Thiên chức làm mẹ như
vậy được kính trọng vì những bài học của nó về tình thương và sự hy sinh. Tuy
nhiên, thiên chức làm mẹ cũng bị phê bình bởi sự chấp thủ vào con cái, do vì
ngang qua sự chấp thủ này mà người ta nếm trải khổ đau. Bài viết này xem xét
tình thương của một người mẹ được lý tưởng hóa trong nhiều bản kinh Phật và
những bài viết khác như là một tấm gương của tình thương phổ quát, Trung đạo,
và con đường Bồ-tát. Bài viết cũng thảo luận về vai trò của thiên chức làm mẹ trong những nền văn hóa chịu ảnh hưởng
tinh thần gia trưởng cũng như văn hóa Phật giáo, đặc biệt ở Trung Hoa truyền
thống. |
Theo triết học Phật giáo, mọi người vốn có khả năng
chuyển hóa và giác ngộ. Mặc dù không có khái niệm tội lỗi, nhưng lại có khái
niệm về sám hối. Ngược lại trong văn hóa phương Tây, hầu hết mọi người được dạy
rằng họ là những người có tội từ lúc mới chào đời. Đối với phụ nữ trong xã hội
Thiên Chúa giáo, tội lỗi này đã được truyền thừa từ người mẹ đầu tiên, Eve,
người đã dám tìm kiếm tri thức. Trong tư tưởng Phật giáo, không có một sự áp
đặt chống lại phụ nữ như vậy. Tuy nhiên, những nền văn hóa chịu ảnh hưởng tư
tưởng gia trưởng của phương Đông cũng đã điều chỉnh triết học Phật giáo cho
thích hợp với tập quán của họ. Nhưng, bất chấp những cấu trúc gia trưởng, thiên
chức làm mẹ và những gì chúng ta học được từ mẹ chúng ta, tình yêu thương và sự
chăm sóc của mẹ dành cho chúng ta là những đứa con, lý tưởng Bồ-tát, là một đại
lộ đưa đi đến sự an bình.
Tình thương phổ quát
Trạng thái
thương yêu phổ quát và không điều kiện dành cho tất cả chúng sanh được gọi là
mettā, tâm từ. Mục đích của mettā là mong ước mọi người được hạnh phúc. Nó
không có điều kiện. Nhưng trước khi trải lòng thương đến với người khác, ta
phải yêu thương chính mình. Đức Phật dạy rằng nếu bạn có thể giữ được tâm yêu
thương dù trong thoáng chốc, bạn cũng có thể đạt được Niết-bàn, chân lý tối
thượng (Dharmasiri, n.d.: 43).
Phát triển một
tâm thức đầy ắp lòng từ bi giúp bạn thoát khỏi khổ đau của tự kỷ và chấp thủ.
Để hoàn thiện điều này, Đức Phật khuyến khích những đệ tử của Ngài hãy nỗ lực
phát triển một tâm thức đầy đủ từ-bi-hỷ-xả (Bodhi, 1995: 43:l). Bốn phẩm chất
này được gọi là Bốn Phạm trú (Brahma-vihāra), hay Bốn vô lượng tâm, trong đó
điều đầu tiên là tâm từ (mettā).
Tâm vô lượng
thứ hai, tâm bi (karuṇā),
là ước muốn chấm dứt khổ đau của người khác. Người mẹ lý tưởng của Phật giáo
hiện thân mẫu người hy sinh và tình thương vô ngã đối với con mình. Theo một
Phật tử và cũng là một tác gia, Sharon Salzberg (1995):
“Chính tâm
bi gỡ bỏ đi thanh chắn nặng nề, mở ra cánh cửa đưa đến tự do, [và] khiến trái
tim chật hẹp mở rộng ra khắp thế giới. Tâm bi đưa điều nặng nề xơ cứng ra khỏi
trái tim; nó trao đôi cánh cho những người đang bám chặt vào vùng đất tự ngã”
(trang đầu sách).
