Niềm vui chưa trọn vẹn
Chúng ta có bài tập:
Thở vào tôi biết tôi đang còn sống
Thở ra tôi mỉm cười với sự sống trong tôi và chung quanh tôi
Bài thực tập này giúp chúng ta có mặt thật sự và tiếp xúc được với sự
sống. Theo nguyên tắc, khi thở vào, đem thân trở về với thân, tiếp xúc
được với sự thật là ta đang còn sống và sự sống đang có mặt trong ta và
chung quanh ta thì sự thực tập chế tác được niềm vui, niềm vui được biết
là ta đang còn sống. Ta có tuệ giác là mình phải sống như thế nào cho
xứng đáng, để không làm uổng phí sự sống mà mình đã được ban tặng. Thở vào tôi biết là tôi đang còn sống, ta có niềm vui do ý thức tạo ra.
Nhưng niềm vui nhờ ý thức được rằng mình đang còn sống có hàm chứa sự
lo lắng mà mình không muốn đối diện. Mình lo lắng một ngày nào đó mình
sẽ phải chết tại vì có sống thì phải có chết. Niềm vui đó có thể không
trọn vẹn, mình trận quí sự sống, mình trân quí giây phút hiện tại nhưng
phía sau vẫn còn một sự lo lắng nào đó: Ngày mai mình sẽ nằm xuống và
thân xác của mình sẽ cứng đơ. Mình không còn thở, không còn cảm xúc,
không còn cảm giác nữa, mình không còn suy tư và không còn có mặt trong
cuộc đời.
Tuy niềm vui chế tác bởi ý niệm “mình đang còn sống”có mặt thật sự,
nhưng phía sau còn lãng vãng một nỗi sợ, một nỗi buồn. Niềm vui đó không
được trọn vẹn tại vì mình biết rất rõ đã có sự sống thì thế nào cũng có
cái chết, không chết ngay bây giờ nhưng sẽ chết một ngày nào đó. Vì vậy
trong đạo Bụt chúng ta có những phép thực tập quán chiếu về cái chết.
Đức Thế Tôn nói quán chiếu về cái chết đem lại rất nhiều lợi lạc. Chúng
ta sợ cái chết, chúng ta không cảm thấy thoải mái khi nghĩ tới cái chết
và ta có khuynh hướng đẩy ý niệm chết ra. Ta không dám đối diện với cái
chết, nhưng trong tiềm thức ta biết thế nào ta cũng phải đối diện với
nó. Chúng ta có nhiều bài tập quán chiếu về cái chết mà bài tập thông
thường nhất là:
Tôi thế nào cũng phải chết. Tôi không thể nào tránh khỏi cái chết.
Trong chiều sâu tâm thức của chúng ta có hạt giống sợ chết. Nhưng
thay vì trốn chạy hay khỏa lấp nó thì ta đưa nó lên và nhìn thẳng vào
nó. Ta đối diện với nỗi sợ của mình, nỗi sợ khi chết phải đi vào hư vô,
phải từ lĩnh vực của hữu thể đi vào lĩnh vực của vô thể. Mỗi người trong
chúng ta đều có hạt giống của sự sợ hãi đó nên bài tập dạy chúng ta:
thay vì chạy trốn nó thì ta nâng nó lên cao và nhìn thẳng vào mặt nó.
Trụ Vũ có viết một bài thơ:
Tôi đi giữa sa mạc hiu quạnh
Một con gấu bỗng đến vồ tôi
Nhưng tôi nhìn thẳng vào mặt nó
Để mặc cho nó xé nát cho rồi
Nhưng bài thơ của Trụ Vũ có vẻ bi thảm. Đáng lý ra mình phải xé nát
con gấu thay vì để con gấu xé nát mình. Cái chết chỉ là một ý niệm, con
gấu đó là một con gấu giấy mà không phải là con gấu thật.
Bài thực tập này Bụt đưa ra cho các thầy gồm có năm phần:
1.Thế nào tôi cũng phải già, tôi không thể nào tránh thoát cái già.
