Nhân dịp mọi người dân Việt ở
quê nhà cũng như hải ngoại đang nhộn nhịp chuẩn bị đón xuân “Quí Mùi, 2003” tôi
viết lại một vài kỷ niệm đã qua của các mùa xuân hầu góp phần lưu lại tập quán
cổ truyền của quê nhà cho thế hệ trẻ Việt Nam đang sống lưu vong nơi hải ngoại
cũng như ở trong nước.
Đối với dân tộc Việt Nam, hương
vị mùa xuân được coi như là một truyền thống văn hoá của tổ tiên ta để lại từ
thời lập quốc và cứ mỗi năm lại bồi đắp thêm những ý đẹp, lời thơ cho thật
trang nghiêm long trọng với một niềm vui vô tận, để truyền bá lại cho hậu thế
noi theo.
Hàng năm dân tộc Việt Nam có một
cái TẾT gọi là TẾT Nguyên Đán, vào ngày cuối năm âm lịch, đây là những ngày lễ
long trọng nhất của nhân dân Việt Nam, kéo dài từ ngày 30 tháng chạp âm lịch đến
hết ngày 3 tháng giêng, có nơi ăn tết đến ngày 7 tháng giêng.
Tết Nguyên Đán là những ngày hội
lớn, đánh dấu sự trở lại của một chu kỳ thời gian một năm trọn. Ngôn từ về mùa
xuân và Tết hết sức phong phú, mùa xuân và Tết đồng nghĩa với thanh bình, hy vọng,
sum họp, ước mơ, tin tưởng, thương yêu, vui vẻ, trẻ trung, tĩnh tứ: Sắc xuân,
tình xuân, ý xuân, tuổi xuân....
Tết cũng có thể coi là ngày lễ
sinh nhật chung. Sinh nhật của thiên nhiên, đất nước và dân tộc. Trước đây ta
tính tuổi theo Tết chứ không theo ngày sinh chính thức. Đến Tết mỗi người thêm
một tuổi...Chữ Têt là do chữ Tiết đọc chệch ra. Ví dụ như thời tiết, tiết nhật,
tiết chế, tiết lệnh, tiết hạnh...
Tết Nguyên Đán (Nguyên là đầu,
Đán là sớm mai. Nguyên Đán có nghĩa là buổi sớm mai đầu năm). Trước đây, Tết
Nguyên Đán ở nước ta có 7 ngày. Người xưa quan niệm rằng 7 ngày Tết, trời cho đất
sẽ sinh ra mọi vật để nuôi sống con người, ngày thứ nhất, trời đất sinh ra gà,
ngày thứ hai sinh ra chó, ngày thứ ba sinh ra dê, ngày thứ tư sinh ra heo (lợn),
ngày thứ năm sinh ra trâu, ngày thứ sắu sinh ra ngựa, và ngày thứ bẩy sinh ra
lúa. Său này vì công việc bận rộn, dân ta chỉ ăn Tết có 3 ngày.
Ngày 30 mươi tết là ngày bận rộn
nhất. Mọi nhà đều dọn dẹp, sắm sửa cho chu tất trước khi đón gia tiên, ông bà về
ăn Tết. Ngày trước, chiều 30 Tết, người ta dựng cây nêu trước cửa nhà.
Cú kêu ba tiếng cú kêu,
Kêu mău đến Tết, dựng nêu ăn chè.
Trưa 30 Tết, cúng mặn rất tịnh
soạn, trên bàn thờ trang hoàng rất trang nghiêm, để đón Ong Bà, gia tiên, đây
là sự tỏ lòng biết ơn của con chắu đối với Oâng Bà, Cha Me đã khuất. Ngày 1 TẾT
tất cả mọi gia đình đều ăn chay, đi Chùa lễ phật, hái lộc cầu may, xin xăm cầu
tài, Ngày 3 cúng mặn gia tiên ở nhà, để tiễn đưa Oâng Bà, Gia Tiên nội ngoại,
trở về thế giới bên kia.
Đặc biệt đêm 30 TẾT ngày cuối
cùng của năm âm lịch, hầu hết tất cả các gia đình điều thức suốt đêm, để đón
giao thừa vào đúng 12 giờ đêm, trong nhà cúng gia tiên, ngoài sân cúng giao thừa
đón xuân, với những tiếng pháo nổ ran để mừng năm mới.
