I. CHẾT XẢY RA NHƯ THẾ NÀO?
Có hai cách thức chết. Một là chết đột ngột mà sách
Hán thường gọi là đột tử hay là bất đắc kỳ tử. Hai là chết đúng vào lúc thọ
mạng hết. Nghhĩa là một cái chết bình thường.
a. Về trường hợp chết đột tử: Trường hợp này xảy ra khi
thọ mạng của người chết chưa hết, nghiệp lực tái sanh của người đó cũng chưa
hết, nhưng có một loại nghiệp khác gọi là năng hủy nghiệp (tiếng Anh là
Destruchivekarma) được tạo ra từ trước. Nay chín muồi và phát huy tác dụng hủy
diệt nghiệp lực tái sinh của người đó. Sự cố đó do người xấu số trước đây đã
tạo ra một năng hủy nghiệp, nay chín muồi, dẫn tới sự cố làm chết người.
Loại năng hủy nghiệp này có thể được tạo ra từ ở đời sống
trước hay là ngay trong đời sống này. Sự cố quả báo xảy ra có thể mang các hình
thức khác nhau như chết đuối, chết bị xe cán, chết bị kẻ thù giết, chết bị đầu
độc.v..v.. dù là dưới hình thức nào, sự cố cũng là quả báo chín muồi của một
năng hủy nghiệp.
Có thể hay không các sự cố đột tử?
Phật giáo trả lời là có thể, nếu người (đương sự) tạo ra
những loại nghiệp thiện đủ sức mạnh để chuyển hay triệt tiêu một hay những năng
hủy nghiệp đã được tạo ra từ trước. Thí dụ tu tập các hạnh độ sanh, phóng sanh
là những điều thiện cực lớn, sống theo chánh pháp..v.v..
b. Thứ hai là trường hợp chết do thọ mạng hết và nghiệp
lực tái sanh hết: Đó là trường hợp chết bình thường nhưng không có gì có thể
ngăn chặn. Tuy là chết bình thường và không thể ngăn chặn, nhưng là Phật tử,
được giáo dục về thuyết nghiệp và tái sanh, chúng ta có thể chuẩn bị và sắp xếp
một cái chết bình thản, an lạc. Hơn nữa, chúng ta có thể thông qua cái chết
bình thản đó, hướng tới một cuộc sống (kiếp sau) tốt đẹp, hạnh phúc.
c. Chuẩn bị một cái chết bình thản: Chính nếp sống thiện,
không có sợ hãi, giận hờn và tham lam dẫn tới cái chết bình thản, tốt đẹp,
không đau đớn. Trái lại, một người suốt đời tham lam, giận hờn, ganh tỵ với tâm
trạng luôn luôn lo âu, sợ hãi thì đương nhiên sẽ có một cái chết cũng đầy lo
âu, sợ hãi, đau khổ.
Nói cách khác, hãy chuẩn bị cho một cái chết yên bình ngay
khi chúng ta còn sống, còn khỏe mạnh. Sách Phật hay khuyên chúng ta niệm
"chết" là vì như vậy không nên chờ đợi đến khi sắp chết rồi mơới niệm
"Chết". E rằng khi ấy, tâm thức hôn mê, thì đã quá muộn. Đừng đặt quá
nhiều hy vọng vào cầu đạo và lễ bái, vì rằng một tảng đá lớn và nặng (biểu
trưng cho một đời sống đầy tội ác) không thể nhờ cầu đạo và lễ bái mà nổi lên
mặt nước được.
Nói như vậy không có nghĩa là phản đối việc cầu nguyện và
lễ bái, cầu cho người chết siêu sinh Tịnh độ, như là chúng ta hiện nay vẫn làm
đối với người chết hay sắp chết. Vì rằng vai trò của thân nhân, bạn bè đối với
người sắp chết hay đã chết chỉ là hỗ trợ còn yếu tố chính quyết định một cuộc
chuyển sinh là của bản thân người đương sự, tức là của người sẽ chết hay sắp
chết. Cần thiết nhắc nhủ về một chân lý đơn giản là tất cả chúng ta hay mọi
sinh thể đều phải chết, sớm hay muộn. Vì vậy, hãy xem chết là chuyện bình
thường, chuyện tất nhiên, không có gì đáng lo âu và sợ hại, nếu chúng ta biết
sống một cuộc sống đạo đức và bình thản, không ham muốn vật chất nhiều mà thiên
về những giá trị tâm linh cao cả.
Những điều trên nếu thành tựu được, thì sự săn sóc của
chúng ta đối với người chết hay sắp chết sẽ không còn quan trọng nữa. Tuy
nhiên, cần chú ý những điều sau đây:
1. Không được ồn ào, nên giữ một bầu không khí yên lặng,
tươi sáng của một cuộc tiễn đưa người chết không phải đến nơi an nghỉ cuối cùng
mà là đến một cõi sống mới tốt đẹp hơn.