Chúng ta có thể
mường tượng tâm bi hiện thân như một người mẹ từ tâm mà mỗi suy nghĩ và hành
động của bà đều mang mục đích chữa trị cho đứa con bị bệnh của mình. Chính
người mẹ với lòng từ bi nói với những đứa con thơ dại của mình rằng đời sống
giống như những lớp sóng trên đại dương, chỉ là một phần của tổng thể. Mỗi cơn
sóng tràn bờ và rồi sẽ quay trở lại đại dương nơi nó xuất phát.
Lòng từ bi cũng
là sự hiểu biết và chấp nhận. Nó phá bỏ đi những thanh chắn nhị nguyên được tạo
ra bởi văn hóa gia trưởng. Lòng từ bi là mong muốn tất cả chúng sanh được thoát
khỏi khổ đau. Sự hiểu biết và chấp nhận này là mô tả tình thương không điều
kiện của một người mẹ dành cho đứa con của mình. Nếu chúng ta có thể yêu thương
nhau như một người mẹ yêu thương con mình thì chúng ta sẽ biết rõ lòng từ bi.
Vui với sự may
mắn và điều tốt lành của người khác được gọi là muditā, tán thán hay hoan hỷ,
Vô lượng tâm thứ ba. Đây là một trạng thái xả kỷ, vắng mặt hoàn toàn sự đố kỵ
hay ghen tị. Muditā là một khái niệm xa lạ đối với những xã hội phương Tây.
Muditā nhấn mạnh rằng chúng ta không xem những nguồn vui như là số lượng có
hạn. Chẳng hạn như một người mẹ luôn có đủ tình thương dành cho tất cả những
đứa con của mình, nhưng cũng có đủ niềm vui để bày tỏ đối với sự thành công của
người khác.
Tứ vô lượng tâm thứ tư là xả (upekṣā), là một trạng thái của tình thương, lòng từ bi,
và sự hoan hỷ đối với hạnh phúc và lợi ích của người khác. Xả không phải là sự
thờ ơ lãnh đạm. Là một người mẹ, xả là sự nhận thức rằng mặc dù bạn yêu thương
tất cả con cái của mình một cách bình đẳng, tính khí của chúng đòi hỏi bạn cư
xử với chúng khác nhau. Ví dụ, một đứa trẻ thường hay bị ốm thì đòi hỏi có
nhiều sự quan tâm hơn đối với sức khỏe của nó, trong khi đứa khác giỏi ở trường
thì đòi hỏi nhiều tự do hơn để tự khám phá, trong khi đứa thứ ba cần được
khuyến khích nhiều hơn để làm giảm đi sự thiếu tự tin của nó. Một người mẹ yêu
thương tất cả con mình trong khi nhận thấy rõ những nhu cầu cá nhân của chúng.
Trong những mối
quan hệ của chúng ta đối với nhau, xả là nhận thấy rằng những mối quan hệ của
chúng ta thường được xây dựng trên cảm tính: một lời khen hay ca ngợi có thể
tạo nên một người bạn, trong khi một lời nói khó chịu hay phê bình tạo nên một
kẻ thù. Xả là khả năng nhìn vượt thoát khỏi cảm tính và thiện cẩn, và nhận thấy
rằng tất cả chúng ta mong muốn chúng ta và những người thương của chúng ta có
được hạnh phúc. Mỗi khi chúng ta có được sự hiểu biết này chúng ta có thể xem
tất cả chúng sanh theo cùng cách.
Xả cũng có
nghĩa là sự cân bằng. Mục đích của Vô lượng tâm này là để cân bằng tình yêu
thương và lòng từ bi của chúng ta đối với tất cả chúng sanh, và cân bằng những
trạng thái cảm xúc chẳng hạn như hân hoan và nản chí, hoan hỷ và sầu lo. Nó đưa
đến việc buông thoát mối sầu lo và sợ hãi về đời sống, về cái chết, và tin vào
luật nhân quả, nghiệp báo.
Đối xử với tất cả chúng sanh bình đẳng là quan
trọng trong ánh sáng của niềm tin Phật giáo vào việc tái sanh. Đức Phật dạy
rằng rất khó để tìm ra một chúng sanh mà đó không phải là cha, mẹ anh chị hay
con cháu của bạn trong một kiếp sống trước nào đó (Dharmasiri, n.d.: 45).
