Thực thi lời dạy cao quý của đức Thế tôn: “Các Tỳ kheo thường hội họp trong đoàn kết, thảo luận trong đoàn kết và giải tán trong đoàn kết”. Hội thảo toàn quốc Hoằng pháp lần thứ 2 (lần thứ nhất từ 14-18/4/2009 tại Đà Nẵng) được diễn ra trong không khí sôi nỗi bởi sự quy tụ các giảng sư từ các tỉnh thành Bắc, Trung, Nam sum họp tại vùng đồng bằng gần cuối của mảnh đất hình chữ S thân yêu.
Sự hội tụ nầy sẽ làm tăng thêm sinh khí và năng lực cho ngành Hoằng pháp của Giáo hội, đồng thời tô bồi kiến thức và kinh nghiệm cho những thành viên hoằng pháp trong sứ mạng “tác Như lai sứ, hành Như lai sự”.
Dù cách trở ngàn trùng xa xôi vạn dặm Ban Hoằng pháp Tỉnh hội Phật giáo Quảng Nam, cũng cố gắng vượt qua những trở ngại không gian, thời gian để có mặt tham dự hội thảo và cùng chia sẻ những kiến thức, kinh nghiệm cùng tâm tư nguyện vọng trong ngành Hoằng pháp chúng ta.
Hoằng pháp với đồng bào dân tộc ít người là một vấn đề lớn với nhiều khó khăn thử thách đã được đặt ra trong những năm cuối của thập niên 90 thế kỷ trước, nhằm vào nhiệm kỳ 4 và 5 của Giáo hội, đến nhiệm kỳ 6 nầy đã trở thành một trong hai kế hoạch mũi nhọn của ban Hoằng pháp TW là hoằng pháp ra nước ngoài và hoằng pháp với đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc biệt trong hội thảo Hoằng pháp toàn quốc lần nầy có nêu riêng một đề tài để thảo luận. Mặc dù chưa có được một kiến thức hay kinh nghiệm nào trong mảng hoằng pháp nầy, nhưng ban Hoằng pháp Quảng Nam chúng con cũng xin mạo muội tham gia ý kiến với suy nghĩ “cho dù một cành hoa dại bên đường cũng góp phần điểm tô cho mùa xuân thêm hương sắc”.
Về phương diện Dân tộc, thì theo truyền thuyết dân tộc ta, Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra 100 trứng nở ra 100 con, rồi chia nhau mỗi người phân nửa. Lạc Long Quân dẫn 50 con xuống biển, còn Âu Cơ dẫn 50 con lên núi. Cùng trong một bọc, cùng một cha sinh mẹ đẻ, nhưng mỗi người chọn một hoàn cảnh sống khác nhau và cũng chính vì hoàn cảnh sống đó mà những người con lên núi sự phát triển hạn chế hơn cả về số lượng và sự văn minh nên chịu tiếng dân tộc thiểu số. Nhưng dù thiểu số hay đa số thì cũng cùng một bọc mà ra. Thế nên: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Về phương diện đạo pháp, trên tính cách tuyệt đối mà nói thì đạo Phật với tinh thần từ bi, bình đẳng thì chúng sanh nào cũng có giá trị Phật tính như nhau, cho dù biên địa hạ tiện hay quốc thổ trung châu ; dù mọi rợ man di hay phong lưu cốt cách cũng đồng có giá trị bình đẳng tuyệt đối ấy: “Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Như Lai trí tuệ đức tướng”. Còn trên tính cách tương đối mà nói thì chúng sanh nào cũng có khổ đau mà có khổ đau thì đạo Phật cần phải cứu, không thể nói như một số người phát biểu rằng: “người dân tộc biết gì Phật pháp mà nói”. Quan niệm ấy thật hoàn toàn không phù hợp với tinh thần đạo Phật. Nhưng tất cả những điều nói trên đều còn mang tính kinh viện. Điều quan trọng là chúng ta làm thế nào vận dụng những nguyên lý ấy trở thành thực tiễn, nghĩa là đạo Phật hiện tại phải thực hiện sứ mạng cứu khổ độ mê như thế nào cho mỗi trường hợp, mỗi hoàn cảnh, mỗi chúng sanh.
Tứ Nhiếp pháp, Lục độ vạn hạnh, Tứ Tất đàn.v.v... là những nguyên tắc, những cẩm nang nhưng vận dụng các pháp ấy như thế nào là vấn đề thiết nghĩ chúng ta cần trao đổi cụ thể để rút ra những ứng dụng thiết thực cho từng trường hợp, từng cá thể.
Toàn quốc chúng ta theo thống kê của nhà nước có tất cả 54 dân tộc, riêng tại Quảng Nam, ngoài dân tộc Kinh là dân tộc đa số còn có 9 dân tộc thiểu số là: Cor, Xê Đăng, Cơtu, Ca dong, Mơ noong, Dh'noong, Giẻ triêng, Ve, Ta riềng, tập trung ở các huyện miền núi Nam Giang, Tây Giang, Phước Sơn, Trà My...