Ta đem cái sợ già lên nhìn và mỉm cười với nó. Người tu phải có can
đảm đối trị cái sợ của mình, nếu không nó sẽ âm thầm tàn phá mình, tại
vì tiềm thức mình hoạt động ngày đêm và nó chi phối cách suy tư, cách
nói năng, cách hành động của mình mỗi ngày.
Phương pháp của đạo Bụt là không trốn chạy mà phải đem cái sợ lên mà
nhìn cho kỹ, trước hết là nhìn cái già của mình: mình thế nào cũng phải
già, mình còng lưng xuống chống gậy và đi những bước run rẩy.
2.Tôi thế nào cũng phải bệnh, tôi không thể nào thoát khỏi bệnh.
Trước khi chết thế nào mình cũng phải bệnh, không bệnh này thì bệnh
khác. Mình rất sợ giờ phút mình nằm trên giường bệnh, bác sĩ chăm sóc
cho mình bớt đau nhức. Khi mình trực tiếp nhìn vào mặt của cái bệnh thì
nó sẽ không ở bên dưới thầm thầm chi phối mình nữa.
3.Tôi thế nào cũng phải chết, tôi không thế bào tránh khỏi cái chết.
4.Những gì tôi trân quí hôm nay như địa vị, bằng cấp, danh vọng,
tài sản, những người thương thì đến giờ phút đó tôi đều phải buông bỏ,
tôi không đem theo được gì hết.
Mình phải thấy được sự thật đó. Có những người chết rất khó tại vì họ
không buông bỏ được. Chúng ta học quán chiếu để buông bỏ ngay từ bây
giờ.
5.Cái mà tôi đem theo là tất cả hành động của tôi. Những gì, tôi
nghĩ, những gì tôi nói, những gì tôi làm sẽ không mất đi, tôi sẽ đem
chúng theo và hoàn toàn chịu trách nhiệm về chúng nó.
Những tư duy của tôi, những lời nói, những hành động của tôi (hoặc
lành hoặc dữ) đều mang chữ ký của tôi. Tôi không thể nào chối là tôi đã
không nghĩ, không nói, không làm như vậy. Đó là những nghiệp mà tôi đã
tạo ra trong đời này và nó sẽ đi theo tôi.
Đức Thế Tôn đã dạy các thầy, các sư cô quán chiếu như vậy với mục
đích là cho chúng ta cơ hội đưa cái sợ lên, nhìn thẳng vào mặt nó để làm
cho nó yếu bớt đi, không cho nó âm thầm chi phối những tư tưởng, những
ngôn ngữ hay những hành động của mình trong đời sống hằng ngày. Chúng ta
nên có một bài tập nữa để bổ túc cho bài tập”Thở vào tôi biết đang còn
sống, thở ra tôi ăn mừng sự sống”.
Thở vào, tôi biết ngày nào đó tôi sẽ chết và tôi sẽ không đem theo được gì ngoài hành động (karma) của tôi mà thôi.
Bài tập thứ hai này không dễ chịu bằng bài tập thứ nhất nhưng nếu
mình biết thực tập thì bài tập thứ nhất sẽ đem lại cho mình hạnh phúc
nhiều hơn. Đức Thế Tôn có nói: nếu chúng ta quán chiếu được về cái chết
thì công đức sẽ vô lượng. Theo tiêu chuẩn ngoài đời, một người đang còn
trẻ mà quán chiếu về cái chết thì không lành mạnh (morbide). Nhưng sự
thật thì ngược lại, nếu quán chiếu và thấy được bản chất của cái chết
thì ta sẽ trân quí sự sống và ta sẽ sống sâu sắc và hạnh phúc hơn nhiều.
Đức Khổng Tử nói: Mình chưa biết xử lý sự sống thì làm sao mà xử lý
được cái chết? (Vị năng sự sinh, yên năng sự tử?). Nhưng nếu mình quán
chiếu và có được một cái thấy chính xác về cái chết thì lúc đó mình sống
mới thật là sống, tại vì cái sống và cái chết nương vào nhau mà có.
