Một
hành giả tu tập đạt được quả vị A- La-hán xem như tương đồng với
Niết-Bàn (hữu dư). Tuy nhiên, trên bình diện Pháp tướng, vấn đề này vẫn
còn có nhiều góc độ khảo sát để thỏa mãn tri thức. Mặc dù vẫn biết
không dễ dàng tiếp cận cánh cửa Niết-bàn, nhưng chúng ta tạm lấy một
cọng tóc chẻ ra làm bảy, rồi lấy 1/7 này chẻ ra làm 7, chẻ đi chẻ lại 7
lần thì xem ra vẫn còn lớn hơn cánh cổng này một chút về phương diện
lý luận. Nhân ngày vía Phật Thành đạo năm 2013, chúng ta thử tiếp cận
danh từ Niết-Bàn bởi nó vẫn là nguồn cảm hứng bất tận đối với những ai
quan tâm đến quả vị giải thoát trên bước đường tu tập.
HAI LOẠI NIẾT BÀN:
- Hữu-dư-niết-bàn:
(Saypadisesa nibbàna) Hữu-dư-niết-bàn là chỉ cho người đã đạt đến cảnh
giới thoát khỏi vòng luân hồi nhưng nhục thể vẫn còn tồn tại.
- Vô-dư-niết-bàn: (Anupadisesa nibbàna).Vô-dư-niết-bàn là cảnh giới vĩnh viễn, phần nhục thể không còn hiện hữu nữa.
Phân biệt để giải thích như trên mà gọi là Hữu-dư và Vô-dư thì ý nghĩa giữa hai loại Niết-Bàn nhưng vốn dĩ là “nhị nghĩa đẳng luân”, không sai khác.
Tuy đúng về phương diện lý luận mà nói thì Vô-dư-niết-bàn là cảnh giới trên Hữu-dư. Tại sao? Vì còn có thân thể thì dù tâm có muốn thoát ly già, bệnh, chết đi nữa cũng không trách khỏi những nhược điểm của phần nhục thể. Cho nên, chỉ khi nào rút bỏ cả phần nhục thể thì mới vĩnh viễn an toàn.
Song,
đây chỉ nói về phương diện lý luận mà thôi, nếu theo ý nghĩa tôn giáo
thực tế mà nói thì Phật lại coi trọng Hữu-dư hơn Vô-dư. Vì đức Phật đã
tự thể nghiệm Niết-Bàn vĩnh viễn ngay trong hiện tại, và muốn cho chúng
sinh cũng thể nghiệm được như ngài.
“Như thế không bao
lâu, đến khi hết phiền não, thành vô lậu thì được tâm giải thoát, tuệ
giải thoát, đối với hiện pháp, tự mình chứng tri, tự mình thực hiện”. Phật thường diễn đạt ý đó với các đệ tử.[1]
Điểm
này, đối với những người chứng ngộ cảm nhận được. Cho nên lý giải và
thuyết minh niết bàn rốt ráo và cảnh giới Vô dư niết bàn như thế nào đó
là vấn đề nan giải. Ngoài ra, về thế giới quan, Phật lại bác bỏ tất
cả mọi khái niệm cố định, cho nên người ta cảm thấy vô cùng khó khăn
trong việc suy cứu lí luận. Ngay
đến những người đã thực chứng Hữu dư niết bàn mà cũng còn cảm thấy vấn
đề này khó khăn. Bởi giới hạn ngôn ngữ không thể diễn đạt cái vô hạn.
Dưới cái nhìn của hành giả đang đi vào lộ trình tâm thì
đó là trạng thái đã diệt trừ hết mọi phiền não; nói theo nghĩa rộng là
đã cắt đứt được mười thượng, hạ phần kết sử; còn nói theo nghĩa hẹp
thì đó là sự thủ tiêu hoàn toàn ba độc tham, sân và si.
Hành
giả thành công sự phá trừ hết vô minh khát ái, chuyển hóa hết ngã
chấp, ngã dục, chỉ còn cái đương thể hoàn toàn vô ngã. Về điểm này,
Phật thường gọi Niết-Bàn là “tham, sân, si diệt”, “khát, ái diệt” (tanha nibbàna), và “vô minh diệt” v.v…Xét về từ ngữ niết bàn (nirvàna-nibbàna) thì nó bắt nguồn từ tiếng “dập tắt” (nirva), chính Phật đã dùng cái nghĩa này để chỉ cái đương thể đã “dập tắt” mọi phiền não, cho nên mới gọi là Niết-Bàn.