Để chuẩn bị đón xuân, từ thành
thị đến thôn quê mọi gia đình đều sửa soạn nhà cửa, sơn phết quét vôi, ngoài
sân được các chủ nhà vẽ các cung, tên bằng vôi bột trăùng xoá, mũi tên đều hướng
ra ngoài ngõ (cổng), được truyền tụng rằng đó là cung tên bắn các ma, qủi không
cho xâm nhập vào nhà, để xua đuổi những cái rủi ro, xui xẻo của năm đã qua hầu
đón nhận một mùa xuân mới với niềm hy vọng cho tương lai thật tốt đẹp.
Để chuẩn bị cho những ngày TẾT,
đón xuân mới, trẻ, già, trai gái lo sắm sửa lễ vật, sửa soạn bàn thờ gia tiên,
để rước ông bà về thờ cúng những ngày đầu xuân hầu tỏ lòng biết ơn đến các vị
sinh thành và cầu xin gia tiên nội ngoại phù hộ độ trì cho năm mới được vạn sự
an lành, hạnh phúc, làm ăn phát đạt, cho nên dân gian có truyền lại lời thơ, ý
đẹp như său:
Tết đến nhộn nhịp thành quê
Trẻ già, trai gái hướng về hân hoan
Cửa nhà đã được sửa sang
Bàn thờ bông trái trầm nhang thơm lừng
Mứt kẹo, bánh tét, bánh chưng
Cỗ bàn phẩm vật chúc mừng lẫn nhău
Mọi người khoẻ mạnh sống lâu
Bán buôn tài lộc sang giầu vẻ vang
Đầu năm ta đón xuân sang
Giao thừa cúng lễ rộn ràng niềm vui.
Ý nghĩa mùa xuân đến với nhân
dân ta thật là vô tận, ngoài Bắc thì trồng nêu, cây đào, bánh chưng, bánh nòng,
mứt kẹo ....Trong Nam cành mai, bánh tét, dưa hấu, kẹo mứt....Nhà nhà, người
người đều nhộn nhịp đón Xuân với vẻ đẹp niềm vui, hương sắc mùa xuân tỏa ngát bốn
phương trời.
Quê tôi một năm có 4 mùa: Xuân,
Hạ, Thu, Đông mỗi mùa có 3 tháng. Mùa Xuân tháng giêng, hai, ba. Tục ngữ quê
tôi có truyền rằng:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè...
Mùa Xuân là mùa đẹp nhầt, khí hậu
ôn hoà, mát mẻ. Không mưa, không nắng bầu trời trong sáng, cây trái xanh tươi,
bông hoa nở rộ để cùng tô điểm thêm hương sắc của một mùa xuân cho nên Oâng
Nguyễn Công Trứ đã tận hưởng thú vui xuân thể hiện các câu thơ lục bát như său:
Chơi xuân kẻo hết xuân đi
Xuân tàn hoa rụng còn gì vui xuân..
Cùng một ý niệm vui xuân chị em
Thuý Kiều đã đua nhău trưng diện son phấn, áo quần, xe ngựa vui xuân trẩy hội,
đã được thi hào Nlguyễn Du diễn tả như său:
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Dân tộc Việt Nam vui Xuân, đón
Xuân bằng ăn tết ở nhà, lên Chùa Lễ Phật và hái lộc cầu may đã thể hiện hai câu
thơ său:
Tháng giêng ăn tết ở nhà
Lên Chùa lễ Phật tòan gia an lành.
Mỗi độ Xuân về lúc còn thơ ấu,
sáng sớm ngày tối tết lại có dịp đi xông nhà, chúc tết, lễ gia tiên ở nhà thờ họ
và đi Chùa lễ Phật, cái vui của thời thơ ấu thật là hồn nhiên, không lo, không
nghĩ, không phiền đến ai. Nay thì tuổi đã ngoài thất thập cổ lai hy, vương vấn
trần ai nặng một lòng, nhất là những mùa Xuân trong các trại cải tạo.
Chín mùa Xuân của một cuộc đời
trong các trại giam từ Nam ra Bắc, tôi không thấy cái hương vị nào nhộn nhịp
vui xuân trong lòng tôi của lúc thiếu thời, đến nay tôi hồi tưởng lại cảm thấy
rùng mình ghê sợ. Tôi cố gắng quên đi, để nhớ lại những kỷ niệm ngày xuân của
tuổi ấu thơ, trong thời thanh bình nơi quê tôi, hầu tạo cho sự thanh thản cho
tâm hồn trong những ngày xuân dân tộc.