Quán chiếu về không sinh không diệt
Đứng về phương diện tích môn thì có sống và chết, có sinh và diệt;
nhưng đứng về phương diện bản môn thì không có sinh, không có diệt. Quán
chiếu về chết và sống rồi, mình có thể đi tới bước thứ hai là quán
chiếu về không sinh không diệt.
Khoa học hiện đại đang vật lộn với quan niệm sống-chết, có-không và
khoa học đã khám phá ra nhiều điều tương đương với tuệ giác của đạo Bụt.
Lavoisier đã nói: Không có gì sinh cũng không có gì diệt (Rien ne se crée, rien ne se perd). Khoa
học đã nêu ra luật bảo tồn năng lượng và luật bảo tồn vật chất (la loi
de la conservation, de l’énergie, la loi de la conservation de la
matière). Các nhà khoa học nhìn vào vật chất, nhìn vào năng lượng và
thấy rằng: bản chất của vật chất cũng như của năng lượng là không sinh
và không diệt. Chúng ta không thể nào làm ra vật chất mới, làm cho vật
chất từ có mà trở thành không. Chúng ta cũng không thể nào tạo ra năng
lượng mới hay làm cho năng lượng từ có mà trở thành không. Đó lá cái
thấy của những nhà khoa học. Lavoisier nói: Không có gì sinh, không có gì diệt, tất cả đều chuyển biến (Rien ne se crée, rien ne se perd, tout se transforme). Tất
cả đều biến đổi, mà biến đổi khác với sinh diệt. Sinh là từ không mà
trở thành có, diệt là từ có mà trở thành không, còn chuyển biến là thay
đổi mà thôi. Vì vậy cái thấy của Lavoisier rất sâu sắc, ông đã khám phá
ra sự thật là các pháp không sinh cũng không diệt, các pháp là vô thường
chuyển biến. Nhưng không biết Lavoisier có áp dụng được cái thấy đó vào
trong đời sống của ông hay không? Năm 51 hay 52 tuổi thì ông bị lên máy
chém. Vợ của Lavoisier rất dễ thương, ông đã cưới cô lúc cô chưa được
14 tuổi. Cô rất xinh đẹp và yêu chồng, cô nguyện học tiếng Anh để dịch
những tác phẩm khoa học của các nước cho chồng tham khảo và cô cũng trở
thành một nhà khoa học. Nhưng sau cuộc cách mạng Pháp thì Lavoisier và
ông bố vợ đều bị lên máy chém. Tôi đặt câu hỏi là khi lên máy chém
Lavoisier có áp dụng được cái thấy bất sinh bất diệt hay không? Chính
Lavoisier đã nói rằng không có gì sinh cũng không có gì diệt và nếu quả
thật Lavoisier có cái thấy đó như một tuệ giác sống mà không phải là lý
thuyết thì khi lên máy chém ông có thể mỉm cười được. Cái thấy của
Lavoisier và cả Lavoisier vẫn còn tiếp tục cho tới bây giờ, Lavoisier
đang có mặt trong thiền đường này ngày hôm nay, Lavoisier không chết
được. Cũng như đám mây trên trời, đám mây không chết khi trở thành mưa,
nó chỉ tiếp tục dưới hình thức của cơn mưa. Những khám phá của khoa học
không những chỉ được áp dụng vào lĩnh vực kỹ thuật mà còn phải được áp
dụng vào đời sống tâm linh và đời sống tình cảm của con người. Vì vậy
nhà khoa học phải nắm tay với nhà Phật học tại vì hai bên khám phá ra
những điều tương đương với nhau rất hay.
Không có cũng không không
Nếu đã không có sinh, không có diệt thì cũng không có có, không có
không tại vì sinh là từ không mà trở thành có và diệt là từ có mà trở
thành không. Đã đạt tới không sinh không diệt, nhưng khoa học không chấp
nhận được là đã không sinh không diệt thì cũng không có không không.