2. Mọi hình thức hộ niệm và tụng niệm đều nhằm giúp người
sắp chết có được niệm lành, suy nghĩ điều lành, nhớ lại những điều thiện mà
mình đã làm trong đời. Theo thuyết nghiệp của đạo Phật thì niệm gần chết hay
trạng thái tâm lý lúc sắp chết có tác dụng rất quan trọng, hướng dẫn thần thức
người chết tái sanh vào cõi lành hay cõi dữ tùy theo niêm của người gần chết là
lành hay dữ.
3. Gia đình người chết có thể và nên nhân cơ hội này làm
một số công việc Phật sự như phóng sanh, bố thí, cúng dường chư Tăng và hồi
hướng công đức cho người chết được tái sanh ở cõi lành.
Không phải chỉ có đức Phật và các Thánh đệ tử của Ngài mới
có túc mạng minh, mà bất cứ một người tu thiền định nào có kết quả, đều có thể
chứng được các quyền năng siêu nhiên đó.
Gần đây, tại Mỹ, một nước được xem là dẫn đầu thế giới về
khoa học kỹ thuật, vấn đề tái sanh và luân hồi đã đường hoàng đi vào các trường
Đại học như môt chuyên ngành, được giới thiệu ở các khoa Nhân văn (Humanities),
Giáo dục (Edukation), Triết học (Philosophy), Tâm lý (Psichology), Tôn giáo
(Religion) và Xã hội học (Social study)...
Ở đây trong một bài báo, các nhà khoa học Tây phương đã
thu thập, phân tích với thái độ khoa học nghiêm túc và được chứng minh với
những số liệu và tư liệu sống, không thể nào bài bác được.
Chỉ xin ở đây tiêu đề những cuốn sách tiếng tăm nhất:
1. Bộ sách của bác sĩ Y khoa Jan Stevenson:
- Cases of reincarnation Type (Các trường hợp tái sanh
điển hình), 4 tập.
- Twenty cases suggestive of reincarnation (20 trường hợp
gợi ý về tái sanh)
- Children who remember Previous lives (Những đứa bé nhớ
lại những kiếp sống trước)
2. Harmon Hartzell Edgar Cayce on Religion and Psychic
experience. New York.
Warner Books 1970 (Ergar Cayce nói về tôn giáo và kinh nghiệm tâm linh)..v..v..
Có thể khái quát những chứng cớ tái sanh đã được các khoa học nghiên cứu phương
Tây thu thập theo các mục sau:
a. Chứng cớ về những trẻ em bỗng nhiên và tự phát nhớ lại
đời sống trước của chúng. Trong những trường hợp này, trẻ em thường dẫn những
người cha hay mẹ mới của mình về thăm nơi ở của gia đình cũ của chúng, thăm lại
cha mẹ cũ còn sống...
b. Chứng cớ về những trường hợp nhớ lại kiếp trước nhờ tu
tập thiền định và tập trung tư tưởng. Đó là trường hợp của các đạo sĩ Du già Ấn
Độ.
Nhà khoa học Mỹ John Lilly, trong quá trình nghiên cứu tìm
hiểu sâu vào các lớp tâm thức của con người, đã nhớ lại được nhiều sự việc
thuộc đời sống trước của mình, ông thường ngồi trong một cái thùng kín để dễ
tập trung tư tưởng và để loại trừ mọi kích thích cảm quan đến từ bên ngoài.
c. Chứng cớ tái sanh nhờ vào sự hỗ trợ của phương pháp
thôi miên. Người bệnh nhân được thôi miên dần dần kể lại nhiều sự việc của kiếp
trước, trong đó có sự việc là đầu mối của căn bệnh tâm thần của anh ta ngày
nay. Sách báo kể chuyện có bệnh nhân rất sợ nước. Sau khi được thôi miên, anh
ta kể lại là trong một kiếp trước anh từng bị chết đuối, và nỗi sợ hãi của
người bị ngạt, vùng vẫy dưới nước đeo đuổi anh ta, ám ảnh anh ta cho đến tận
đời sống này. Sau khi được anh ta cho biết như vậy, bác sĩ tâm thần giải thích
cho anh ta căn nguyên của bệnh sợ nước và thế là anh ta được chữa khỏi.
d. Chứng cớ do có người nhận biết một người khác trong đời
sống trước. Kinh Phật kể lại khá nhiều trường hợp như vậy. Người thiếu nữ thuộc
đẳng cấp hạ tiện là Matanga sau khi cúng dường nước uống do ông A Nan, đã đem
lòng yêu tha thiết ông này, đến mức ông A Nan đi đâu nàng cũng đi theo, tạo ra
dư luận không tốt xung quanh chuyện này. Phật cho gọi Matanga đến và cho xuất
gia làm Ni. Phật kể lại cho ông A Nan và Matanga biết hai người trong một kiếp
trước từng là vợ chồng.
