CHẾT
- MỘT TIẾN TRÌNH PHỔ QUÁT TRONG
DÒNG BIẾN DỊCH VÔ
THỦY VÔ CHUNG
Vĩnh Hằng
Tính
chất độc nhất vô nhị, năng lực của giáo lý Trung
Ấm, nằm ở chỗ qua sự chỉ rõ tiến trình chết, nó
còn gợi cho ta cả tiến trình sống. Trước hết, ta
hãy quan sát ba giai đoạn chính của cái chết:
- Ở cao điểm của tiến trình chết, khi mà
tứ đại, cảm giác và tư tưởng đã chấm dứt hoạt
động, thì bản chất thuần tính tối hậu của tâm -
ánh sáng căn bản - được hiển lộ trong giây lát.
Đây là sự chấm dứt hoàn toàn hoạt động tâm-vật
lý đưa đến sự phô bày năng lực của tâm.
- Sau đó, chỉ một thoáng, tia sáng tự
chiếu của bản tâm sẽ hiển lộ dưới dạng âm thanh,
màu sắc và ánh sáng (tính chất phổ chiếu hay
chiếu diệu của thường tịch quang).
- Kế đến, người chết tỉnh thức và đi vào
trạng thái gọi là Trung Ấm tái sinh, quay trở
lại tâm phàm tình, khoát một hình dạng gọi là "thân
ý sanh", chịu sự sai khiến của nghiệp và thói
quen quá khứ - sự kết tinh và thể hiện của thân
ý sanh.
* Sự tương ứng của giáo lý 3 thân với
3 giai đoạn của tiến trình chết
Ba giai đoạn của tiến trình chết tương
ứng với 3 mức độ hiện hữu của tâm giác ngộ hay 3
thân trong giáo lý 3 thân của Phật giáo:
- Bản chất tuyệt đối, hiển bày dưới dạng
ánh sáng căn bản hay điểm linh quang vào lúc
chết được gọi là Pháp thân (Dharmakaya). Đó là
chiều hướng "chân không" hay "chân lý nhất
nguyên"; trong đó, mọi ảo tưởng, vô minh hay bất
kỳ khái niệm nào đều chưa từng xâm nhập.
- Tia năng lực và ánh sáng nội tại được
trưng bày một cách tự nhiên trong bardo pháp
tánh gọi là Báo thân (Sambhogakaya). Đó là chiều
của phúc lạc toàn vẹn, phạm vi của "pháp hỷ sung
mãn" vượt ngoài mọi giới hạn nhị nguyên, ngoài
thời-không.
- Phạm vi ngưng đọng thành hình dáng
được hiển thị trong bardo tái sinh, gọi là Ứng
thân (Nirmanakaya). Đó là chiều của biến hóa
không ngừng.
* Sự tương ứng của 3 pha trong giấc
ngủ chiêm bao với 3 giai đoạn của tiến trình
chết
Ba giai đoạn của tiến trình chết cũng có
thể thấy được trong ba pha của một giấc ngủ
chiêm bao bình thường:
- Khi ta ngủ, các giác quan và tầng thô
của tâm thức tan rã, và dần dần bản chất tuyệt
đối của tâm, có thể nói là ánh sáng căn bản lộ
ra trong chốc lát.
- Kế tiếp, một chiều tâm thức khác hiện
ra, có thể so sánh với bardo pháp tánh. Nó vi tế
đến nỗi khi hiện hữu, ta thường hoàn toàn không
ý thức về nó. Đó là giai đoạn trước lúc đi vào
giấc chiêm bao.
- Sau đó, khi tâm trở nên hoạt động trở
lại, ta thấy mình trong một thế giới chiêm bao
tương tự như các cảnh giới thuộc Trung Ấm tái
sanh. Tương tự "thân ý sanh" trong giai đoạn
"Trung Ấm tái sanh", trong quá trình nằm chiêm
bao, ta có một thân mộng - mà phần lớn chịu ảnh
hưởng thói quen và hoạt động của ta lúc thức -
và tất cả người nằm mơ đều tin là mình đang sống
thực, không hề nhận ra mình đang chiêm bao.
* Sự tương ứng của 3 giai đoạn tiến
trình chết với 3 bước vận hành của tư tưởng và
cảm xúc
Giáo lý Trung Ấm còn cho ta thấy rõ sự
tương ứng của 3 giai đoạn trong tiến trình chết
với sự diễn biến của tâm thức hiện tại ngay lúc
ta đang sống - mọi tư tưởng, cảm xúc hay mọi
tầng lớp kinh nghiệm tâm lý:
- Ánh sáng căn bản, bản chất tuyệt đối
của tâm, là trạng thái tối sơ của giác tánh luôn
hiện hữu trước khi bất cứ ý nghĩ hay cảm xúc nào
khởi lên.