Nhiều nhà khoa học vẫn còn kẹt vài ý niệm có và không. Theo nguyên tắc
thì nếu đã chấp nhận sự thật là không sinh cũng không diệt thì cũng phải
chấp nhận luôn sự thật là không có cũng không không. Chúng ta không thể
nói rằng vũ trụ bây giờ đang có và mai mốt nó sẽ trở thành không, hay
là vũ trụ bây giờ đang có nhưng trước khi có nó đã là không. Nếu chấp
nhận sự thật đó khoa học sẽ không đi tìm giây phút đầu tiên, giây phút
mà vũ trụ từ không trở thành có gọi là Big Bang, và một khi đã có Bia
Bang thì khoa học phải tưởng tượng ra ngày nào đó vũ trụ sẽ bị tiêu diệt
gọi là Big Crunch.
Là nhà Phật học mình phải nói với nhà khoa học: Nếu đã chấp nhận
không sinh không diệt rồi thì phải tiến tới một bước nữa là chấp nhận
không có cũng không không, phải thoát ra ý niệm being và non-being. Đối
với nhà thần học cũng vậy, nếu đã làm việc với nhà Phật học và nhà khoa
học thì nhà thần học cũng phải chấp nhận điều đó. Định nghĩa Thượng đế
là nền tảng của hữu thể (the ground of being) là còn kẹt vào ý niệm có
và không. Nếu Thượng đế là nền tảng của cái có thì ai là nền tảng của
cái không? Thượng đế phải thoát ra ý niệm có và không, cho nên đặt vấn
đề Thượng đế có hay không có là vô nghĩa. Chúng ta không thể gán cho
Thượng đế ý niệm có và không hay sinh và diệt, tại vì ta không thể gán
niệm có và không hay sinh và diệt cho một đám mây hay một năng lượng thì
làm sao mà ta có thể gán nó cho Thượng đế? Ta đừng cho rằng Thượng đế
đứng về phe hữu thể và Satan đứng về phe vô thể, tại vì nếu như vậy thì
Thượng không phải là tất cả, Thượng đế có kẻ thù là Satan cũng như hữu
thể là kẻ thù của vô thể. Hữu và vô là hai ý niệm cũng như hai ý niệm
sinh và diệt.
Sống và chết tương tức
Chúng ta thử vạch một đường tượng trưng cho thời gian từ quá khứ đi tới hiện tại, và tương lai.
Mình ngồi ở điểm hiện tại và nói:
Thở vào tôi biết là tôi đang còn sống
Điều đó có nghĩa là tôi bắt đầu sống ở điểm sinh ra và sẽ tiếp tục
sống cho đến điểm chết đi. Khi nói như vậy thì phía sau mình có một niềm
đau, một sự lo lắng cho nên niềm vui không được trọn vẹn. Vì vậy ngồi ở
giây phút hiện tại chúng ta làm thêm một bài tập:
Thở vào tôi biết tới lúc nào đó tôi cũng phải chết
Tôi từ vô thể mà đi vào hữu thể, rồi tới điểm chết tức là tôi sẽ từ
hữu thể mà đi vào vô thể, đó là cái thấy của chúng ta. Cái thấy đó đưa
tới sự lo lắng, nó nằm như một khối trong tiềm thức và chi phối đời sống
của mình. Mình đẩy, mình chạy trốn, mình khỏa lấp cái sợ đó, nhưng nó
vẫn còn đó, tại vì sự thật là hễ có sinh thì có tử, không có tử thì
không có sinh. Mình cứ tưởng có một cái sinh ra trước, rồi lâu lắm thì
cái kia mới sinh ra. Điều này không đúng tại vì sinh và tử có mặt cùng
một lần, chúng đi sát với nhau như một cặp bài trùng và có mặt ngay bây
giờ chứ không đợi đến một trăm năm sau. Cũng như bên trái và bên trái,
không phải là bên trái có trước và saư đó bên trái mới sinh ra, hễ có
trái thì có phải ngay lúc đó. Phải làm nền tảng cho trái xuất hiện và
trái làm nền tảng cho phải xuất hiện, phải và trái sinh ra cùng một
thời, không có cái này thì không có cái kia. Phải và trái tương tức (inter-being), đó gọi là câu hữu (co-being),
tiếng Phạn là sahabhu, bhu là có mặt (hữu), saha là cùng nhau. Cái có
không thể có mặt một mình, cái có phải cùng có mặt với cái không. Cái
sinh không thể có mặt một mình, cái sinh phải cùng có mặt với cái tử.