Ở phương Tây, có trường hợp một bác sĩ tâm thần là
Guirdham được một người nữ bệnh nhân của ông là bà Smith nhớ lại là người yêu
cũ của mình ở thế kỷ XIII ở Languedoc
(Pháp). Mặc dù khoảng cách thời gian rất dài, hàng nhiều thế kỷ, nhưng bà Smith
đã kể lại nhiều nhân chứng và sự việc được chứng minh là đúng đắn, căn cứ vào
các sách sử.
e. Chứng cứ về năng khiếu đặc biệt của một số rất ít người
biết được kiếp trước của người khác.
Đó là trường hợp lạ lùng Edgar Cayca, sinh ra ở Kentucky năm 1877. Cayce
khi được người khác thôi miên thì có khả năng biết được kiếp trước của các bệnh
nhân đến gặp ông ta, truy nguyên căn bệnh từ ở một kiếp trước của họ và điều lạ
lùng hơn (vì anh ta không phải là bác sĩ) là ông vạch ra phương pháp điều trị
cùnh với loại thuốc men sử dụng. Ông ta hay nói đó là do nghiệp của bệnh nhân
đã tạo ra trong một cuộc sống quá khứ, và Cayce bày cho phương pháp đối trị
thích hợp. Điều đặc biệt là ông Cayce là một tín đồ Gia tô thần thành, và việc
ông ta, trong khi bị thôi miên, nói lê các chuyện tái sanh và nghiệp luân hồi
không những gây ngạc nhiên cho người xung quanh mà cả cho bản thân ông nữa, khi
ông hồi tỉnh lại, sau mỗi lần thôi miên.
Năm loại chứng cớ tái sanh và luân hồi kể trên đây cần
được mọi người suy ngẫm với thái độ trung thực.
II. CƠ CHẾ TÁI SINH
Theo sinh vật học hiện đại, thì sự sống của một con người
khởi đầu từ cái giây phút thần bí, khi tinh trùng của người cha kết hợp với
trứng (ovule) của người mẹ. Nhưng theo đạo Phật, tinh trùng của cha và trứng
của mẹ chỉ là nhân tố vật lý của sự sống. Đạo Phật có thêm một nhân tố thứ ba
nữa mà thường gọi là hương ấm hay là nghiệp thức hay kiết sanh thức. Chỉ khi
nào nhân tố thứ ba hiện hữu thì mới có thể hình thành bào thai, nếu không dù
cha mẹ có giao hợp nhiều lần cũng không có bào thai.
Theo Trung bộ kinh tập I, kinh Ái Tận: "Khi có ba sự
hòa hợp thì một bào thai hình thành. Ở đây, cha mẹ có giao hợp, nhưng người mẹ
không ở trong thời kỳ thụ thai và hương ấm tức nghiệp thức hay kiết sanh htức
không hiện hữu, như vậy bào thai không thành hình. Cha mẹ có giao hợp, người mẹ
ở vào thời kỳ thụ thai và hương ấm thì bào thai mới thành hình". (Trường
bộ I HT. Thích Minh Châu dịch. Ái Tận kinh trang 265)
Nói chung lại, nghiệp thức, cũng gọi là kiết sanh thức hay
hương ấm là điều kiện không thể thiếu của cơ chế tái sanh. Nghiệp thức đó mang
theo nghiệp lợi được tạo ra trong đời sống trước. Chính nghiệp thức kèm theo
nghiệp lực quyết định hướng tái sanh và những nét đại khái của cảnh ngộ, thân
phận của người tái sanh. Tùy theo nghiệp được tạo ra trong đời sống trước mà ở
đời sống này, một người có được thân phận và cảnh ngộ hạnh phúc, tốt đẹp hay là
đau khổ bất hạnh. Tất cả mọi sự khác biệt trên thế gian này, như chúng ta có
thể quan sát trực tiếp đều là do nghiệp. Đúng như câu tụng trong luận Câu Xá.
"Thế biệt do nghiệp sanh"
"Thế gian khác biệt là do nghiệp sanh".
III. LỜI CẦU CHÚC CỦA TÁC GIẢ
Để kết thúc bài này, tôi cầu chúc cho mọi người mà tôi
từng quen biết hay là chưa từng hân hạnh quen biết:
"Một đời sống sau này tốt đẹp và hạnh phúc, tiếp theo
một cái chết an lành bình thản như lá rụng mùa thu".
Đó cũng là điều chờ đợi của tất cả Phật tử chúng ta, đã
từng tin ở đức Phật là người cha hiền luôn ở bên cạnh và hướng dẫn chúng ta
sống thiện, nghĩ thiện, nói thiện và hành động thiện. Nhờ suốt đời sống thiện
như vậy mà tất cả chúng ta sẽ đón nhận một cái chết thanh thản và yên bình,
hướng tới một đời sống kiếp sau tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn và điều quan trọng
là luôn luôn gần gũi Phật và Phật pháp.