Tiêu chuẩn về đạo đức
Đạo đức học là môn học có mục đích tìm
ra cái gì là cái cần làm, cái gì là cái không nên làm, không được làm.
“What is the right thing to do?”. Khi nói đến đạo đức học tiêu chuẩn
“normative ethics”, thì chúng ta phải nói tới tiêu chuẩn khổ - vui.
Những cái gì đem lại cái khổ thì chúng ta không nên làm. Những cái gì
đem lại cái vui thì ta có thể làm. Đó là một trong những tiêu chuẩn.
Nhưng tiêu chuẩn đó không tuyệt đối. Có những cái nhìn qua thì tưởng là
khổ nhưng kỳ thực nó không phải là khổ. Tùy theo cách nhìn của mình mà
cái đó là khổ hay không. Ví dụ như chuyện đi học. Có nhiều đứa trẻ đặt
câu hỏi rằng: “Tại sao ngày nào cũng phải đi học? Chán quá!”. Nhưng đứa
khác lại nói: “Ôi, được đi học, sướng quá!”. Thành ra cái khổ và cái vui
không có giá trị tuyệt đối, nó tùy theo cái tâm của mình.
Khi
uống rượu hay sử dụng ma túy thì có vui đấy chứ. Nó đem lại cảm giác
khoái lạc. Cái đó là vui. Nhưng cái đó mình có nên làm hay không? Tại vì
cái đó sẽ đem tới đau khổ trong tương lai. Vì vậy tiêu chuẩn về cái vui
cần phải xét lại. Chữ khổ và vui chỉ có nghĩa tương đối.
Có những học thuyết đạo đức nói rằng cái
gì đem lại hạnh phúc thì hành động đó là hành động đúng, cái gì đem lại
những khổ đau thì hành động đó là sai, không nên làm. Chuyện khổ vui là
như vậy. Nhưng nội một chuyện định nghĩa thế nào là khổ, thế nào là vui
cũng khó. Rồi còn cái khổ, chính bản thân cái khổ cũng là một yếu tố,
làm nên cái vui. Chúng ta đã học về lý thuyết tương tức rồi. Làm sao có
được cái vui nếu không có khổ? Làm sao có cái phải nếu không có cái
trái? Làm sao có cái sống nếu không có cái chết? Không có bùn thì không
thể có sen. Vì vậy cho nên cái khổ đau đóng một vai trò khá là quan
trọng để tạo ra niềm vui. Ví dụ như không bị đói thì mình không thể nào
thấy được cái hạnh phúc khi ngồi vào mâm cơm có đầy thức ăn ngon. Phải
đói ăn mới ngon.
Có những thanh niên lớn lên chưa biết
chiến tranh là gì, nên không biết sợ chiến tranh, thành ra sẵn sàng để
gây chiến. Nhưng những người đã đi qua chiến tranh rồi thì thấy rõ ràng
rằng chiến tranh là một cái không bao giờ nên có. Và những người ấy họ
rất trân quý hòa bình. Vì vậy cho nên mỗi khi đi ngang qua một khổ đau
thì người ta lớn lên một chút và người ta có khả năng nhận diện được
hạnh phúc. Cho nên cái khổ cũng có giá trị tích cực của nó. Khổ đau cho
ta những bài học rất giá trị. Chính nhờ khổ đau mà mình có thể phát khởi
hiểu biết và thương yêu. Nếu không có hiểu và không có thương thì không
thể nào có hạnh phúc được. Đó là cái thấy tương tức của đạo Bụt. Do đó,
tiêu chuẩn về khổ vui không đủ để tạo dựng một nền đạo đức vững chãi.
Lợi và hại
Tiếp
đến chúng ta bàn tới tiêu chuẩn lợi và hại. Cái gì có hại tới sức khỏe,
có hại tới niềm an vui của mình thì cái đó không nên làm. Có phải chúng
ta nghĩ như vậy không? Trong đạo Bụt, khi nói tới lợi hại tức là nói
tới cái lợi và cái hại cho chuyện tu học. Ví dụ hoàn cảnh giúp cho mình
có được chánh niệm, chánh định, có trí tuệ thì được gọi là lợi. Còn sống
trong hoàn cảnh khiến cho mình bị thất niệm, làm cho mình chất chứa
những tà kiến thì đó gọi là hại. Thành ra tiêu chuẩn lợi và hại tới có
thể bổ túc được cho tiêu chuẩn khổ và vui. Nếu cái khổ đó có lợi cho
mình thì tại sao mình không chấp nhận nó? Khi mình chấp nhận nó rồi thì
cái khổ không có làm gì cho mình bị khổ nữa.