Như
vậy để đạt đến niết bàn, tức giải thoát, cần phải có cái đương thể của
phiền não đã bị tận diệt, nó là cái năng lực tích cực mới phát sinh mà
từ xưa chưa từng được kinh nghiệm. Năng lực tích cực này là nguồn gốc
của sự bộc phát, cho nên cũng có thể bảo chính nhờ vào đó mà làm cho
phiền não tận diệt.
Như trường hợp của Phật, ròng rã sáu năm trời
chuyên tâm chuyên trừ phiền não mà chưa thể thành công, nhưng chỉ ngồi
tĩnh lặng tư duy trong khoảng bốn mươi chín ngày thì đạt đến đại giác,
là vì trong thời gian chuyên tâm tiêu diệt phiền não đã không còn dính
líu đến sinh, già, bệnh, chết.
Trên cơ sở này, từ ngữ Niết-Bàn (nibbàna-nirvana), quyết không phải chỉ có nghĩa là dập tắt, nó được dùng để biểu thị cái cảnh giới diệu lạc tối cao.[2] Lại nữa, Phật bảo niết bàn là cảnh giới bất tử (amala), là nơi tuyệt đối an ẩn (yogakikhama), là mát rợi (sitibhava) v.v… Để diễn đạt quan điểm tương đồng đó đức Phật hay dùng thường, lạc, ngã, tịnh để chỉ cho giải thoát.
“Tỷ
khưu! Bất sinh (ujata), bất thành (abhuta), vô tác (akata), vô vi
(ankhata), Tỷ Khưu, nếu không có bất sinh, bất thành, vô tác, vô vi thì
sinh, thành, tác, hữu vi không có chỗ y chỉ (nissarana). Tuy nhiên, Tỷ
khưu, vì có bất sinh, bất thành, vô tác, vô vi nên sinh, thành, tác,
hữu, vi mới có chỗ dựa”.[3]
Bất sinh, bất thành, vô tác, vô vi
là chỉ cho cái đương thể của niết bàn, vì có cái đương thể của niết bàn
nên thế gian sinh diệt mới có chỗ dựa tối hậu. Như vậy thì niết bàn
quyết không phải là cảnh giới tiêu diệt, tán hoại hay dập tắt.
Tóm
lại, cảnh giới Hữu dư niết bàn, về phương diện tiêu cực, là nơi không
còn phiền não, đồng thời, về phương diện tích cực, thì đó là căn cứ của
cảm giác về cái năng lực thường hằng bất biến.
Theo Phật, vạn
pháp hết thẩy đều do nhân duyên sinh, ngoài nhân duyên ra không có một
vật gì tồn tại, và đây là một luận thuyết không hiểu được một cách dễ
dàng. Do đó Phật bảo “Trước biết pháp trụ, sau biết Niết-Bàn” (Pubbe dham-matthitinànam pacchà nibbàne nànanti).[4]
Hơn nữa, chính Phật và các đệ tử của ngài cũng thường ví dụ Vô-dư-niết-bàn như ngọn đèn hễ “dầu hết thì lửa tự tắt”.
Và cứ theo ví dụ ấy mà suy ra thì không thể bảo là hư vô được. Hãy
dùng tuệ tri để hiểu Niết Bàn là một sự tồn tại không thể diễn tả,
không thể tưởng tượng, nó bất khả tư nghì.[5]
Ở đây lại có
điểm ta cần đặc biệt chú ý là: trong số các đệ tử của Phật nếu có ai
hiểu Vô dư niết bàn là hư vô thì Phật và các đệ tử trưởng lão đều quở
trách và dẫn dụ cho họ hiểu một cách chân chính. Chẳng hạn trường hợp
Diệm ma ca tỷ khưu (Yamaka), ông này thường cho rằng Lậu tận La Hán là
cõi “tuyệt vô”, không có một vật gì cả. Các tỷ khưu khác thấy
thế đều cho Diệm ma ca bị tà kiến lung lạc bèn hết sức khuyên can,
nhưng Diệm ma ca không chịu từ bỏ ý kiến ấy của mình; cuối cùng họ phải
thỉnh Xá lợi phất nói pháp cho Diệm-ma-ca hiểu. Ngài Xá lợi phất bảo
Diệm-ma-ca rằng năm uẩn không phải là Như Lai, nhưng, đồng thời ngoài
năm uẩn cũng không có Như Lai. Để cho Diệm-ma-ca biết ý kiến của mình
là sai lầm.[6]
Ngài Xá lợi phất trực tiếp nói đến cái đương thể
của niết bàn, về Như Lai giải thoát năm uẩn và vô ngã v.v… thì liền từ
bỏ chủ trương của mình, như vậy, rò ràng trong đó Diệm ma ca cũng đã
mặc nhiên hiểu qua cảnh giới niết bàn. Tức cái đương thể của bất sinh,
bất thành, vô vi, vô tác chính thực là nơi nương tựa thường hằng, nơi
tuyệt đối an ẩn, tuy là cái tuyệt đối không biểu tượng, nhưng bản thân nó lại là cảnh tuyệt đối hữu mà người ta có thể chứng nghiệm được: “Trong tất cả các pháp, Niết-Bàn là hơn hết; là thiện, là thường, siêu việt hẳn các pháp khác”[7] Quan điểm kinh Đại Bát Niết Bàn gọi là Thường, Tịnh, ngã, Lạc cũng không ngoài ý nghĩa trên.