Tất cả những gì chúng ta thấy và tiếp xúc hằng ngày cũng đều như vậy.
Trong và ngoài cùng xuất hiện một lần, cha và con cùng xuất hiện một
lần. Trước khi con anh sinh ra thì anh không được gọi là cha, anh chỉ
được gọi là cha khi con của anh sinh ra mà thôi. Có con thì mới có cha,
có cha thì mới có con, con và cha tương tức. Cha dựa trên con mà con và
con cũng dựa trên cha mà có. Phật là người giác ngộ và chúng sanh là
người mê lầm, nhưng có chúng sanh mới có Phật và có Phật mới có chúng
sanh. Phật và chúng sanh đi đôi với nhau, chúng ta đừng nên chọn một cái
và vứt cái kia đi. Hạnh phúc và khổ đau cũng như vậy, đó là hai mặt của
một thực tại. Hạnh phúc dựa trên khổ đau mà có và khổ đau dựa trên hạnh
phúc mà có, vì vậy chạy trốn khổ đau và đi tìm hạnh phúc là một chuyện
rất buồn cười. Giải thoát có nghĩa ngược lại với triền phược, nhưng nếu
không có triền phược thì làm gì có giải thoát và không có giải thoát thì
làm gì có triền phược? Giải thoát và triền phược tương tức, câu hữu.
Theo nguyên tắc, mình sinh ra lúc 0 hay 1 tuổi và chết đi lúc 100
tuổi, nhưng mình có thể chết đi bất cứ lúc nào. Giữa sinh và tử không có
khoảng cách mà chúng dính vào nhau như mặt trái và mặt phải của một tờ
giấy. Chúng ta thấy rất rõ nếu không có mặt trái thì không có mặt phải
và ngược lại. Trái và phải, trên và dưới sinh ra cùng một lần. Đó gọi là
tương tức.
Chúng ta đừng nên nghĩ rằng sự sống có mặt bây giờ và cái chết sẽ đến
trong tương lai. Khi đi từ Boston tới New York chúng ta nghĩ có Boston
và có New York, ta phải lái xe mấy giờ đồng hồ mới từ Boston tới New
York. Nhưng trong mỗi bước chân của mình, bước chân nào cũng có Boston
và New York. Mình đang hướng về New York và quay lưng về Boston, nhưng
Boston và New York có ngay ở đây mà không phải chỉ có ở hai đầu mà thôi.
Cái chết và cái sống cũng vậy, nó không bị ngăn cách bởi một khoảng
thời gian và không gian, nó có mặt ngay trong hiện tại, nó gần với nhau
hơn là bề mặt và bề trái của tờ giấy. Không có cái chết thì không thể
nào có sự sống, không có diệt thì không thể nào có sinh.
