Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người 
làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội, như Phật đà 
từng hướng dẫn phép trị nước cho các vị vua Tần-bà-sa-la, Ba-tư-nặc, 
A-xà-thế…, đó là “đạo đức chính trị”; Ngài giảng dạy và truyền thụ những
nguyên tắc sống chung trong cùng một gia đình cho Thiện Sinh Tử, Ngọc 
Da Nữ, chính là “đạo đức gia đình”; Phật đà từng dùng thi kệ khuyên dạy 
cách tiêu xài đồng tiền, đại để nói rằng: vốn liếng, của cải kiếm được 
của mình nên chia làm bốn phần, một phần gọi là phí dụng hàng ngày trong
gia đình, một phần dự trữ để dự phòng nhỡ có xảy ra bất trắc gì, một 
phần giúp đỡ bà con quyến thuộc hay những thân hữu, một phần bố thí vun 
đắp phước đức”, chỉ dẫn người đời sử dụng đồng tiền đúng đắn, chính là 
“đạo đức của cải”.
Chuẩn mực đạo đức Phật giáo, bao hàm các quy phạm luân lý của thế 
gian, cả đến tu hành thánh hiền xuất thế gian. Nay lược bàn chuẩn mực 
đạo đức Phật giáo như sau:
Ngũ giới, Thập thiện 
Ngũ giới của Phật giáo là “đạo đức căn bản” làm người, nên phải tuân 
thủ giữ gìn; Thập thiện là “đạo đức tăng thượng” tịnh hóa nội tâm, thăng
hoa nhân cách; nhân quả nghiệp báo là “đạo đức thiện ác” bất biến của 
thế gian. Hình phạt nghiêm khắc, cố nhiên có thể nhận được tác dụng tích
cực nhất thời, nhưng vốn không phải là cách làm rốt ráo. Phật giáo lấy 
Ngũ giới, Thập thiện xem là chuẩn mực đạo đức nhân bản, khởi xướng “chớ 
làm các việc xấu, hãy làm những việc tốt”, không xâm phạm thân thể, tiền
của, danh dự, tôn nghiêm của người khác, sửa đổi triệt để lòng người, 
khiến nhân luân cương thường có trật tự, làm cho nếp sống xã hội trở nên
lương thiện. Ngũ giới, Thập thiện chính là chuẩn mực đạo đức của Phật 
giáo.
Giúp đời lợi người
 Chư Phật, Bồ tát tùy loại ứng hóa, lợi ích chúng 
sinh, tinh thần giúp đời lợi người, chính là chuẩn mực phù hợp với Phật 
giáo. Ở mọi ngành nghề cũng cần có lòng cứu đời giúp người, giống như 
thầy/cô giáo cần phải có trách nhiệm “giảng dạy, truyền đạt kiến thức, 
giải thích các vấn đề nghi hoặc”; nhân viên điều dưỡng cần có đạo đức 
cứu đời “thị bệnh như thân, cứu nhân nhất mạng”; công nhân cần tích cực 
làm việc, lấy sản xuất báo ơn quốc gia; thương nhân cần mua bán kinh 
doanh hợp pháp, không được lấy của cải không phải của mình; quân nhân vì
bảo vệ sự an toàn cho nhân dân toàn quốc, phải anh dũng chiến đấu, 
chống lại sự xâm lược của kẻ thù. Cũng chính là, mỗi một người, có thể 
xả bỏ sự cố chấp ích kỷ, noi theo tinh thần cổ đức tiên hiền, tức “lo 
trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau niềm vui của thiên hạ”, hay tinh thần
Bồ tát “nếu còn một người chưa độ, thì bản thân nhất định không được 
lẩn trốn”, để giúp đời lợi người. Giúp đời lợi người chính là chuẩn mực 
đạo đức của Phật giáo.