- Trong tình trạng trước khi mọi ý nghĩ
hay cảm xúc nào dấy khởi, một năng lực căn bản
dấy động như tia chiếu tự nhiên của tính giác
trong bardo pháp tánh, bắt đầu khởi lên như nền
tảng, khả năng và nhiên liệu cho mọi tư tưởng và
cảm xúc sinh khởi và vận hành.
- Tương tự sự kết tinh và thể hiện của
"thân ý sanh" trong bardo tái sanh, năng lực căn
bản bây giờ đã khoác lấy hình dạng của ý nghĩ và
cảm xúc, và cuối cùng đẩy chúng ta vào hành động
để tích lũy nghiệp.
Tiến trình này có thể nhận biết cụ thể
hơn nếu chúng ta thực hành thuần thục pháp thiền
quán Vipassana:
- Khi thực hành Vipassana cho đến khi
nào mọi ý tưởng và cảm xúc tuần tự im bặt và tan
biến vào tự tâm, ta có thể thoáng thấy giác tánh
(hay Phật tánh) trong phút chốc - sự trực diện
với trạng thái tối sơ, tâm "bừng sáng" hay sự
"rỗng lặng quang minh".
- Rồi từ trong trạng thái vắng lặng yên
tĩnh của tự tâm, một năng lực căn bản sống động
xoay chuyển: đó là tia tự chiếu của tính giác.
- Nếu có sự chấp thủ kèm theo sự sinh
khởi của năng lực này thì năng lực tự động kết
tụ thành ý tưởng, và ý tưởng này lại đưa chúng
ta trở về hoạt động tâm thức và khái niệm.
* Sự tương ứng của 3 giai đoạn tiến
trình chết với những tri kiến về đấng tuyệt đối
theo các truyền thống tâm linh khác
- Ki-tô giáo: nếu xét về mặt bản chất và
hoạt động của Thượng đế như sự hoạt động của
Thiên Chúa 3 ngôi: Cha, con và thánh thần; trong
đó, Ki-tô hiện thân từ nền tảng của Đức Chúa Cha
qua trung gian vi mật của thánh thần, điều này
có lẽ cũng giúp ta liên hệ soi sáng được bản
chất thực sự của vấn đề Thiên Chúa 3 ngôi: đấng
Ki-tô có thể được xem là tương tự như sự hóa
hiện của bardo tái sanh, ngôi Thánh thần có thể
được ví như là bardo pháp tánh, và nền tảng của
cả hai ngôi 2 và 3 được xem như ánh sáng căn
bản, bản chất tuyệt đối của tâm.
- Ấn giáo: Theo truyền thuyết Ấn Độ giáo
(Hinduism), Thượng đế là sự biểu thị cùng một
lúc 3 năng lực: hiện thể, tâm và phúc lạc. Rõ
ràng là ta có thể thấy những tương đồng kỳ lạ
với ba thân: Pháp thân như "tâm" của Thượng đế.
Báo thân như năng lực phúc lạc của Thượng đế
(Ananda) và Ứng hóa thân như các hình thái biểu
hiện của Thượng đế. Ba đặc tính và năng lực của
Thượng đế được biểu tượng hóa qua các hình tượng
vĩ đại 3 mặt của "Trời Đế Thích" đền Angkor hay
tượng thần Shiva 3 mặt trong động Voi ở Ấn Độ.
Các hình tượng 3 mặt hay 3 đầu là biểu trưng 3
mặt của tuyệt đối giống như giáo lý 3 thân trong
Phật giáo và cũng bao gồm các ý niệm về sự toàn
năng, toàn tri, toàn thông, toàn giác, vô sở bất
tại, sự vĩ đại và tính thiêng liêng bất khả tư
nghì.
* Ánh sáng của chân lý Trung Ấm trong
tiến trình sáng tạo và diễn đạt nghệ thuật
Mỗi hành vi nghệ thuật cá nhân, mỗi biểu
hiện của óc sáng tạo từ các lĩnh vực âm nhạc,
nghệ thuật, thi ca... đến các lĩnh vực phát huy
khoa học... đều xuất phát từ nền tảng huyền bí
của một nguồn cảm hứng nhờ vào một năng lực
trung gian để phiên dịch, truyền thông và cuối
cùng biểu hiện thành các loại hình nghệ thuật
sáng tạo hay các phát minh khoa học. Trong vấn
đề này, hình như ta đang gặp lại một tiến trình
hỗ tương 3 giai đoạn của tiến trình chết. Điều
gì khiến cho một số công trình thi ca, âm nhạc,
kiến trúc hay phát minh khoa học trở nên vĩ đại,
bất hủ hay có một ý nghĩa vô tận? Điều gì giải
thích được vấn đề năng lực mà chúng tỏa ra có
thể dẫn dắt tâm hồn chúng ta đi vào một trạng
thái quán tưởng về phúc lạc hay về một chiều
hướng mà bản chất của ta và bản chất thực tại
được hiển lộ? Có thể nói những người xuất chúng
làm công tác văn học nghệ thuật, những khoa học
gia lỗi lạc... là các ứng hóa thân hay hiện
tướng ứng hóa của bardo tái sanh của những linh
hồn giác ngộ ở một mức độ nào đó mà sự diệu dụng
của tâm giác ngộ đó được áp dụng để làm lợi lạc
và cảm hứng cho nhân loại qua những loại hình
văn học nghệ thuật hay các lĩnh vực khoa học.