Ví dụ như chuyện leo núi. Có những người
không thích, họ nói: tại sao phải đày đọa thân mình như thế, tại sao
phải bỏ thời gian leo lên tận đỉnh ngọn núi, mệt phờ cả người, áo quần
rách, mình mẩy lấm lem. Sao không ở nhà mà xem ti-vi cho khỏe? Đối với
những người ấy thì leo núi là không có lợi. Ở nhà có lợi hơn. Nhưng đối
với những người thích leo núi thì họ lại hạnh phúc vô cùng. Tại vì tuy
mệt nhưng họ thấy khỏe trong người. Đối với họ thì leo núi là có lợi.
Ban đầu thấy ăn chay khổ quá, tại sao
phải ăn chay? Nhưng nếu ăn chay với trí tuệ thì mình thấy ăn chay hạnh
phúc hơn ăn mặn nhiều. Khi ăn chay ta bảo vệ được sinh mạng, bảo vệ được
trái đất, thấy như vậy thì ăn chay không cảm thấy khổ nữa, mà ăn chay
lại là một niềm vui, một điều may mắn. Hơn nữa, khi ăn chay một thời
gian mình quen với thức ăn chay, khi ấy mình lại thấy thức ăn mặn rất là
tanh và không thể ăn được. Thành ra tất cả mọi tiêu chuẩn đạo đức học
đều tương đối, tiêu chuẩn lợi hại tới bổ túc cho tiêu chuẩn khổ vui.
Mê và ngộ
Bây
giờ mình nói đến tiêu chuẩn mê - ngộ. Đây là những tiêu chuẩn của đạo
Bụt đưa ra. “Mê” tức là mình đang không tỉnh táo, sáng suốt. Khi không
tỉnh táo, sáng suốt thì những quyết định của mình có thể là sai lầm. Ví
dụ có lần giận con quá, mình đã làm di chúc là sau khi mình chết đứa con
này sẽ không được hưởng một chút gia tài nào của mình hết. Nếu viết di
chúc trong cơn thịnh nộ như vậy thì đó là một quyết định mù quáng và con
cháu sẽ lãnh đủ. Cho nên không được đưa ra một quyết định nào trong lúc
nóng giận. Hoặc nếu mình không đang giận thì mình đang đam mê, vì đam
mê cờ bạc mặc cho tương lai vợ con sẽ ra đường. Những quyết định trong
lúc không tỉnh táo ấy sẽ làm hại cả cuộc đời mình.
Khi đang ở trong trạng thái mê thì cái
thấy của mình về lợi - hại, khổ - vui sai lầm vô cùng. Vì vậy chúng ta
phải lấy tư tưởng này làm một tiêu chuẩn quan trọng. “Ngộ” tức là khi
mình tỉnh táo, mình có chánh kiến, thấy biết sự thật một cách rõ ràng,
khách quan. Đây là một tiêu chuẩn, nó tới, giúp bổ túc cho hai tiêu
chuẩn đầu là khổ - vui và lợi - hại.
Khai và giá
“Khai” tức là mở cửa ra. “Giá” tức là
chặn đường lại. Hai chữ này là những thuật ngữ trong đạo Phật. Bất cứ
một luật lệ nào, một tiêu chuẩn đạo đức nào cũng không thể tuyệt đối
được. Vì vậy phải có “Khai”, tức là dành cho những trường hợp đặc biệt.
Ví dụ như không nói dối là tiêu chuẩn đạo đức. Nhưng nếu có tên sát nhân
hỏi mình “Có thấy người đó trốn ở đây không?”. Nếu mình nói là biết và
chỉ cho tên sát nhân thì người kia đã bị giết rồi. Trong trường hợp này
nếu nói ra sự thật như vậy thì không đúng về đạo đức. Tuy thật thà là
tiêu chuẩn về đạo đức, nhưng thỉnh thoảng cũng phải “Khai”, đối với
những trường hợp đặc biệt cũng phải nói dối.
