buổi chiều bên mâm cơm gia đình là những lời than thân trách
phận của bà mẹ. Khi đêm về là lúc người cha nếm mùi căng thẳng sợ hãi
của người mẹ, bởi vì bà mẹ vừa khổ đau vừa giận dữ đợi con về đã để tư
tưởng mình tự do vẽ những hình ảnh làm bà càng thêm khủng hỏang rối trí.
Lời cằn nhằn của bà vẫn đều đặn rót vào tai chồng trên giường ngủ, lào
rào suốt đêm, nên cả hai vợ chồng đã nhiều đêm mất ngủ. Ngày đi làm mệt
nhọc, đêm về không được nghỉ ngơi đầy đủ, hai vợ chồng sau nhiều năm trở
nên khá tiều tụy, sức lực mỏi mòn.
Cuối cùng họ chấp nhận
cho con gái điều trị tại bệnh viện tâm thần. Khi tình trạng gia đình vẫn
không thay đổi thì cho dù được trị liệu bằng thuốc men sau nhiều tháng
nhiều năm, vẫn không đưa cô gái trở về sự bình an của tâm hồn. Những
người quen khuyên họ tìm đến chùa để nghe kinh lễ Phật tìm thanh thản
tâm hồn và để cầu nguyện cho con gái họ hết cơn điên lọan.
Kể từ đó bà mẹ thường đến
chùa tụng kinh niệm Phật. Hằng năm đến Mùa Vu Lan, người mẹ ăn chay
suốt một tháng bầy để cầu nguyện cho con gái của mình được thóat khỏi
cảnh điên lọan, trở về đời sống bình thường như xưa. Người mẹ hy vọng
rằng với sự phù hộ của chư Phật, một ngày nào đó con gái của bà sẽ bình
thường trở lại, và cô sẽ lập gia đình với người cô thương, sinh con đẻ
cái, săn sóc giáo dục con nên người.
Mùa Vu Lan năm nay, năm
2010, bà mẹ tiếp tục cầu nguyện và ăn chay suốt Tháng Bẩy. Người con gái
của bà ta vẫn khóc khóc cười cười, vẫn lang thang trên đường phố, nhìn
người qua lại với đôi mắt ngây dại. Bây giờ cô đã được 34 tuổi.
Biết đến bao giờ cô gái
nầy sẽ thóat khỏi cảnh sống trong hư hư thực thực, khi tỉnh khi mơ. Biết
đến bao giờ người mẹ có được sự bình an trong những giây phút sống. Lời
kinh bà tụng vẫn ngân vang câu:
Nguyện trú kiết tường dạ kiết tường
Trú dạ lục thời hằng kiết tường
Nhất thiết thời trung kiết tường giả
Nguyện chư Tam Bảo ai nhiếp thọ
(Dịch ý: Xin nguyện cầu ngày và đêm sáu thời, tất cả các thời thường được an lành. Nguyện cầu Chư Phật từ bi gia hộ)
Nhiều người đã phát tâm
tu hành và sùng Đạo khi còn trẻ. Có người khi già cả mới tìm đến chùa
tụng kinh nghe Pháp. Cũng có người bôn ba bận rộn không nghĩ đến Đạo,
đến khi gặp một khúc mắc hay vấn đề tạo chấn động mãnh liệt trong tâm,
người ta mới nghĩ đến chùa và tìm về chùa để cầu chư Phật gia hộ cho khổ
đau giảm bớt và an lành đến với đời sống. Người Phật tử sùng Đạo hay
đến chùa lễ bái hương hoa cúng Phật vào Ngày Rằm và Mồng Một. Một số lớn
Phật tử thường năm chỉ đến dự hai lễ lớn là Lễ Phật Đản (Q – Vaisakha)
và Lễ Vu Lan (m – Ullambana).
Chùa là nơi thanh tịnh.
Vào đến sân chùa chúng ta thấy tượng lộ thiên của Ngài Quán Thế Âm, vị
Bồ Tát với hạnh biêt lắng nghe để hiểu để yêu thương. Trước chánh điện
chúng ta gặp Ông Thiện Ông Ác, như một cảnh tỉnh một nhắc nhở về những
hành động thiện ác ta đã làm và sẽ làm. Vào trong chánh điện điển hình
chúng ta ngắm được nụ cười vi diệu của Đức Bổn sư Thích Ca, vị Phật với
hạnh tinh tấn, dạy cho ta không biếng lười buông xuôi. Hình ảnh Phật A
Di Đà với bàn tay phóng quang, là sự diễn bày hạnh tế độ, cứu vớt để đưa
về cõi thanh tịnh giải thóat. Tam Thế Chư Phật với Đức Bổn Sư, A Di Đà
và Di Lặc là biểu tượng của Hiện tại, Quá khứ và Tương lai. Tam Thế Chư
Tôn gồm tượng Phật A Di Đà ở giữa, tượng Bồ Tát Quán Thế Âm ở bên trái,
Bồ Tát Đại Thế Chí ở bên phải là hạnh Thanh Tịnh, Từ Bi và Trí Tuệ...