Tôi còn nhớ, nhớ mãi không bao
giờ quên những ngày “Trẩy Hội Mùa Xuân” có rất nhiều hội hè, đình đám.
Các nơi đua nhău tổ chức vui xuân với những trò chơi có tính chất thể dục,
thể thao và mở mang trí tuệ như Đánh đu, Cầu thùm, leo giây nhẩy bao bố, đấu vật,
múa lân, Đá cầu, Đá gà, Đua ghe, thả diều, Võ thuật, đấu cờ tướng (cờ người),.
A)-CỜ NGƯỜI:
Cờ người đây là người thật, được
tuyển chọn 16 nam và 16 nữ, tuổi từ 16 đến 20, được ăn mặc theo đúng các quân cờ,
có nhiêu mầu sắc như Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mã và Tốt. Mỗi người đều cầm một
cây cờ bàng gỗ, sơn son, thiếp vàng trông rất trang nghiêm và lịch sự. 2 người
đấu cờ là 2 ông giỏi nhất sau khi đã được tuyển chọn sơ kết, chung kết, mới được
thi đấu.
Người trọng tài là một danh thũ
đã từng đoạt giải quán quân ở các năm trước, său khi dàn quân theo vị trí trên
bàn cờ đã được vẽ (kẻ) trên sân rộng trước cửa đình làng. Trọng tài có nhiệm vụ
khởi xướng, 3 hồi chiêng trống vang dội chấm dứt, lúc đó bên nào đã bốc thăm được
đi trước bắt đầu xướng thí dụ:
Chốt 3 tấn 1, Pháo 2 bình 4, mã
1 tấn 2, xe 1 bình 1, ....Trong cờ tướng có muôn hình vạn trạng của các thế cờ,
biến hoá như rồng bay phượng múa. Său đây là một thế cờ tuyệt hảo “ ĐẠI XA MÔ
trong bách cuộc tượng kỳ gọi đây là thế cờ “Đả Mã Tháo Điền”. Nhưng trong Trúc
Hương Trai và nhiều tài liệu khác đều cho là “Đại Xa Mã” như xa 2 tấn 4, mã
3 tấn 4, xa 3 tấn 1, mã 4 tấn 5....mỗi lần hô như vậy người cầm quân cờ có nhiệm
vụ di chuyển cùng với quân cờ đến chỗ quy định theo tiếng hô của ông đấu cờ, cứ
như thế tiếp tục cho đến khi một bên bị thua.
Không bên nào được nghĩ quá 1
phút tuỳ theo giao ước. Nếu chậm quá thời gian quy định thì trống bỏi (trống
con) lại đánh bong bong bên tai thúc dục người đấu cờ, đây là môn chơi đấu trí,
tổ chức rất công phu và thu hút nhiều người xem nhất.
B)-TRẨY HỘI CHÙA HƯƠNG:
Mùa Xuân còn là mùa trẩy hội,
đi hành hương ở các nơi xa xăm như đi “Trẩy hội Chùa Hương”. Chùa Hương là một
danh lam thắng cảnh, thơ mộng tuyệt vời, sơn thuỷ hữu tình. Từ làng tôi dến
Chùa Hương Tích khoảng cách độ 80 mai, (trên 100 cây số,) có thể đi bằng đường
bộ hoặc đường thuỷ, các cụ làng tôi thường hay tổ chức đi đường thuỷ bằng những
chiếc thuyền (ghe) nho nhỏ.
Mỗi chiếc chở được 15 đến 20
ngưởi. Một đoàn thuyền khoảng 10 đến 15 cái mang theo đủ các phẩm vật với những
dàn trống, chiêng, nhạc cổ truyền và mọi người ăn mạc rất sang trọng, loè loẹt.
Đoàn thuyền với những mái chèo hai bên đua nhău chạy dọc theo sông cái từ phủ
Kinh Môn lên Chí Linh ngược lên sông Hồng Hà qua Hà Nội đến sông Hương tới Chùa
- vừa đi vừa kèn trống, hò hát vang dội khắp con sông thật là nhộn nhịp và vui
thú biết bao.