Như
vậy, cảnh giới Vô-dư-niết-bàn là cảnh giới tuyệt đối vắng lặng, vĩnh
viễn bất động: vì nó là đương thể của pháp tính tuyệt đối, của ý chí
tuyệt đối. Nhưng, nếu đứng trên lập trường hiện tượng giới mà nhận xét
thì đó chẳng qua chỉ là thực hiện cái lý tưởng “ẩn mất không hiện” trong mắt chúng sinh.
Bắc truyền đã quan niệm Vô-dư-y-niết-bàn-pháp-tính tuyệt-đối này, bằng cụm từ chân-như-pháp-tính và Bất-trụ-niết-bàn đã được đề cập nhiều lần từ thời đức Phật để diễn đạt tư tưởng không cho Bát-Nhã; Chư pháp thực tướng quan của Pháp-Hoa và tư tưởng Di-Đà
bất sinh bất diệt của kinh Đại Vô Lượng Thọ.[8] Cho chúng sinh dễ
hiểu, và lãnh hội rốt ráo ý chỉ của Phật trong quá trình tu tập hướng
đến quả vị giải thoát. Dù đứng trên quan điểm nào để hiểu hai chữ
Niết-bàn là nhiệm vụ bất khả thi vì Niết Bàn là thực tại vượt ngoài
ngôn ngữ. Như người uống nước tự biết nóng lạnh độ nào. Việc giải thích
Niết-bàn ra làm sao cũng giống như việc tả màu trắng cho người mù nó
giống màu trắng của tuyết. Hoặc con rùa diễn tả nắng ấm gió mát trên
mặt đất cho những con cá dưới nước hiểu. Chúng ta chỉ có thể cảm nhận
khi đã sở đắc, bằng không càng giải thích càng không chính xác và chúng
ta càng đi xa thực tại.
[1] Thiện Nhân Vãng Kinh, pp. 5-6; Tăng 7, p. 307. Sự khu biệt Hữu-dư, Vô-dư Niết Bàn.
[2] xem luận án của Dr W. Stel trong Jonrnal of Pàli Text Society quan niệm về Niết-bàn (1919-20).
[3] Itivuttka 43 text p. 37.
[4] Tạp A Hàm 34, p. 510.
[5]
“Thế nào gọi là cõi Vô-dư-niết-bàn? Này các Bật-Sô! Đó là trạng thái
đã chứng được La-Hán, đã nết sạch các phiền não, phạm hạnh đã được
thành lập, việc cần đã làm trọn đủ, đã vứt bỏ mọi gánh nặng, đã chứng tự
nghĩa, đã khéo giải thoát, đã được biết khắp. Tất cả đều cảm thụ bây
giờ điều không do nhân dẫn đến, không còn cầu mong, hi vọng cũng hết,
rốt ráo tịch lặng, vĩnh viễn trong mát, chỉ còn y vào cái thanh tĩnh
không hí luận, không thể bảo rằng có, chẳng thể nói rằng không, mà cũng
không thể cho là cũng có, cũng không, mà cũng chẳng thể bảo là chẳng
phải có, chẳng phải không mà chỉ nói không thể diễn đạt, rốt ráo niết
bàn, cho nên gọi là cõi Vô-dư-niết-bàn”. (Bản Sự kinh quyển 3 tr. 350b.
Itivuttaka 44).
[6] S, III, pp. 109-115, Tạp 34, p. 510.
[7] Đại-Tỳ-Bà-Sa-Luận 88, p. 414b.
[8] Căn Bản Phật Giáo p. 301 ff.