Tất cả đều mang đầy đủ ý nghĩa đẹp để ta thấy được và hiểu rõ ý nghĩa
của giải thoát và ràng buộc vướng mắc. Bằng thành tâm thành ý ta biết
đưa những hình ảnh nầy vào cuộc sống của chúng ta, để đời sống chúng ta
an lạc. Đó là sự phù hộ có được từ Chư Phật Chư Bồ Tát.
Những tượng đất tượng
đồng trong chùa không có khả năng cho ta an lạc, nếu ta qùy gối van xin
ban phước lành theo nghĩa đen của sự kiện. Nếu hiểu rõ sự hiện hữu qua
hình tướng của chư Phật trong Chùa là ta đã thấy để có thế biết mà lập
tâm tu hành sửa đổi đời sống của chúng ta cho gia đình bớt nặng nề khổ
đau.
Qùy gối trước tượng Phật
trong Chùa là hành động dừng hành động. Tạm thời trong khỏanh khắc nầy
không phải bôn ba cái thân, không phải động não suy nghĩ lo lắng, mà qùy
gối yên lặng trước bàn thờ để niệm hồng danh chư Phật, đưa thân và tâm
về một mối, gọi là tạo thanh tịnh thân tâm. Hướng lên bàn thờ chấp tay
là thái độ sùng kính tri ân nên thành tâm học hỏi. Sùng kính Đức Phật
với đời sống thanh tịnh tu hành đạt đạo giải thóat, không còn bị phiền
não khuyấy động như chúng sanh ở cõi Ta bà. Từ sự sùng kính ngưỡng mộ
cho ta phút giây dừng lại và nhìn sâu vào lòng mình để tu sửa. Thấy được
cái vướng mắc của tâm mình đang nằm ở đâu mới có giải pháp để tháo gỡ
được cái khúc mắc. Đó là ý thức nằm trong cái lạy trước hình tượng chư
Phật chư Bồ Tát.
Nhiếp tâm trong chánh
niệm làm ta dẹp được cái vọng đưa ta trở về cái thực. Cũng nhờ cái thấy
mà ta hiểu được tình thương chân thật là tình thương ở đó ta thấy được
người ta thương. Nói rằng thương người mà chỉ thấy mình là tình thương
ảo giác tạo vọng động khổ đau. Người mẹ trong câu chuyện kể trên đây nếu
thấy được con mình và nếu người con thấy được mẹ mình trong những sinh
họat thường nhật của họ sẽ làm cho cả hai hiểu được nhau hơn thì lời nói
và hành động đã có mặt của sự qúy mến và tôn trọng nhau.
Khi đã thực sự biết
thương là đã có sự cảm thông, thì những bước chân ta đi trong cuộc đời
mình và cuộc đời người sẽ là bước chân an lạc. Chính những bước chân an
lạc tạo thành con đường an lạc. Chư Phật không xuất hiện như một phép lạ
dùng thần thông lập nên con đường đó cho ta đi.
Mùa Vu Lan là Mùa Báo
Hiếu. Báo hiếu Cha Mẹ không gì bằng tích cực sống.. Biết chia sẻ và yêu
thương người nghèo khó khốn khổ là báo đáp sự dạy dỗ về chữ THƯƠNG của
Mẹ. Phấn đấu với cuộc sống không buông xuôi là đáp chữ NGHĨA của Cha.
Sống mà tạo lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội là giữ được chữ
HIẾU đẹp nhất, vì tạo niềm vui cho Cha Mẹ. Xã hội có một người sống hạnh
phúc thì phẩm chất đời sống của xã hội được nâng cao thêm. Tự thân ta,
ta đã đem hãnh diện về cho Cha Mẹ.
Những ai còn mẹ phải biết
mình là người hạnh phúc và nên qúy trọng giữ gìn hạnh phúc đó. Mẹ không
ở mãi với ta, tuy lòng ta rất mong muốn. Hãy nghe lời ca khi người con
mất mẹ:
Nếu mai này Mẹ hiền có mất đi
như đóa hoa không mặt trời
như trẻ thơ không nụ cười
ngỡ đời mình không lớn khôn thêm
như bầu trời thiếu ánh sao đêm…
“Tu tức là nhìn tất cả những gì đã và đang xảy ra trong đời mình bằng con mắt quán chiếu”
UYÊN HẠNH (Thientam)