Đến Chùa Hương tất cả các du
khách từ bốn phương đổ về gặp nhău trong một trái tim. Cảnh sơn núi hữu tình,
nên thơ. Trai gái trẻ già dập dìu dắt nhău lên Chùa lễ Phật thật là “Bầu Trời Cảnh
Bụt” bao la với từng đòan thiện nam, tín nữ từ khắp nơi đổ về
hành hương chiêm bái mà nhu thơ Tản Đà, đã diễn tả:
Chùa Hương trời điểm lại trời tô
Một bức tranh tình trải mấy thu
Xuân lại Xuân đi bao dấu vết
Ai về ai nhớ vẫn thơm tho.
Phong cảnh Chùa Hương thật hữu
tình, thơ mộng nhớ đến Bến Đục, Suối Yên, với giòng nước chẩy nhẹ nhàng trên
sông, in bóng những dẫy núi chập chờn tô điểm cảnh thiên nhiên. “Trẩy Hội Chùa
Hương”, không những đến lễ Phật câu may, xin xăm cầu tài, mà còn là nơi trai
tài gái sắc có dịp gặp nhău trao đổi tâm tình, ôn lại cảnh cũ người xưa, chúc
nhău trăm tuổi bạc đầu râu, hạnh phúc trăm năm đến với nhau.
Ai ai cũng hái lộc cầu may, xin
xăm cầu tài, xem tướng, xem bói để biết thời vận hên xui, tương lai may rủi đến
với mình. Mọi người đều hân hoan với niềm hy vọng tràn đầy:
Du Xuân lễ Phât đầu năm
Lên Chùa Lễ Phật xin xăm cầu tài
Nguyện cầu Phật Tổ Như Lai
Phù hộ thân quyến trong ngoài bình an.
Và tôi cũng luôn luôn nhớ đến
quê tôi, mỗi độ xuân về:
Quê tôi có gió bốn mùa
Có trăng giữa tháng, có Chùa quanh năm
Chuông kêu, gió sớm, trăng rằm
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi
Lâu ngày tôi bỏ quê tôi
Bỏ trăng, bỏ gió, chao ôi, bỏ Chùa
Đem thân đi với giang hồ
Trên đường phẳng lặng, bến đò lênh đênh.
C)-MÚA LÂN - MÚA RỒNG:
Theo một số tư liệu có tính khảo
cứu, người ta cho rằng múa lân ra đời rất sớm, có thể nói là từ lúc mà người
nguyên thủy có tục lệ thờ cúng vật tổ. Căn cứ vào hình thù quái dị của chiếc đầu
lân thì có thểù là một hình tượng nghệ thuật được thêu dệt lên từ trí tưởng tượng
của người xưa. Đầu lân được sơn vẽ đủ các mầu: xanh, đỏ, tím, vàng, đen, ...cái
sừng nhô lên như sừng con tê giàc ở phía gáy nó. Cái mũi rất to nhô lên. Khắp
trên trán, trên má, người ta đính những chiếc gương nhỏ ...
Người mang đầu lân là một nhân
vật chính, kèm theo là người cầm đuôi, để rồi cả hai tuỳ theo nhịp trống, thanh
la mà uốn lượn, khi lồng lên, khi giương oai, khi thu mình để nghỉ,..Hàm dươi của
lân có rất nhiều râu và râu dài. Cái miệng lúc nào cũng hớp hớp theo nhịp trống
....
Đặc biệt trong múa lân có một
nhân vật rất kỳ lạ, gọi là ông Địa, mặt to, tai lớn, bụng phệ, cười rất vui, một
tay dương cao cây gậy trên có quả cầu, một tay phe phẩy chiếc quạt giấy. Có người
cho rằng ông Địa là một nhân vật biểu hiện của niềm lạc quan, yêu đời, vui vẻ.
Có người lại cho rằng ông Địa phản ảnh ước mơ û của người xưa muốn thông qua vật
tổ của mình để chinh phục thiên nhiên.
Trong dịp Tết Nguyên Đán và Tết
Trung Thu thường có tổ chức múa lân “Tùng xoèng, tùng xoèng ..”đội múa lân đi đến
đâu, phố phường, làng xóm nhộn nhịp đến đó, trẻ em, người lớn đổ ra xem, thật
là nhộn nhịp trong những ngày vui xuân.