Bát nhã không tuệ 
Bồ tát lấy Lục độ(2) làm chiếc thuyền để tự độ và độ người. Điều mà 
người ta gọi là “Ngũ độ(3) như mù, Bát nhã như mắt sáng”, nghĩa là, 
chúng ta nếu không có bát nhã trí tuệ nhạy bén, thì cho dù có hành trì 
(Ngũ độ) bao nhiêu, vẫn là nằm trong vòng phước báo hữu vi không sao 
tránh khỏi năm biểu hiện của tướng suy(4), không phải là con đường giải 
thoát niết bàn chân chính. Ví dụ, sự bố thí của Phật giáo là muốn con 
người học tập buông bỏ tư niệm bủn xỉn, keo kiệt, nhưng nơi đến bố thí, 
cần phải thanh tịnh, không được vi phạm pháp luật nhà nước, đồng thời 
người bố thí tâm không kiêu căng, ngạo mạn, người được nhận phải biết 
cám ơn, là sự bố thí thanh tịnh “năng thí, sở thí và vật thí, vô sở đắc –
không mong cầu trong tam thế – quá khứ, hiện tại và tương lai; tâm tối 
thắng mà chúng ta an trú, cúng dường tất cả mười phương Phật”. Ngoài ra,
trì giới không sát sinh, không nói dối, không tà dâm, không trộm cắp, 
không uống rượu, v.v… cố nhiên là giáo pháp của Phật (Phật pháp), nhưng 
“giết một cứu một trăm”(5) của Phật đà, “uống rượu cứu người”(6) của phu
nhân Mạt-lợi, chuyện “xử lý (tình huống) ở rể”(7) của Hòa thượng Nhất 
Hưu, “đốt Phật sưởi ấm”(8) của Thiền sư Đan Hà, “dạy tên trộm cách ăn 
trộm”(9) của Thiền sư Thạch Ốc, v.v…, cũng đều là Phật pháp. Từ bi dịu 
dàng cũng là Phật pháp, nhưng những tiếng va đập chát chúa của gậy, 
tiếng quát mắng, tiếng nện gõ của chiếc kìm, khiến cho học tăng tiệt 
đoạn vọng tưởng (mơ mộng hão huyền), nhận biết bản lai diện mục (diện 
mạo vốn có), cũng là từ bi. Vì vậy, Phật pháp, có lúc không phải là Phật
pháp; không phải là Phật pháp, có lúc lại là Phật pháp. “Bát nhã không 
tuệ” của Bồ tát, có khả năng làm cho chúng ta bố thí mà vẫn hỷ xả không 
nghĩ đến sự bố thí, trì giới mà không chấp vào giới tướng, nhẫn nhục xa 
rời ngã chấp, tinh tiến không sinh kiêu mạn, tu thiền không lưu luyến 
định cảnh.
Kinh Kim Cang nói: “Tâm Bồ tát hành bố thí mà không trụ ở 
pháp, như người có mắt, nhật quang chiếu rọi, thấy muôn vàn sắc màu”. Đã
có Bát nhã không tuệ tợ đôi mắt sáng rồi, thì việc ứng xử tự nhiên có 
thể không còn tâm so sánh “bạn lớn tôi nhỏ, bạn có tôi không, bạn sướng 
tôi khổ” nữa; Bát nhã không tuệ cũng giống như “từ mẫu” (người mẹ hiền),
đối đãi tất cả chúng sinh như những đứa con ruột thịt, đối với những 
khó khăn gian khổ ấy tự nhiên có sự đồng cảm không lìa xa; Bát nhã cũng 
giống như “ánh sáng” trong căn phòng tăm tối, có thể chiếu soi màn đêm 
vô minh đang cư ngụ trong con tim diệu vợi của chúng ta, làm tan biến 
những đối xử phân biệt, tâm không bị khổ lạc làm nao núng, chuyển phàm 
tình (tình cảm thế gian) chấp trước thành tình yêu rộng lớn (từ bi) đối 
với chúng sinh. Bát nhã có khả năng tịnh hóa tư tưởng của chúng ta, nâng
cao đạo đức của chúng ta, một khi có Bát nhã không tuệ, thì vui-khổ là 
đồng thể, sạch-nhơ là nhất như, giàu-nghèo có thể tự tại, có-không có 
thể bình đẳng, như trong kinh Bát Đại Nhân Giác nói: “Tâm niệm luôn biết
đủ, an vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy trí tuệ làm sự nghiệp”. Hàng phục 
tâm ấy (kỳ tâm) như thế bằng Bát nhã không tuệ, “tất cả muôn loài chúng 
sinh, đều khiến đi vào Vô dư Niết bàn mà diệt độ”. Bát nhã không tuệ 
đích thực là chuẩn mực đạo đức của Phật giáo.