Tuy các khoa học gia lỗi lạc hay những nghệ sĩ
vĩ đại không phải thực sự là những bậc giác ngộ
rốt ráo - điều này được chứng minh qua cuộc sống
thực của họ - nhưng có thể nói, năng lực và bản
chất của thiên tài nghệ thuật cũng có cùng một
nguồn cảm hứng tối hậu phát xuất từ "trọng tâm
của một chân lý tuyệt đối" - Pháp thân hay ánh
sáng căn bản. Khi nghe những bản hòa tấu tuyệt
vời của Beethoven hay Mozart, hình như hồn ta
như bay vào một cõi giới nào khác. Có ai ngắm
những ngôi giáo đường của Âu châu thời trung cổ
như giáo đường Chartres, thánh đường Isfahan của
hồi giáo, Đế Thiên Đế Thích, hang Ellora của Ấn
giáo... mà không khỏi thắc mắc về năng lực vĩ
đại của các nhà xây dựng thiên tài có nguốn gốc
xuất phát từ "tâm lực uyên nguyên" - nền tảng
suối nguồn của mọi tạo tác? Một tác phẩm nghệ
thuật vĩ đại cũng như vầng trăng chiếu sáng
trong bầu trời đêm; nó chiếu sáng thế gian,
nhưng ánh sáng ấy không là của riêng nó, mà mượn
từ mặt trời, cái "tuyệt đối" đang bị ẩn khuất.
Mục đích cao cả và chân thực của nghệ thuật là
đem lại cho người thưởng thức một tri kiến về
bản chất thực của họ, về địa vị của họ trong vũ
trụ, làm cho họ thấy được giá trị, ý nghĩa và
những khả tính vô biên của đời sống. Cho nên, ý
nghĩa đích thực của kiệt tác nghệ thuật là năng
lực bất tận đầy phúc lạc như Báo thân hay bardo
pháp tánh. Đó là năng lực bất tận đầy phúc lạc
mà Rilke gọi là "năng lực chắp cánh của niềm vui",
tia sáng truyền đạt tính thuần tịnh và ý nghĩa
vô biên của "sự tuyệt đối - Phật tánh" sang thế
giới nhị nguyên hữu hạn tương đối của Ứng hóa
thân trong chính mỗi đối tượng chiêm ngưỡng.
Khi quan sát mọi khía cạnh của đời sống
trong dòng biến dịch vô thủy vô chung, ta nhận
thấy ta đã, đang và sẽ trải qua một cách liên
tục và xoay vần 3 giai đoạn của tiến trình chết
trong các trạng thái khi ngủ, khi mộng, khi thức
với sự vận hành của các ý tưởng và cảm xúc. Vậy
thì cứu cánh rốt ráo của sự nhận chân tính chất
phổ quát của tiến trình chết 3 giai đoạn trong
dòng biến dịch sanh-tử là gì? Sự nhận chân cho
ta thấy chính tính chất, hình dạng và sự độc đáo
của tiến trình này có thể đem lại cho ta vô vàn
cơ hội để giải thoát - trong lúc đang sống cũng
như khi chết - hoặc là vô vàn khả năng để ta
tiếp tục mê lầm, trôi lăn trong vòng luân hồi
sanh tử; vì mỗi khía cạnh của toàn thể tiến
trình đều đồng thời trao cho ta cơ hội giải
thoát hoặc cơ hội trầm luân.
Tính chất phổ quát của tiến trình chết 3
giai đoạn giúp mở ra cho chúng ta một cánh cửa
để thoát khỏi chu kỳ chết và tái sinh bất tận
của con người. Điều cốt lõi là trong suốt quá
trình các Trung Ấm (3 hình thái bardo) của cuộc
đời ta đang sống và của sự chết, mỗi khi ta có
thể nhận ra và duy trì một ý thức bền bỉ về tính
giác hay tự tâm, hoặc khi ta có thể kiểm soát
tâm ý được phần nào, thì ta có thể đi qua cái
cửa đó để tiến đến giải thoát. Tóm lại, điều mà
tính chất phổ quát của tiến trình chết 3 giai
đoạn dạy ta là: những gì xảy ra trong tâm ta bây
giờ trong cuộc sống hiện hữu cũng giống hệt như
cái gì sẽ xãy đến trong các Trung Ấm sau khi
chết, vì bản chất cốt tủy của sống và chết vốn
không có khác nhau. Sống và chết là một, là một
nguyên lý bất nhị ở trong cái "toàn thể không
gián đoạn" của dòng biến dịch vô thủy, vô chung.