Bây giờ ở các thành phố vào những
ngày Tết, hay Trung Thu, cả những ngày khai trương cửa hàng cũng mời các đội
múa lân đến múa, các hiệu buôn tuỳ theo khả năng mà treo giải lớn, nhỏ, có chủ
hiệu treo giải cực to để lấy tiếng và quảng cáo. Thường lân đến múa nơi nào thì
nơi đó có đốt pháo, hoặc do chính đội lân mang pháo đến đốt.
Múa Rồng là điệu múa của một số
nước phương Đông, nhưng ở Việt Nam điệu múa này có bản sắc riêng. Người Hoa ở
nước ta rất thích múa Rồng. Hình con rồng Việt Nam thân dài, uyển chuyển uốn
khúc như thân rắn, nhưng có nguồn gốc từ hình cá sâu. Việt Nam là xứ sở nông
nghiệp, trồng lúa nước lâu đời, nên rất thích rồng vì nó là biểu tượng của vị
thần làm ra nước, sấm chớp, để luá má tốt tươi, vạn vật sinh sôi, nẩy nở. Vì vậy
múa rồng rất phổ biến trong dân gian.
Hính con rồng ta thường thấy
trong các đội múa ngày nay mang dáng dấp con rồng truyền thống, là con rồng của
thời Lý, Trần (1009-1400). Thân của những con rồng này dài, mềm mại, có vây, vẩy,
dọc lưng đến đuôi có hàng gai. Hình rồng được làm bằng vải mầu vàng, vẩy, vẽõ bằng
mầu đen, mắt cũng mầu đen. Thường có 8 người đội hình rồng: Một người đội đầu,
sắu người đội thân và một người đội đuôi. Những người này múa theo nhịp trống
dân gian
D)-THẢ DIỀU:
Chơi thả diều là một thú tao
nhã,và có rất nhiều người rất thích thú, say mê và còn thi đua làm diều. Diều
người ta chế ra nhiều loại: Diều sáo, diều cánh phản, diều chuồn chuồn.....theo
sử liệu diều có từ lâu đời. Nhưng có tài liệu nói nguồn gốc chơi diều ở Trung
Quốc và một số nước Tây phương.
Ngoài Bắc có câu ca dao:
Cầm dây cho chắc,
Lúc lác cho đều,
Để bố đâm diều,
Kiếm gạo con ăn,
Còn thi sĩ Tản Đà thì không
quên được cánh diều:
Nước gợn sông Đà con cá nhẩy,
Mây trùm non Tản cái diều bay,
Con diều thật là một giống chim
thuộc bộ cắt, họ Ưng chuyên ăn thịt, Ở nước ta có khoảng 20 loài của họ Ưng. Từ
diều trắng, diều lửa, diều hâu, đến kên kên, ...Diều ta thường thấy mầu hung,
cánh đen, bụng đỏ nhạt, mắt rất tinh, chân đầy móng sắc, các con thú nhỏ như
chim, chuột, gà con, vịt con, đều là mồi ngon của diều. Diều bay lượn rất đẹp
và có tốc độ cao.
Trong dịp Hội đình làng tháng
ba năm 1998 tôi có về thăm quê và dự “Đại Hội Truyền Thống Đình Làng” trong dịp
này tôi cũng vui chơi với một số các cụ và dân làng đi thả diều đây là một dịp
tôi hồi tưởng lại cái thú vui xuân của thời kỳ thơ ấu, Nghề chơi diều có sức
lôi cuốn ghê gướm và cũng lắm công phu. Ở Pháp có liên đoàn chơi diều gồm 6 hiệp
hội với khoảng 600 thành viên.
O Nhật Bản cung co hoi choi
dieu tu bao doi ho lay do la một thu vui trang nhã và thích hợp với mọi lớp tuổi..
Trên đây tôi chỉ tưởng nhớ lại
một số trò chơi tao nhã và thú vị theo sở thích của tôi lúc còn thiếu thời sống
trong cảnh thanh bình, thịnh vượng xưa kia ở tại quê nhà, ngoài các trò chơi
trên còn nhiều môn chơi khác như: Đánh đu, leo cầu thùm, đấu vật, các cụ thì tổ
tôm, tài bàn, xóc đĩa, chắn cạ...đấu võ. Võ nghệ cũng rất quan trọng đối với
nhân dân ta. Từ ngàn xưa, dân tộc Việt Nam ta vốn có truyền thống Thượng võ. Võ
được xếp ngang hàng với Văn Chương.