Chuẩn mực đạo đức của Phật giáo, lấy quy tắc (quy phạm) Ngũ giới Thập
thiện, hoàn thiện nhân cách; lấy việc cứu đời giúp người của thánh 
hiền, để thăng hoa đạo đức; lấy Bát nhã không tuệ của Bồ tát, để minh 
tâm kiến tánh. Thêm nữa, trong cuộc sống hiện thực, tam học giới định 
tuệ, bốn loại chính niệm, tám loại chính đạo, cũng là lương dược có khả 
năng trị liệu căn bệnh thâm căn cố đế tham lam và sân hận của chúng ta, 
có khả năng khiến cho thân tâm chúng ta thanh tịnh, đạo đức đạt đến viên
mãn. Luận một cách ngắn gọn rằng, phàm xuất phát tình yêu rộng lớn từ 
lợi ích cộng đồng, đồng thời không đi ngược với lễ pháp (phép tắc, kỷ 
cương) của thế gian và tinh thần đại thừa nhiêu ích hữu tình của Bồ tát,
thì đều phù hợp với chuẩn mực đạo đức của Phật giáo. Ví dụ: Bố thí kết 
duyên, không nhớ nghĩ điều ác cũ, hổ thẹn mỹ đức, giữ gìn lục căn (mắt, 
tai, mũi, lưỡi, thân và ý), “bạn chưa mời mà tự đến”(10), phương tiện 
quyền xảo, lợi lạc hữu tình (làm lợi ích cho chúng sinh), phổ đồng cúng 
dường (cúng dường, bố thí rộng khắp cho tất cả chúng sinh), bốn ơn phải 
báo đáp(11), hoằng pháp lợi sinh, tôn trọng bao dung, tâm ý dịu dàng ôn 
hòa, ái ngữ ngợi khen, giữ gìn chính niệm, v.v…, đều là chuẩn mực đạo 
đức thanh tịnh thiện mỹ của Phật giáo. Ngoài ra, học tập đại từ, đại bi,
đại trí, đại nguyện, đại hạnh của Phật và Bồ tát, phát Bồ đề tâm, không
quăng bỏ sự cứu độ chúng sinh đang trôi lăn trong ngũ nghịch(12) thập 
ác(13), đây chính là đạo đức viên mãn, cứu cánh nhất của Phật giáo. n
(Theo Tinh Vân, Phật học giáo khoa thư, Nxb. Từ Thư Thượng Hải, 2008, tr.97-99)
 
Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ Số Vu Lan 185 / Tuyển Tập Vu Lan TVHS
 
 
Các chú thích 5, 6, 7, 8 và 9 là của nguyên tác. Phần chú thích còn lại, là do người dịch thêm vào.
(1) Tứ duy, chỉ: lễ, nghĩa, liêm và sỉ; Bát đức, chỉ: trung, hiếu, nhân, ái, tín, nghĩa, hòa và bình.
(2)  Lục độ gồm: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và bát nhã/trí tuệ.
(3) Ngũ độ gồm: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến và thiền định
(4) Thiên nhân lúc sắp chết, thì hiện ra năm tướng suy. Về
thuật ngữ này, trong kinh luận Phật giáo thấy có nhiều thuyết khác 
nhau. Ở đây, chúng tôi chỉ dựa vào kinh Niết bàn liệt kê năm 
tướng suy đó như sau: Một là, y thường cấu nhị, tức y phục dơ bẩn; hai 
là, đầu thượng hoa ủy, tức cái mũ hoa trên đầu khô héo; ba là, thân thể 
xú uế, tức thân thể có mùi hôi; bốn là dịch hạ hãn xuất, tức nách chảy 
mồ hôi; năm là, bất lạc bổn tọa, tức chỗ ngồi không vui.
(5) Xem Sát thân tế cổ kinh trong Lục độ tập kinh.
(6) Xem Chân chính đích giới luật trong “Tu tiễn sinh mệnh đích hoang vu”, Thời báo Văn hóa xuất bản, tr.140,
(7) Xem Tinh Vân Thiền thoại (tập 2), Phật Quang Văn Hóa xuất bản, tr.84.
(8) Xem Cảnh đức truyền đăng lục, quyển 14 in trong Thiền tạng thuộc Phật Quang đại tạng kinh, tr.733.
(9) Xem Tinh Vân Thiền thoại (tập 1), Phật Quang Văn Hóa xuất bản, tr.160.
(10)  Nguyên văn là Bất thỉnh chi hữu – 不請之友,
ý ví như chư Bồ tát, chúng sinh khi gặp nạn chưa kịp khẩn cầu, nhưng 
các Ngài vì lòng thương yêu rộng lớn mà đến hóa độ, trao truyền thiện 
pháp.
(11) Chúng ta sinh tồn ở thế gian này, những ơn đức mà 
chúng ta tiếp nhận, chủ yếu có bốn loại: ơn cha mẹ, ơn chúng sinh, ơn 
quốc gia, và ơn Tam bảo, hợp lại gọi chung là Tứ ân tổng báo, tức bốn ơn
đó cần báo đáp.
(12) Ngũ nghịch là tội nặng nhất trong tất cả ác nghiệp 
của Phật giáo. Nghịch, nghĩa là trái với luân thường đạo lý, tội cực 
lớn. Năm tội ấy được Phật liệt kê như sau: Giết cha, giết mẹ, giết bậc 
A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, phá hoại hòa hợp Tăng. Người mắc năm 
tội này, sẽ rơi vào Vô gián địa ngục (cũng gọi là Địa ngục A-tỳ).
(13) Thập ác gồm: (1) sát sinh, (2) thâu đạo (trộm cắp), (3) tà dâm, 
(4) vọng ngữ, (5) lưỡng thiệt, tức nói lời ly gián, lời không có tính 
xây dựng, (6) ác khẩu, tức ác ngữ, ác mạ, chửi bới, (7) ỷ ngữ, tức lời 
tạp uế, (8) tham dục, (9) sân nhuế (sân hận/căm ghét), (10) tà kiến, tức
cái nhìn lệch lạc.