Salzberg cho rằng ở trong vòng luân hồi vô tận, chúng ta đã từng có tất cả
những điều này: thương, ghét, sợ hãi, giết hại, làm tổn thương, cưỡng bức, cứu
giúp, phục vụ (1995: 185). Trong triết học Phật giáo, không có việc tách rời
giữa các chúng sanh, không người nào là hạ đẳng hay thượng đẳng đối với người
khác. Mỗi và mọi đời sống là tương quan và nối kết với nhau. Vị Đại sư của
triết học Phật giáo, Nagarjuna (Long Thọ), đã nói:
“Nếu chúng
ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh
này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”.
Trung đạo
Phật giáo là
con đường Trung đạo. Trước và từ thời điểm đản sanh của Đức Phật Thích Ca,
nhiều nhà tầm cầu tâm linh đã hướng đến hoặc chủ nghĩa khổ hạnh hoặc chủ nghĩa
khoái lạc như là một phương cách đạt đến giác ngộ. Sau khi đã thực hành theo cả
hai cách thức và không tìm thấy được kết quả, Đức Phật khuyên chúng ta tự khám
phá con đường rời bỏ những thái cực. Như Tỳ-kheo Narada nhấn mạnh:
“Như một
người mẹ không tạo nên sự phân biệt giữa mình và đứa con duy nhất của mình và
bảo vệ nó cho dù nguy hại bản thân, cũng như vậy người hành hương tâm linh thực
hành theo con đường Trung đạo này phát khởi lòng tư bi thì đồng nhất bản thân
với tất cả” (1988: 326).
Phật giáo dạy
rằng bằng việc thực hành con đường Trung đạo này chúng ta có thể chấm dứt khổ
đau và luân hồi sanh tử và tìm thấy được sự giác ngộ.
Con đường Trung đạo bao gồm tám nguyên tắc sống mà
được gọi là Bát Chánh đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Những tư duy về tình
thương và hiểu biết được trao cho tất cả chúng sanh là những tư duy đúng. Đức
Phật dạy chúng ta rằng tình thương và hiểu biết có khả năng chấm dứt khổ đau
của tất cả chúng sanh (Nhat Hanh, 1991:33). Hiểu rằng trong đời sống có những
khổ đau, mà nguyên nhân của khổ đau này là khát ái và tham chấp, và rằng con
đường để chấm dứt khổ đau này là con đường Trung đạo - Bát Chánh đạo, là bản chất
của trí tuệ và hiểu biết đúng đắn (Rahula, 1978: 49).
Vai trò của thiên chức làm mẹ
Trong một vài
quốc gia phần lớn theo Phật giáo như Sri Lanka, phụ nữ thường được gọi là matugama,
một từ Pāli mà nó có nghĩa là “mẹ công chúng”, hay “xã hội của những người mẹ”
(Narada, 1988: 311). Trong những nền văn hóa chịu ảnh hưởng chế độ gia trưởng
như vậy, một trong ít cách thức mà một phụ nữ có thể có được một vị trí cao quý
là thiên chức làm mẹ. Trong suốt thời đại của Đức Phật Thích Ca, người ta mong
muốn rằng một phụ nữ có thể sinh nở và làm mẹ, mười đứa con là con số lý tưởng
(Murcott, 1991: 75). Thiên chức làm mẹ được xem như là “một chiếc thang tiện
ích đi lên cõi trời”. Bằng việc làm tròn thiên chức làm mẹ, một phụ nữ được tái
sanh về những cảnh giới cao (Narada, 1988: 311).
Tuy nhiên, một
phụ nữ có thể có được sự tôn kính cao qua việc trở thành một người mẹ. Trong
cuốn The First Buddhist Women: Translations and Commentaries on the
Therigatha Susan, Murcott trích dẫn Brahman Vaisista khi khẳng định:
“Người thầy
cao quý hơn vị trợ giáo mười lần, người cha cao quý hơn người thầy 100 lần, và
người mẹ cao quý hơn người cha 1.000 lần” (1991: 77).