Các nhà khoa học cũng tìm ra được điều đó. Họ thấy rõ ràng trong cơ
thể của mình lúc nào cũng đều có cái chết đang xẩy ra. Trong lĩnh vực
sinh học cũng như trong lĩnh vực lượng tử, cái gọi là vô thường
(transformation) đạt tới trình độ cao nhất. Nhìn vào trong cơ thể của
mình chúng ta thấy trong mỗi giây phút có hàng triệu tế bào chết đi và
có hàng triệu tế bào sinh ra, và cái sống cùng cái chết dựa vào nhau mà
có. Nếu những tế bào kia không chết đi thì những tế bào này không sinh
ra, sinh dựa vào tử và tử dựa vào sinh. Nếu nhìn bằng kính hiển vi thì
ta sẽ thấy bề dày của tờ giấy còn lớn hơn nhiều so với khoảng cách giữa
sinh và diệt trong một giây phút, tại vì khoa học hiện nay đã chứng thực
được rằng cái chết và cái sống cùng phát hiện trong mỗi giây phút của
đời sống hằng ngày. Hàng triệu tế bào đang chết mà mình không đau buồn
và hàng triệu tế bào đang sinh ra mà mình cũng không vui mừng. Thông
thường nếu có một người chết thì mình làm đám ma, nhưng trong giây phút
hiện tại có hàng triệu tế bào chết mà mình không có thì giờ để làm đám
ma cho từng tế bào, và có hàng triệu tế bào mới sinh ra mà mình không có
thì giờ để ăn mừng ngày ra đời của chúng. Sự sống chết đang nương vào
nhau và xẩy ra ngay bây giờ thì tại sao mình lại phải sợ chết? Mình sợ
tại vì mình có cái thấy lệch lạc, mình lấy lưỡi dao ý niệm để tách sự
thật ra làm hai phần, một bên là sự sống và một bên là cái chết; bên này
là hình hài nhảy múa, cười đùa, ăn uống và bên này là thân thể cứng đơ
không có suy tư. Mình cho là mình đang ở bên sự sống, nhưng thật ra là
cái sống đang ở bên cái chết và cái chết đang ở bên cái sống. Sống và
chết tương tức với nhau.
Niết bàn: Tuệ giác vượt thoát ý niệm sống và chết, có và không
Quán chiếu bài tập đến câu thứ năm chúng ta thấy: Những gì mà tôi đem
theo khi xác thân này tan hoại chỉ là những hành động của tôi. Tất cả
những gì tôi chế tác bằng năm uẩn của tôi tức tư tưởng, lời nói và hành
động đều mang chữ ký của tôi và khi tôi chết thì chúng nó sẽ đi theo
tôi.
Đứng về phương diện khoa học thì không có gì mất đi, không có cái
chết. Đám mây trên không thể chết, nó không thể nào từ hữu thể mà trở
thành vô thể. Khi trở thành mưa thì tất cả đám mây đều nằm trong mưa, nó
không mất đi một nguyên tử nào. Khi thí nghiệm một phản ứng hoá học,
chúng ta chế chất này vào trong chất kia thì phản ứng hóa học có thể cho
chúng ta có cảm tưởng là có một chất gì đó mất đi và một chất gì đó
hiện ra. Nhưng nhìn cho kỹ thì các nhà khoa học thấy rằng tất cả những
nguyên tử đi vào phản ứng vẫn còn nguyên khi đi ra khỏi phản ứng hóa
học, không có gì cũ bị mất đi và không có gì mới được tạo nên.
Trong Thất Ngồi Yên của tôi có óng kính vạn hoa (kaleidoscope) rất
đẹp. Nhìn vào, mình thấy một hệ thống hình ảnh và màu sắc tuyệt vời. Chỉ
cần xoay một cái là mình có hình ảnh mới đẹp tương đương, có khi còn
đẹp hơn hình ảnh cũ. Không có hình ảnh nào giống hình ảnh nào, nhưng
hình ảnh nào cũng đều tuyệt vời. Những hình ảnh thay đổi, nhưng không có
gì mất đi, không có gì sinh ra và mình không có thương tiếc tại vì hình
ảnh này tiếp nối hình ảnh kia rất đẹp. Không có gì thêm vô, không có gì
mất đi, tất cả đều chuyển biến. Đám mây trên trời đẹp thật, nhưng khi
trở thành mưa thì nó cũng đẹp. Tất cả những gì có trong đám mây bây giờ
đều có mặt trong cơn mưa. Đó gọi là bảo tồn (conservation). Nếu
nghĩ chết là không còn gì nữa thì rất sai lầm. Nhìn cho kỹ thì không có
cái sinh, không có cái tử. Chúng ta phải sử dụng tuệ giác đó, và ngay
chính trong khoa học cũng phải áp dụng tuệ giác đó. Thấy được không sinh
không tử mình sẽ giải quyết được vấn đề sợ hãi, tại vì sự sợ hãi là
gánh nặng nhất của con người.