Đạo Phật chúng ta có mặt trên đất nước nầy trải qua 2000 năm lịch sử nhưng chỉ phát triển trong phạm vi người Kinh, còn đối với đồng bào dân tộc thiểu số hầu như sự có mặt của đạo Phật không đáng kể. Điều nầy chúng ta cần tìm hiểu tại sao?
- Do người dân tộc thiểu số không có thiện căn phước đức chăng? vì: “Phật pháp nan văn chúng Tăng nan ngộ”, nên người nào có nhiều thiện duyên phước đức mới gặp được Phật pháp.
- Do vì công tác Hoằng pháp chúng ta từ lâu chưa phát triển, chưa quan tâm, chưa thâm nhập được do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan; nội tại, ngoại tại mà trong 2000 năm qua đạo Phật không gây được ảnh hưởng nhiều ở các dân tộc thiểu số. Trong khi đó các tôn giáo phương Tây thì lại phát triển mạnh mẽ và dễ dàng. Thực tế chúng ta thấy, những nhà truyền giáo của các tôn giáo bạn họ dấn thân một cách mạnh mẽ và nhiệt tình, chủ trương của họ cũng rất cụ thể do vậy mà họ đạt được những kết quả mong muốn. Đặc biệt những tín đồ của họ cũng làm được công tác rao giảng truyền bá. Ngược lại, tín đồ Phật giáo không làm được điều đó hay nói khác là không quan tâm đến việc truyền đạo. Kể cả những Tăng sĩ của chúng ta những người đại Phật tuyên dương cũng không mấy ai phát nguyện dấn thân vào lãnh vực nầy. Đó là một thực tế đáng ưu tư.
Tại Quảng Nam chúng tôi, như đã trình bày ở trên cũng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, nhưng ngoài tâm niệm ưu tư, chúng con cũng thực sự chưa có một phương thức nào để thực hiện. Hy vọng được tiếp nhận sự hướng dẫn cụ thể của ban Hoằng pháp TW cũng như sự góp ý của thành viên hoằng pháp toàn quốc. Riêng trong tham luận nầy chúng con xin mạo muội góp một vài ý kiến thô thiển.
Muốn khai hóa một dân tộc hay một tập thể người, điều trước hết là khai hóa kiến thức cho họ. Cũng vậy, muốn hóa độ chúng sanh trong quốc độ nào cũng cần khai mở tuệ giác cho họ, mà sự khai mở tuệ giác đó chỉ thông qua con đường Hoằng pháp. Cho nên :
- Giáo hội cần lập chương trình nghiên cứu về đồng bào dân tộc thiểu số ở từng khu vực, từng nhóm tộc người để giúp cho ban Hoằng pháp các Tỉnh, Thành nào có đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện mảng hoằng pháp nầy được thuận lợi.
- Nghiên cứu biên soạn những nghi thức tụng niệm, tài liệu giáo lý phổ thông ngắn gọn, dễ hiểu phù hợp với trình độ văn hóa của họ.
- Khai thác những con người có khả năng trong những dân tộc thiểu số để đào tạo thành Hoằng pháp viên làm nhân tố, từ đó nhân rộng ra từng bộ tộc. Điều nầy chắc chắn phải có kế hoạch lâu dài và bền bĩ kiên trì mới mong đạt được kết quả.
- Khuyến khích và tạo điều kiện cho Tăng Ni và Phật tử tham gia mảng Hoằng pháp nầy. Đặc biệt phát huy vai trò hoằng pháp viên cư sĩ.
Tuy nhiên, có điều quan trọng không thể bỏ qua trong khi thực hiện công tác hoằng pháp với đồng bào dân tộc thiểu số là chúng ta phải thực thi triệt để tinh thần Tứ Nhiếp pháp và Lục độ của Bồ tát, lấy bố thí làm đầu. Vì họ là những người nghèo nàn lạc hậu, thiếu thốn vật chất do vậy mà như trong kinh Dược sư nói: “... nếu có chúng hữu tình nào bị sự đói khát hoành hành, đến nỗi vì tìm miếng ăn phải tạo các nghiệp dữ, mà hễ nghe đến danh hiệu ta rồi chuyên niệm thọ trì, thì trước hết ta dùng các món ăn uống ngon lạ ban bố cho thân họ được no đủ, rồi sau ta mới đem pháp vị nhiệm mầu kiến lập cho họ cái cảnh giới an lạc hoàn toàn. (Kinh Dược sư nguyện thứ 11)”. Cho nên với họ, chúng ta có thể nói nôm na ngắn gọn: Tiền gạo đi trước, đạo bước theo sau.
Trên đây là vài dòng thô thiển xin được tham gia cùng hội thảo.
Lời quê tiếng kệch gọi là,
Góp phần tô điểm ngôi nhà hoằng dương.
Nguyện cầu đạo pháp miên trường,
Khắp miền sông núi ngát hương Bồ đề.