Lama Tsering
Everest dạy rằng trong truyền thống Đại thừa, không có hành động nào cao quý và
đáng kính hơn việc gánh chịu đau đớn để cho một chúng sanh khác được sanh làm
người và có cơ may đạt được giác ngộ (Mandell, 1995: 57).
Một người mẹ như vậy là hiện thân của trí tuệ, lòng
tự trọng, sức mạnh, niềm tự hào, lòng từ bi, danh dự, quan tâm, lắng nghe, tử
tế, hợp lý, tha thứ và thương yêu. Tình thương của người mẹ lý tưởng có thể xem
như một hình mẫu dành cho tất cả mọi tình thương:
“Nếu chúng ta suy ngẫm về lòng thương yêu của mẹ
chúng ta đối với chúng ta, lòng yêu thương của chúng ta dành cho mẹ sẽ tăng
trưởng. Trước khi chúng ta chào đời, chúng ta được bảo bọc và được nâng niu ôm
ấp trong bào thai mẹ… Sự hiện diện của chúng ta ở đó không chỉ là một gánh nặng
vật lý to lớn đối với mẹ, mà cũng là một trách nhiệm tước đi sự tự do trong
hành động của mẹ… Vào lúc sinh, chúng ta gây nên đau đớn cho mẹ, tuy thế mẹ
quên đi điều này vào lúc ấy và vui mừng như thể bà tìm thấy một viên ngọc quý.
Chúng ta không kiểm soát được những chức năng vật lý của chúng ta, tuy thế mẹ
không cảm thấy khiếp sợ đối với việc nôn mửa hay đại tiện của chúng ta và chăm
sóc chúng ta một cách từ ái… Không có sự chăm sóc thường xuyên của mẹ chúng ta
sẽ không thể hiện hữu lúc này”
(Murcott, 1991: 77).
Tình thương của
một người mẹ là phẩm hạnh, nhưng không phải người phụ nữ nào cũng có thể sinh
ra một vị Phật. Bà phải là một người mẹ hiền thiện. Một người mẹ sinh ra một vị
Phật là “đặc biệt trong mọi cách” (Paul, 1985: 63). Trong việc chuẩn bị cho
việc hạ sinh Đức Phật Thích Ca, Hoàng hậu Maya, mẹ của Ngài, nguyện với Vua
Suddhodana là chồng của bà rằng, bà sẽ không làm hại bất kỳ sinh vật sống nào
cũng không trộm cắp, sử dụng các chất gây nghiện, nói lời phù phiếm, phỉ báng,
nói dối, ghen tị, cũng không có cái nhìn sai quấy. Sự thật, bà sống một đời
thanh bạch, “thân tình với tất cả”, và “thực hành 11 phẩm hạnh đạo đức” (Paul,
1985: 63). Hoàng hậu Maya qua đời sau khi hạ sanh thái tử một vài ngày và sanh
về cõi trời Tusita.
Kinh Báo ân
cha mẹ liệt kê ra mười ân hay sự hy sinh mà người mẹ dành cho con của mình:
Thứ nhất là bảo
bọc và chăm sóc thai nhi.
Thứ hai là sinh
sản khổ sở.
Thứ ba là quên hết mọi đau đớn sau khi sinh con.
Thứ tư là ăn đắng nuốt cay và dành ngon ngọt cho
con.
Thứ năm là dành
cho con chỗ khô ráo còn mình nằm chỗ ướt.
Thứ sáu là cho bú mớm và nuôi nấng.
Thứ bảy là tắm
rửa, giặt giũ cho con.
Thứ tám là luôn
thương nhớ con khi con đi xa.
Thứ chín là săn sóc và hy sinh vì con (vì con mà có
thể phạm phải điều ác).
Thứ mười là
thương yêu con suốt đời.