Có nhiều trường hợp như những căn bệnh
không thể chữa được, bệnh nhân phải sống hết sức đau đớn trong những cơn
đau kéo dài khổ sở khôn cùng và họ muốn chấm dứt đau khổ, họ muốn được
chết mau, chết không đau đớn. Nhưng vì theo luật gọi là bất sát nên mình
nhất định không giết. Vấn đề là “Khai”, có nên mở cửa không? Có nên để
người đó chết hay không? Đây là vấn đề đang xảy ra ở nhiều nước. Hiện
nay trên thế giới chỉ có ba đến bốn nước cho phép điều đó. Tất cả các
nước khác đều không cho phép chích thuốc để bệnh nhân chết không đau
đớn. Tại vì họ sợ rằng khi mở ra như vậy người ta sẽ lợi dụng và đi quá
đà.
Đối
với vấn đề phá thai, Giáo hội Cơ Đốc, Giáo hội La Mã vẫn có một lập
trường rất vững chãi. Tại vì phá thai tức là giết người. Có một giai
đoạn Giáo hội Công giáo nghĩ ra rằng khi cái thai còn nhỏ chưa hẳn là
một con người thì có thể phá được. Nhưng tới một giai đoạn khác người ta
bắt đầu nghĩ, tuy cái thai mới tượng hình nhưng đã có con người trong
đó rồi, cho nên phá thai tức là giết người. Hiện tại lập trường của Giáo
hội là phá thai tức giết người, là không thể được. Trong khi đó, đi
lính, ra trận để tham dự cuộc chiến tranh thì lại không bị cấm? Ra trận
cũng là chuyện giết người. Còn chuyện kiểm soát sinh nở thì nói là chống
lại ý muốn của Chúa, của Thượng đế. Thượng đế muốn thì phải để tự
nhiên. Vì vậy có một thời, chính ngay bây giờ cũng có rất nhiều người
chống lại chuyện kiểm soát sinh nở. Và chúng ta biết rằng nạn nhân chính
là những đứa con sinh ra không được thừa nhận. Rồi khi chúng lớn lên bị
xã hội hắt hủi, ghẻ lạnh. Những người con trai Mỹ đi công tác ở các
nước châu Á để lại rất nhiều đứa con vô thừa nhận ở Cao Ly, Nhật Bản,
Việt Nam và ở các nước khác. Ngay trên đất Mỹ, mỗi năm có hàng trăm ngàn
đứa trẻ sinh ra không được thừa nhận. Bố nó không thừa nhận mà mẹ nó
cũng không muốn giữ lại nuôi. Có thể từ 250.000 đến 350.000 mỗi năm.
Trong khi đó thì cấm không có được kiểm soát sinh nở? Thành ra tất cả
những vấn đề đó là những vấn đề có thật trong thế giới của mình. Và đạo
đức học của mình phải làm sao áp dụng được vào đời sống để làm giảm
thiểu những khổ đau chứ không chỉ là những lý thuyết suông.
Ngày xưa có chế độ đa thê. Tức là một
ông có nhiều bà. Ở Tây phương, theo nguyên tắc hình thức hơn, tức là một
ông chỉ có một bà. Nhưng có thể năng lượng tình dục mạnh quá, sự thực
tập không đàng hoàng, nên có những người có liên hệ vợ chồng, liên hệ
tình dục không chính thức. Vì vậy có rất nhiều những đứa con vô thừa
nhận. Những đứa trẻ không được bố công nhận, không được mẹ nuôi dạy mà
phải sống trong cô nhi viện rất nhiều.
Trong chế độ đa thê, nếu người vợ không
sinh được con, hoặc không sinh được con trai thì bà phải cưới cho chồng
một người vợ thứ hai, thứ ba… Tuy là đứng về phương diện hình thức nó
mang tính cách đa thê. Nhưng ở đây không có những đứa trẻ vô thừa nhận.
Đó là những vấn đề có thật trong xã hội mà đạo đức học của mình phải
trực tiếp giải quyết. Gọi là đạo đức học ứng dụng. Tức là đạo đức học
đem ứng dụng vào những trường hợp cụ thể như vậy.