Bông hoa hay con chim kia đang sống, nhưng chúng không có nỗi sợ hãi
đó. Con người phải trả cái giá văn minh của mình bằng nỗi lo sợ phập
phồng về cái chết và về cái vô thể. Vì thế sự quán chiếu giúp con
người vượt thoát ý niệm có và không, sống và chết. Khi khi vượt khỏi ý
niệm có và không, sống và chết rồi thì nỗi lo sợ của mình sẽ không còn
và mình có được niềm vui thật sự. Mục đích cao nhất của người tu là đạt
tới Niết bàn. Niết bàn là tuệ giác, là cái thấy vượt thoát ý niệm có và
không, sống và chết. Nhưng Niết bàn không phải là cái gì xa lắc xa lơ,
Niết bàn nằm trong những cái mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày như đám mây
kia. Đám mây thuộc về thế giới hiện tượng; quán sát nó mình thấy nó có
khi có có khi không, có khi sinh có khi diệt. Nhưng nhìn kỹ bản chất của
đám mây, mình thấy tự tính của nó là không sinh không diệt, không có
không không. Khoa học cũng có thể làm được điều đó. Đám mây không cần
phải đi tìm cái không sinh không diệt, không có không không tại vì nó
đang ở trong đó rồi. Có, không, sinh, diệt chỉ là ý niệm của mình. Không
những đám mây mà tất cả vạn vật đều như vậy.
Chúng ta hãy tưởng tượng có một đám mây mà 50% biến thành mưa và 50%
vẫn còn bay lơ lững trên trời. Một nửa đám mây nhìn xuống và nhìn thấy
một nửa của nó đã trở thành dòng nước. Nó nhận ra được d ò ng nước đó là
sự tiếp nối của mình, nó thấy nó bay ở trên cũng vui mà nó trôi chảy ở
dưới cũng vui. Nó chào phân nửa của nó ở dưới: Hello, you are half of me
down there, I go join you very soon. Đám mây không có sợ hãi, nó biết
bản chất của nó là không có không không, không sinh không diệt. Chỉ có
sự biến chuyển mà không có sự sinh diệt. Đám mây không có sự lo lắng của
con người.
Niết bàn không phải là cái mình đi tìm. Mình đang ở trong Niết bàn
tức trong thể tính không sinh không diệt, không có không không của mình.
Cũng như đợt sóng kia đang sợ hãi vì sự lên xuống, có không; nhưng khi
đợt sóng biết mình là nước rồi thì nó không còn sợ hãi nữa, đi lên nó
cũng vui mà đi xuống nó cũng vui. Nó không cần phải đi tìm nước, nó đã
là nước rồi. Niết bàn cũng vậy, Niết bàn không phải là trạng thái tâm lý
hay nơi chốn mà mình phải đi tìm. Niết bàn là bản chất của mình, mình
đang ở trong Niết bàn. Chúng ta nói “nhập Niết bàn”, như vậy có nghĩa là
mình ở ngoài và mình đi vô Niết bàn. Điều này không đúng, nói như vậy
giống như mình là một cái khác, Niết bàn là một cái khác và mình đi vô
Niết bàn. Mình đang ở trong Niết bàn thì cần gì phải nhập Niết bàn. Niết
bàn nằm ở đâu? Niết bàn nằm ngay ở chỗ sinh tử. Đi tìm nước ở đâu? Tìm
ngay ở sóng. Trong sóng có nước, trong sinh tử có Niết bàn. Nhìn bề
ngoài, đám mây có sinh, có tử; nhưng trong bề sâu đám mây không có sinh,
không có tử.
Đây là bài pháp thoại ngày 19 tháng 01 năm 2012 tại thiền đường Nước Tĩnh, xóm Thượng trong khóa An Cư Kiết Đông 2011-2012.