Diana Paul phê
bình hình ảnh người phụ nữ trong Phật giáo Đại thừa, biện luận rằng “thiên chức
làm mẹ biểu trưng cho sự khổ, đau đớn, trói buộc và lệ thuộc” (1985: 61). Đối
với Paul, trong Phật giáo Đại thừa, “Thiên chức làm mẹ rơi vào lĩnh vực trần
tục, không phải thiêng liêng”, và mục đích là giải thoát khỏi khổ đau và những
xiềng xích khác của chức năng làm mẹ (61). Vì vậy, Paul khẳng định, “Người mẹ
không thể thoát khỏi khổ đau hay thoát khỏi những trói buộc của đời sống bởi vì
sự trói buộc của bà đối với con cái” (66). Thêm nữa, như được nhìn thấy trong
kinh Báo ân cha mẹ, một phụ nữ có thể bị trói buộc và giới hạn sâu sắc
bởi vai trò người mẹ và mối liên hệ của bà đối với con cái (Paul, 1985: 65).
Thiên chức làm mẹ
trong Phật giáo Trung Hoa truyền thống
Khi Phật giáo
được truyền bá và thịnh hành ở những quốc gia khác, nó bị biến đổi bởi những
ngữ cảnh văn hóa khác nhau mà ở đó nó hiện diện. Trung Hoa đáp ứng như một ví
dụ chính xác bởi vì triết học Khổng giáo tồn tại trước đó và việc nhấn mạnh vào
việc hiếu kính cha mẹ. Tác gia và cũng là sử gia về các tôn giáo Á châu, Alan
Cole (1998) ghi nhận rằng ở Trung Hoa truyền thống, hiểu kính được biểu thị qua
mối quan hệ cha con(2). Phật giáo ở Trung Hoa thì đặc biệt nhấn mạnh
vào mối liên hệ giữa mẹ và con, mà sự hy sinh của một người mẹ cho con là một
món nợ cần phải báo đáp. Việc báo ân này bao gồm việc dâng cúng cho những chùa
viện địa phương vì những phục vụ thường xuyên và việc tụng đọc kinh kệ, một
việc thực hành tạo nên phước đức và giúp hóa giải tội lỗi (Cole, 1998:3)... Lời
cẩn báo là nếu con cái bỏ rơi cha mẹ, họ sẽ nhận lấy số phận không may (Cole,
1998: 207).
Ở Phật giáo Trung Hoa truyền thống người ta nghĩ
rằng phụ nữ về bản chất là nhiễm ô trong khi đàn ông thì ít ô nhiễm hơn. Bất kỳ
điều thiện lành nào mà một phụ nữ có được đều đến từ việc nuôi dạy con cái
(Cole, 1998: 10). Do đó, người vợ của con trai được xem như là một mối đe dọa
cho lòng hiếu kính của người con trai khi cô có thể khiến cho chàng ta lơ là
bổn phận và lấy tình yêu của chồng làm của riêng mình (Cole, 1998: 76). Trong
kinh Báo ân cha mẹ, “tình mẹ” được công nhận là an toàn và nâng đỡ gia
đình (Cole, 1998: 132), trong khi người con dâu có thể gây nên những phiền
toái.
Thanh tịnh và ô
nhiễm cũng được thể hiện nơi thân hình của người mẹ. Phần trên của người mẹ, mà
nó bao gồm mặt và ngực, được xem là tốt, khi chúng là những nguồn nuôi dưỡng.
Phần dưới của bà, vì khả năng sinh sản và máu huyết, được xem là chất ghê tởm ở
trong vũ trụ (Cole, 1998: 230)…
Tuy nhiên,
người mẹ cũng được biết đến như là “từ mẫu” (Cole, 1998: 29) và, do đó, không
có tình thương nào mãnh liệt hơn một người mẹ dành cho con mình (Cole, 1998:
139). Trong kinh Báo ân cha mẹ, người con được khuyên quay trở về với
tình thương này (Cole, 1998: 149)…
Trong khi trong
những truyền thống Phật giáo khác người mẹ được đề cao vì những đặc điểm như
trí tuệ, lòng từ bi, thì ở Trung Hoa, với ngoại lệ khái niệm Quan Âm, người nữ
không có sự phát triển tâm linh cao (Cole, 1998: 227). Tuy nhiên, một người con
được khuyên nên theo những chỉ dẫn của một người mẹ để có được sự bảo hộ của
thần linh và có được số phận tốt (Cole, 1998: 269, n. 37)…
Con đường Bồ-tát
Một vị Bồ-tát
mong muốn làm lợi ích và hạnh phúc cho cõi đời. Cùng cách với một người mẹ yêu
thương đứa con duy nhất của mình, một vị Bồ-tát thương yêu tất cả chúng sanh.