Ví dụ trong giải quyết vấn đề những
người đồng tính luyến ái. Lâu nay, Giáo hội Công giáo có một lập trường
rất cứng. Cho rằng tình dục giữa những người đồng tính là một cái gì rối
loạn. Theo cái thấy của nhà thờ thì những người đồng tính luyến ái
không nên có có tình dục đó. Quan niệm gần nhất của nhà thờ là những
người đồng tính từ khi sinh ra đã thế rồi và họ đâu có muốn như vậy.
Thành ra mình phải chấp nhận họ. Phía nhà thờ mới đi được tới chỗ đó
thôi. Còn chuyện những người đồng tính quan hệ tình dục với nhau thì nhà
thờ chưa chấp nhận. Khi những người đồng tính nói tới một cái quyền là
những người đồng tính có thể cưới nhau, có thể làm hôn thú đàng hoàng
thì Giáo hội nói rằng không, cái đó là không có đạo đức. Mà không có đạo
đức thì không có quyền làm. Lập trường của Giáo hội Công giáo hiện nay
đang là như vậy.
Ngày
xưa Aristotle khởi xướng lý thuyết gọi là Luật lệ thiên nhiên - Natural
law. Ông nói, bất kỳ cái gì ở trong vũ trụ cũng đều có một công dụng
hết. Ví dụ trời sinh ra cái răng để nhai thức ăn, sinh ra cái lưỡi để
nếm, sinh ra con mắt để nhìn. Sau này Giáo hội đã chấp nhận lý thuyết
đó. Nói rằng đó chính là Thượng đế đã sanh ra như vậy. Hỏi: “Thượng đế
sinh ra tình dục để làm gì?”. Trả lời một cách rất là dĩ nhiên: “Sở dĩ
con người có năng lượng tình dục là để có con, để có sự nối dõi. Tại vì
bất cứ một hiện tượng nào trong vũ trụ đều phải có một mục đích hết… Đó
là ý muốn của Thượng đế”. Vì vậy cho nên tình dục chỉ là để có con thôi.
Còn đối với những người đồng tính luyến ái bị lên án. Đó là lý luận của
nhà thờ trong một giai đoạn nào đó, của lịch sử. Và họ căn cứ trên cái
gọi là “luật tự nhiên”. Luật tự nhiên là bất cứ một hiện tượng nào trong
vũ trụ đều có một mục đích, có một công dụng rõ ràng. Cái răng để nhai,
con mắt để thấy thì tình dục để tạo ra em bé. Mà nếu tình dục không
phải để tạo ra em bé thì đó là sử dụng sai. Nhưng có những người họ lý
luận như thế này: con mắt là để thấy, nhưng có nhiều người dùng con mắt
trừng lên một cái để cấm đoán thì con mắt đó đâu phải để thấy, mà là để
cấm. Con mắt còn dùng để đưa tình, chứ con mắt đâu phải chỉ để thấy
không thôi. Vậy thì tình dục cũng thế. Tình dục, mục đích nó là làm ra
những đứa con nhưng mà tình dục cũng có thể dùng để bày tỏ tình cảm của
mình đối với một người mà mình rất thương yêu, coi người đó là người
mình tin tưởng nhất trên đời. Những người nghĩ như vậy họ chấp nhận
chuyện tình dục giữa những người đồng tính luyến ái. Cũng như là con mắt
cũng có thể để háy, để nguýt, để trừng trừng, để ngăn cấm… Cho nên
trong đạo Phật có rất nhiều không gian tại vì đạo Phật có chữ “Khai”.
Khai tức là khai mở, có những trường hợp đặc biệt mình có thể khai mở.
Trong những trường hợp đặc biệt mình có thể phá thai kiểm soát sinh nở
được. Có những trường hợp mà mình có thể giúp người kia chết một cách an
lành, có những trường hợp mình có thể nói dối. Nhưng tất cả những cái
đó đều phải làm trên căn bản của tình thương. Nếu không có tình thương,
nếu không theo tiêu chuẩn mê - ngộ, lợi - hại, khổ - vui thì mình không
thể làm được.