Bồ-tát biết khổ đau mà đời sống sẽ gặp phải: đau đớn ưu sầu khi mất những người
thương yêu, sự tàn phá của tuổi già, tật bệnh và cái chết…
Cho dù nam hay
nữ, một vị Bồ-tát trở về nắm lấy vị trí của mình trên chiếc thang cuộc đời và
trợ giúp những người mà mình có thể giúp đỡ. Phải có sự can đảm lớn lao để thực
hiện thệ nguyện của Bồ-tát. “Tôi nguyện giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng
sanh, và tôi nguyện không vào Niết-bàn vô dư y mãi cho đến khi tôi cứu giúp
chúng sanh cuối cùng đạt được Niết-bàn” (Dharmasiri, n.d.: 92).
Trong kinh Kalama,
Đức Phật khuyên rằng người ta không nên theo Ngài ở nơi lời nói mà nên làm mọi
nỗ lực để hoàn thiện bản thân. Đây là nguyên tắc hướng dẫn của Bồ-tát. Hoàn
thiện chính mình là để nói rằng Đức Phật nhắc nhở về mối quan hệ và tương tác
của chúng ta với tất cả đời sống. Con đường này bao gồm ba giai đoạn chính:
những thực hành tín ngưỡng ban đầu; phát khởi tư tưởng giác ngộ; và thực hành
các Ba-la-mật (Dharmasiri, n.d.: 89). Điều quan trọng nhất trong những
Ba-la-mật này là trí tuệ Bát-nhã (Prajnaparamita), là “Mẹ của tất cả chư Phật”.
Các Ba-la-mật là năng lượng của Mẹ Trí tuệ Bát-nhã hiển lộ một cách tự nhiên
qua người thực hành chân thành (Boucher, 1997: 61).
Kinh Đại
Bát-nhã được xem là một bản kinh nền tảng của Phật giáo Đại thừa và là lần
chuyển Pháp luân thứ hai. Bản kinh tán dương trí tuệ viên mãn, Prajnaparamita
(Boucher, 1997: 64). “Mẹ của tất cả chư
Phật” sinh ra chư Phật và chư Bồ-tát thông qua trí tuệ của mình. Học giả Phật
giáo, Joanna Macy (1991), gọi người mẹ này là “Mẹ của chư Như Lai”, “Mẹ của chư
Bồ-tát”, “những chỉ dẫn của chư Như Lai ở thế gian này” (109). Như vậy, trí tuệ
được ca ngợi như hình ảnh của người mẹ…
Trí tuệ Bát-nhã
bằng tình thương khai mở cho chúng ta thấy cuộc đời như nó thật sự là, không
bằng sự áp đặt, ghì chặt chúng ta trong lòng mẹ, mà thông qua trí tuệ và cái
nhìn thấu rõ của mẹ (Macy, 1991: 111). Đức Phật dạy rằng tất cả chúng sanh chịu
khổ và do đó cần đến lòng từ bi của chúng ta. Bồ-tát vượt thoát khỏi nỗi khổ
đau khủng khiếp này để giải thoát chúng ta như những người mẹ. Như những người
mẹ, Bồ-tát thương yêu chúng ta như con của họ, đặc biệt là một đứa bé sơ sinh.
Với lòng từ bi và tình thương tự nhiên, không yêu cầu thứ gì đền đáp, Bồ-tát hy
sinh cuộc đời của họ để giải thoát khổ đau con người. Tình thương này là trọng
tâm của lòng từ bi…
Kết luận
Như Walpola Rahula, một Tăng
sĩ và cũng là sử gia nhận xét, “Tình thương của một người mẹ dành cho con của
mình thì không kể là Phật tử hay con chiên: nó là tình thương người mẹ” (1978:
6). Tình thương người mẹ không chỉ riêng của Phật giáo. Hình ảnh của một người
mẹ cho con bú là một trong những hình ảnh có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất của
tình thương con người (Davidson and Harrington, 2002: 71). An bình thật sự nằm
bên trong mỗi chúng ta, cho dù ta là người Phật giáo, người Thiên Chúa giáo,
Hồi giáo, Do Thái giáo hay bất kỳ sự thực hành tâm linh hay tôn giáo nào khác
trên thế giới, và nó có thể được tìm thấy bằng sự tái nối kết với sức mạnh của
tình thương của mẹ chúng ta, không phải là chức năng làm mẹ bị đọa đày của chế
độ gia trưởng mà là sự yêu thương thoát khỏi tội lỗi đã chăm sóc chúng ta khi
ta là những đứa trẻ. Chia sẻ tình yêu thương này với cuộc đời như một người mẹ
chia sẻ tình thương với con cái của mình là một đại lộ đưa đến hòa bình và có
thể là món quà lớn nhất của ta dành cho người khác.
Nguồn: Journal of the Association for Research on
Mothering, Volume 7, Number 1, tr. 68-77.
Tài liệu trích dẫn
Bodhi, Bhikku. (Trans). 1995. The Middle Length
Discourses of the Buddha: A New
Translation of the Majj.hima Nikaya. Orig. trans. Bhikku Nanamoli. Boston: Wisdom
Publications.
Boucher, Sandy.
1997. Opening the Lotus: A Woman’s Guide to Buddhism. Boston: Beacon Press.
Cole, Alan. 1998. Mothers and Sons in Chinese
Buddhism. Stanford: Stanford
University Press.
Davidson, Richard
J. and Anne Harrington. 2002. Visions of Compassion: Western Scientists and
Tibetan Buddhists Examine Human Nature. New York:
Oxford University Press.
Dharmasiri, Gunapala. n.d. Fundamentals of
Buddhist Ethics. USA:
Golden Leaves.
Harderwijk, Rudy. “The Four Immeasurables.” Online:
www.vajaguru.com/ fourimmeasurables.htm.
Hixon, Lex. 1993. Mother of the Buddhas:
Meditation on the Prajnaparamita Sutra. Wheaton: Quest Books.
Macy, Joanna.
1991. World as Lower, World as Self: Berkeley: Parallax Press.
Mandell, J. 1995.
“Buddhism and Mothering.” in K. L. Tsomo, ed. Buddhism Through
American Women’s Eyes. Ithaca, NY:
Snow Lion Publications.
Murcott, Susan. 1991. The First Buddhist Women:
Translations and Commentaries on the Therigatha. Berkeley: Parallax Press.
Nagarjuna. n.d. “A Mother’s Love.” Quotation on
Internet Address:
pub88.ezboard.com/~ediacademyfrm34.showMessage?topicID=31.topic.
Narada. 1988. The Buddha and His Teachings. Kuala Lumpur:
Buddhist Missionary Society.
Nhat Hanh, Thich.
1991. Walking in the Footsteps of the Buddha: Old Path, White Clouds. Berkeley: Parallax Press.
Nicholson, Upasika Terri (Trans.). n.d. “The Buddha
Speaks the Sutra about the Deep Kindness of Parents and the Difficulty in
Repaying It.” Chinese Trans. Master Kumarajiva. Internet Address:
web.singnet.com.sg/ -alankhoo/Parents.htm.
Paul, Diana Y.
1985. Women in Buddhism: Images of the Feminine in the Mahayana Tradition.
London: University of California
Press.
Rahula, Walpola. 1978. What the Buddha Taught. Taiwan: The
Corporate Body of the Buddha Educational Foundation.
Salzberg, Sharon.
1997. A Heart as Wide as the World: Living with Mindfuulness, Wisdom, and
Compassion. Boston:
Shambhala Publications.
Salzberg, Sharon. 1995. Loving-kindness: The
Revolutionary y Art of Happiness. Boston:
Shambhala Publications.
Karen Villanueva- Nguyên Hiệp dịch